ĐỌC KINH THÁNH
THEO HƯỚNG THIÊNG LIÊNG
1. Kinh thánh được Thiên
Chúa linh hứng
Trong
thư thứ hai gửi cho Timôthê, người ta bắt gặp một câu nói nổi tiếng: "Tất
cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc
giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính" (2Tm 3,16).
Theo ngôn ngữ nguyên thủy, kiểu nói "được Thiên Chúa linh hứng" gồm một
chữ duy nhất, "theopneustos",
gồm cả từ Chúa (Theos) lẫn từ Thần Khí (Pneuma). Có hai ý nghĩa cơ bản : một nghĩa
được biết đến nhiều, nghĩa kia thường không được xem xét, mặc dù nó cũng quan
trọng không kém nghĩa đầu tiên.
Nghĩa
được biết đến nhiều nhất là nghĩa thụ động, các bản dịch hiện đại đều dùng :
Kinh Thánh "được Thiên Chúa linh hứng". Một đoạn khác trong Tân Ước
giải thích nghĩa này như sau: "Chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những
người (các tiên tri) đã nói theo lệnh của Thiên Chúa" (2Pr 1,21). Tóm lại,
đây là học thuyết cổ điển về sự linh hứng Kinh Thánh, một tín khoản như chúng
ta tuyên xưng trong kinh tin kính, qua câu: “Người (Chúa Thánh Thần) đã dùng
các tiên tri mà phán dạy".
Biến
cố linh hứng, tự nó là mầu nhiệm, chúng ta có thể biểu thị bằng những hình ảnh
của con người như sau : Thiên Chúa dùng ngón tay của Người – tức bằng thần lực
sống động là Thần Khí – “chạm vào” điểm ẩn giấu này, nơi thần trí con người mở
ra cho Đấng vô biên, và từ đó, "cú chạm" này – tự nó rất đơn giản và
tức thời như vốn có nơi Thiên Chúa là Đấng tạo ra nó – được khuếch tán như một
sự rung động âm vang trong tất cả các quan năng của con người – ý chí, trí khôn,
trái tim – được biểu lộ qua các khái niệm,
hình ảnh, lời nói.
Kết
quả mà chúng ta có được là một thực tại nhân- thần, có nghĩa là hoàn toàn thần
linh và hoàn toàn nhân loại, hai yếu tố liên quan mật thiết với nhau nhưng
không "lẫn lộn". Huấn Quyền của Giáo Hội – các thông điệp Providentissimus Deus của Đức Lêô XIII và
Divino afflante Spiritu của Đức Piô
XII – cho thấy hai yếu tố thần linh và nhân loại vẫn nguyên vẹn. Thiên Chúa là
tác giả chính, vì Người chịu trách nhiệm về những gì được viết ra, bằng cách
xác định nội dung nhờ hành động của Thần Khí. Tuy nhiên, văn sĩ thánh cũng là
tác giả, theo nghĩa riêng của từ này, vì ông cộng tác cách nội tại vào hành động
này thông qua hoạt động bình thường của con người, được Thiên Chúa dùng như một
dụng cụ. Theo các Giáo Phụ, Thiên Chúa giống như nhạc sĩ làm cho dây đàn rung lên
khi chạm vào chúng ; âm thanh hoàn toàn là tác phẩm của nhạc sĩ, nhưng sẽ không
có, nếu không có dây đàn.
Nói
chung, trên thực tế người ta chỉ nhấn mạnh một hiệu quả duy nhất của công trình
kỳ diệu này do Thiên Chúa làm ra : không có sự sai lầm trong Kinh Thánh, nghĩa
là Kinh Thánh không có sai lầm nào, nếu hiểu đúng thuật ngữ "sai lầm"
như là thiếu vắng sự thật có thể có nơi con người, trong một bối cảnh văn hoá
nhất định, có để ý đến thể loại văn chương được sử dụng, và do đó thích hợp với
người viết. Nhưng sự linh hứng Kinh Thánh không chỉ là sự không sai lầm của lời
Chúa (một điều gì đó tiêu cực) ; một cách tích cực, sự linh hứng xác định tính
chất vô tận của lời Chúa, sức mạnh và sức sống thần linh của lời Chúa, và chiều
sâu huyền diệu, mira profunditas, như
Thánh Augustinô nói
Như
vậy, chúng ta đang chuẩn bị để khám phá nghĩa khác của linh hứng trong Kinh Thánh.
Trên bình diện ngữ pháp, phân từ theopneustos
tự nó có nghĩa năng động, chứ không thụ động. Đôi lúc, chính truyền thống đã có
thể hiểu nghĩa năng động này. Theo thánh Ambrosiô, Kinh Thánh là "theopneustos", không chỉ vì “được Thiên
Chúa linh hứng", mà còn vì "thở ra Thiên Chúa", vì “phát tán
Thiên Chúa!”
Nói
về sáng tạo, Thánh Augustinô bảo rằng Thiên Chúa đã không rút lui sau khi đã tạo
dựng mọi loài, chúng từ Người mà đến thì vẫn ở lại trong Người. Đây là điều xảy
ra với những lời của Thiên Chúa : những lời đó từ Thiên Chúa mà đến thì vẫn ở
trong Người và Người ở trong những lời đó. Sau khi đã linh hứng Kinh Thánh, Chúa
Thánh Thần như bị giam giữ trong Kinh Thánh. Người ở đó và không ngừng làm Kinh
Thánh sinh động bằng hơi thở thần linh. Heidegger nói rằng "lời là nhà của
Hữu thể". Chúng ta có thể nói rằng Lời (với L viết hoa) là nơi ở của Thần
Khí.
Hiến
chế về Mạc Khải của Vatican II cũng lặp lại nguồn linh hứng này của truyền thống
khi nói rằng "được Thiên Chúa linh hứng (linh hứng thụ động!) và được ghi chép
một lần cho muôn đời, [Kinh Thánh] phân phát cách bất di bất dịch lời của chính
Chúa, và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Tiên Tri cùng các
Tông Đồ" (linh hứng năng động) (số 21).
2. Thuyết ảo thân và thuyết
Ebion về Kinh Thánh
Bây
giờ chúng ta phải đương đầu với vấn đề tế nhị nhất : làm thế nào tiếp cận Kinh Thánh
để Kinh Thánh thực sự "giải phóng" Thần Khí mà Kinh Thánh chứa đựng ?
Tôi đã nói Kinh Thánh là một thực tại nhân-thần, vừa thần linh vừa nhân loại.
Bây giờ, người ta chỉ có thể khám phá ra nội dung thần linh của mọi thực tại nhân-thần
(chẳng hạn Đức Kitô và Giáo Hội) qua yếu tố nhân loại. Người ta chỉ có thể khám
phá ra thần tính của Đức Kitô qua nhân tính cụ thể của Ngài.
Thời
Thượng cổ, những người theo thuyết ảo thân (docétisme) muốn tiến hành cách khác.
Họ coi thân xác Đức Kitô và những đặc tính nhân loại của Ngài chỉ là những
“dáng vẻ thuần túy bề ngoài” (dokein). Họ cũng làm mất đi thực tại sâu xa của Ngài,
và thay vì một Thiên Chúa hằng sống làm người, họ có ý tưởng sai lạc về Thiên
Chúa. Cũng theo cách đó, trong Sách Thánh, người ta không thể khám phá ra Thần
Khí mà không qua chữ viết. Chữ viết là đồ trang trí cụ thể thuộc con người bao
bọc lời Chúa, trong các sách khác nhau và nơi các tác giả được linh hứng. Người
ta chỉ có thể khám phá ra ý nghĩa thần linh chứa đựng trong Sách Thánh bằng
cách khởi đi từ ý nghĩa nhân loại, ý nghĩa mà các tác giả nhân loại như Isaia, Giêrêmia,
Luca, Phaolô, vv. muốn gán cho. Ở đây, người ta thấy biết bao nhiêu nỗ lực
nghiên cứu và tìm tòi chung quanh Sách Thánh là có cơ sở.
Nhưng
đó không phải là mối nguy hiểm duy nhất dành cho khoa chú giải Kinh Thánh. Trước
con người Đức Giêsu, không chỉ có nguy cơ của thuyết ảo thân, nghĩa là bỏ qua yếu
tố con người, còn có nguy cơ dừng lại ở yếu tố con người, chỉ nhìn thấy nơi Ngài
yếu tố con người và không khám phá ra chiều kích thần linh của Con Thiên Chúa. Nói
tắt là nguy hiểm của thuyết Ebion. Theo phái Ebion (những Kitô hữu gốc Do Thái),
Đức Giêsu chắc chắn là một tiên tri vĩ đại, vĩ đại nhất nếu muốn, nhưng không hơn.
Các Giáo Phụ gọi họ là "Ebionit" (từ chữ ebionim, những người nghèo), có nghĩa là nghèo trên bình diện đức
tin.
Đây
cũng là điều xảy ra với Kinh Thánh. Có một chủ thuyết Ebion về Kinh Thánh, với
xu hướng dừng lại ở từ ngữ, xem Kinh Thánh như một cuốn sách tuyệt vời, hay nhất
trong số những sách của con người nếu muốn, nhưng chỉ là cuốn sách thuần túy
nhân loại. Thật không may, chúng ta có nguy cơ chỉ thấy một chiều kích của Kinh
Thánh. Phá vỡ sự cân bằng ngày hôm nay không phải là thuyết ảo thân, nhưng là
thuyết Ebion.
Nhiều
nhà chuyên môn tự ý giải thích Kinh Thánh bằng cách chỉ sử dụng phương pháp lịch
sử và phê bình. Tôi không nói về các nhà chuyên môn vô tín, điều này là bình thường
đối với họ, nhưng về các nhà chuyên môn tự nhận là tín hữu. Sự tục hoá yếu tố
thiêng thánh chưa từng bao giờ được thể hiện một cách tế nhị như trong sự tục
hóa Sách Thánh. Nhưng tự phụ hiểu Kinh Thánh một cách thấu đáo, nghiên cứu Kinh
Thánh chỉ bằng dụng cụ phân tích lịch sử và ngữ học, thì cũng như tự phụ khám
phá ra mầu nhiệm Đức Kitô hiện diện thực sự trong Thánh Thể, dựa trên sự phân
tích hóa học của bánh được truyền phép! Phân tích lịch sử và phê bình, cho dù được
đẩy đến mức hoàn hảo tối đa, trong thực tế chỉ là bước đầu tìm hiểu Kinh Thánh,
tức là bước liên quan đến văn tự.
Đức
Giêsu long trọng quả quyết trong Tin Mừng là Abraham "đã nhìn thấy ngày của
Ngài" (x. Ga 8,56), Môsê "đã viết về Ngài" (Ga 5,46), Isaia “đã
thấy vinh quang của Ngài và đã nói về Ngài" (Ga 12,41), các tiên tri, các Thánh
Vịnh và tất cả Kinh Thánh nói về Ngài (x. Lc 24,27.44 ; Ga 5,39), nhưng hôm nay
có một vài chú giải khoa học do dự khi nói về Đức Kitô, thực tế không thấy Ngài
trong bất kỳ đoạn văn nào của Cựu Ước, hoặc ít ra không dám nói rằng mình thấy
Ngài vì sợ bị mất tư cách "trên bình diện khoa học".
Sự
bất tiện nghiêm trọng nhất của một khoa chú giải hoàn toàn khoa học là làm thay
đổi hẳn mối quan hệ giữa nhà chú giải và lời Chúa. Kinh Thánh trở thành một đối
tượng nghiên cứu mà người nghiên cứu phải "làm chủ". Đối diện với Kinh
Thánh, ông phải tỏ ra "trung lập" giống như bất kỳ nhà khoa học nào.
Nhưng trong trường hợp độc nhất này, không được phép giữ "trung lập"
và không được coi là "làm chủ" vấn đề ; đúng ra, phải để cho vấn đề
làm chủ mình. Suy cho kỹ, khi quả quyết một chuyên viên Kinh Thánh "làm chủ"
lời Chúa, thì đó gần như là một lời phạm thượng.
Hậu
quả của tất cả những điều đó là Kinh Thánh tự khép kín, "rút lui" vào
chính mình. Kinh Thánh lại trở thành cuốn sách được niêm ấn, cuốn sách bị tấm
màn che phủ. Như Thánh Phaolô nói, tấm màn này được "cất đi” trong Đức
Kitô, "khi người ta quay về với Chúa", nghĩa là khi người ta nhận ra Đức
Kitô trong các trang sách Kinh Thánh (x. 2Cr 3,15-16). Kinh Thánh cũng giống như
một số cây cực kỳ nhạy cảm, cụp lá xuống khi bị các vật thể lạ chạm vào, hoặc
giống như một số vỏ sò khép lại để bảo vệ ngọc trai bên trong. Ngọc trai của
Kinh Thánh là Đức Kitô.
Không
có lời giải thích nào khác cho nhiều cuộc khủng hoảng đức tin nơi các chuyên viên
Kinh Thánh. Khi người ta tự hỏi tại sao có sự nghèo nàn và khô khan về đường
thiêng liêng trong một số chủng viện và nơi đào tạo, người ta nhanh chóng thấy
rằng một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là cách dạy Kinh
Thánh. Giáo Hội đã sống và đang sống nhờ đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng.
Nếu chúng ta cắt kênh này, kênh đang nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, sự nhiệt
thành, đức tin, tất cả đều khô cằn và trì trệ. Người ta không còn hiểu được phụng
vụ, vì phụng vụ được xây dựng hoàn toàn dựa trên việc sử dụng Kinh Thánh theo
cách thiêng liêng, hoặc người ta sống nó như một khoảnh khắc tách khỏi việc đào
tạo cá nhân đích thực, và như phủ nhận những gì người ta đã học được hôm trước
trong lớp.
3. Thần Khí ban sự sống
Một
số nhà chú giải thời danh bắt đầu cảm thấy nhu cầu đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng
liêng và cùng với đức tin. Đây là dấu hiệu tràn trề hy vọng. Một trong số đó, cha
I. de la Potterie, đã viết rằng điều khẩn cấp là những người nghiên cứu và giải
thích Kinh Thánh một lần nữa phải quan tâm đến chú giải của các Giáo Phụ, để,
ngoài phương pháp của các ngài, khám phá lại tinh thần đã làm linh hoạt các
ngài, tâm hồn sâu xa đã gợi hứng cho chú giải của các ngài. Chúng ta phải học
cách giải nghĩa Kinh Thánh theo trường phái của các ngài, không chỉ về phương
diện lịch sử và phê bình, mà còn theo cùng một cách trong Giáo Hội và cho Giáo
Hội. Trong bộ sách lịch sử đồ sộ về cách chú giải thời trung cổ, cha H. de
Lubac đã nhấn mạnh đến sự mạch lạc, vững chắc và phong phú lạ lùng của việc chú
giải thiêng liêng được các Giáo Phụ thời Thượng cổ và Trung cổ thực hiện.
Nhưng
phải nói rằng trong lãnh vực này các Giáo Phụ chỉ áp dụng giáo huấn thuần túy
và đơn giản của Tân Ước (với những dụng cụ không hoàn hảo mà các ngài có). Nói
cách khác, các ngài không phải là những người khởi xướng, nhưng là những người
nối tiếp một truyền thống có Gioan, Phaolô và chính Đức Giêsu là những người
thiết lập, ngoài những vị khác. Những người này không chỉ liên tục đọc Sách Thánh
theo hướng thiêng liêng, nghĩa là ám chỉ đến Đức Kitô, nhưng còn biện minh cho cách
đọc này, nói rằng tất cả Kinh Thánh đều nói đến Đức Kitô (x. Ga 5,39), rằng
"Thần Khí Đức Kitô" hoạt động trong Kinh Thánh và ở nơi các tiên tri
(1Pr 1,11), rằng trong Cựu Ước, mọi sự đều được nói đến "bằng ngụ
ngôn", nghĩa là ám chỉ đến Giáo hội (x. Gl 4,24) hoặc "để răn dạy
chúng ta" (1Cr 10,11).
Do
đó, đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng không có nghĩa là đọc theo hướng
khuyến thiện, huyền bí, chủ quan hoặc, tệ hơn, theo trí tưởng tượng, đối nghịch
với việc đọc cách khoa học, là cách đọc khách quan. Ngược lại, đây là cách đọc khách
quan nhất có thể, vì dựa trên Thần Khí của Thiên Chúa, chứ không trên thần trí của
con người. Việc đọc Kinh Thánh cách chủ quan (dựa trên việc xem xét tự do) đã
lan truyền chính khi việc đọc theo hướng thiêng liêng bị bỏ rơi, và Kinh Thánh
là nơi mà việc đọc này đã bị bỏ rơi một cách rõ ràng nhất.
Đọc
theo hướng thiêng liêng là một điều rất chính xác và khách quan. Đó là đọc dưới
sự hướng dẫn hoặc dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng Kinh
Thánh. Nó dựa trên một biến cố lịch sử, tức là trên hành động cứu chuộc của Đức
Kitô, Đấng mà nhờ sự chết và sống lại, đã hoàn tất kế hoạch cứu độ, thực hiện mọi
hình ảnh và các lời tiên tri, mạc khải những mầu nhiệm ẩn giấu và trao chìa
khóa đích thực để đọc toàn bộ Kinh Thánh. Sách Khải Huyền diễn tả tất cả những
điều này bằng hình ảnh Con Chiên bị sát tế cầm cuốn sách trong tay và mở bảy ấn
(x. Kh 5,1tt).
Bất
cứ ai sau Ngài muốn tiếp tục đọc Kinh Thánh mà bỏ qua hành vi này, sẽ giống như
một nhạc sĩ tiếp tục đọc một đoạn nhạc với khóa "fa" sau khi nhà soạn
nhạc đã chuyển sang khóa "sol" : khi ấy mỗi nốt nhạc sẽ tạo ra âm
thanh giả. Bây giờ, Tân Ước gọi chìa khoá mới này là "Thần Khí" và
chìa khóa cũ là "văn tự", nói rằng văn tự hay chữ viết thì giết chết,
còn Thần Khí mới ban sự sống (2Cr 3,6).
Đối
nghịch "văn tự" và "Thần Khí" không có nghĩa là đối nghịch
Cựu Ước và Tân Ước, như thể Cựu Ước biểu thị văn tự, và Tân Ước biểu thị Thần
Khí. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là đối nghịch hai cách đọc khác nhau cả Cựu Ước
lẫn Tân Ước : cách đọc bỏ qua Đức Kitô và và cách đọc xem xét mọi sự dưới ánh
sáng Đức Kitô. Chính vì hai Giao Ước nói đến Đức Kitô mà Giáo Hội tôn trọng cả
hai.
4. Điều Thần Khí nói với
Hội Thánh
Đọc
theo hướng thiêng liêng không chỉ liên hệ đến Cựu Ước ; theo một nghĩa khác, nó
cũng liên hệ đến Tân Ước, vì Tân Ước cũng phải được đọc theo hướng thiêng liêng.
Đọc Tân Ước theo hướng thiêng liêng có nghĩa là đọc dưới ánh sáng của Chúa
Thánh Thần được ban cho Giáo Hội vào ngày lễ Ngũ Tuần, để dẫn Giáo Hội đến tất
cả sự thật, nghĩa là đến chỗ hiểu biết đầy đủ và thực hành Phúc Âm.
Chính
Đức Giêsu đã giải thích trước sự liên hệ giữa lời của Ngài và Thần Khí mà Ngài sẽ
gửi tới (mặc dù chúng ta không được nghĩ rằng Ngài đã nhất thiết làm như vậy
theo cách nói của Phúc Âm Gioan). Theo Gioan, Thần Khí sẽ "dạy và sẽ làm nhớ
lại" tất cả những gì Đức Giêsu đã nói (x. Ga 14,25), nghĩa là Người sẽ làm
cho tất cả được hiểu rõ, trong tất cả những hàm ý của nó. Người sẽ không “tự
mình nói” điều gì, nghĩa là Người sẽ không nói những sự gì mới liên quan đến điều
Đức Giêsu đã nói, nhưng, như chính Đức Giêsu nhấn mạnh, Người “lấy những gì của
Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,13-15).
Ở
đây chúng ta thấy cách đọc theo hướng thiêng liêng kết hợp và vượt qua cách đọc
theo khoa học như thế nào. Cách đọc theo khoa học chỉ biết một chiều hướng, chiều
hướng lịch sử. Quả thực nó giải thích những gì tiếp theo, dưới ánh sáng những
gì đã xảy ra trước đó ; giải thích Tân Ước dưới ánh sáng của Cựu Ước đi trước
nó, và giải thích Giáo Hội dưới ánh sáng của Tân Ước. Phần lớn nỗ lực phê bình
xung quanh Kinh Thánh là để làm sáng tỏ các giáo lý của Phúc Âm, dưới ánh sáng
của các truyền thống Cựu Ước, của khoa chú giải của các thầy thông giáo Do Thái,
v.v. ; tóm lại nó muốn tìm kiếm các nguồn (Kittel dựa trên nguyên tắc này, cũng
như nhiều tác phẩm Kinh Thánh khác).
Việc
đọc theo hướng thiêng liêng hoàn toàn công nhận giá trị của hướng tìm kiếm này,
nhưng thêm một hướng ngược lại. Hướng này giải thích những gì xảy ra trước dựa
vào những gì đến sau, giải thích lời tiên tri dựa vào sự hoàn tất, Cựu Ước dựa
vào Tân Ước và Tân Ước dựa vào Truyền thống của Giáo Hội. Trong lãnh vực này,
việc đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng chỉ được củng cố trong nguyên tắc
thông diễn của Gadamer về "lịch sử các hiệu quả"
(Wirkungsgeschichte), theo đó, để hiểu một bản văn, cần phải tính đến những hiệu
quả mà bản văn này đã tạo ra trong lịch sử, bằng cách hội nhập vào lịch sử này
và đối thoại với nó.
Chỉ
khi Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch của Người, mà chúng ta hiểu đầy đủ ý nghĩa
của những gì đã chuẩn bị và tiên trưng nó. Như Đức Giêsu nói, nếu người ta xem
quả biết cây, người ta không thể biết đầy đủ Lời Chúa trước khi thấy hoa quả mà
lời Chúa sản sinh ra. Nghiên cứu Kinh Thánh dưới ánh sáng của Truyền Thống cũng
gần giống như xem quả biết cây. Chính vì thế mà Origen nói rằng "nghĩa thiêng liêng là nghĩa
được Thần Khí ban cho Giáo Hội". Nó đồng hóa với việc đọc theo tinh thần Giáo
Hội hay với chính Truyền Thống, nếu chúng ta hiểu Truyền Thống không chỉ là những
tuyên bố long trọng của Huấn Quyền, mà còn là kinh nghiệm về học thuyết và sự
thánh thiện trong đó Lời Chúa như được nhập thể cách mới mẻ và được Chúa Thánh Thần
"giải thích" qua nhiều thế kỷ.
Vậy
điều chúng ta cần, không phải là một cách đọc theo hướng thiêng liêng, thay thế
khoa chú giải mang tính khoa học hiện nay bằng sự trở lại một cách máy móc với
khoa chú giải của các Giáo Phụ, mà đúng hơn, là một cách đọc theo hướng thiêng
liêng mới mẻ tương ứng với sự tiến bộ lớn lao được thực hiện bằng cách nghiên cứu
"văn tự". Tóm lại, vừa có một văn tự đã gợi hứng và đức tin nơi các Giáo
Phụ, vừa có tính nhất quán và nghiêm túc của khoa học Kinh Thánh hiện nay.
5. Thần Khi thổi từ bốn phương
Giữa
những đống xương khô nằm la liệt, tiên tri Edêkien nghe thấy câu hỏi: "Liệu
các xương này có hồi sinh được không? "(Ed 37,3). Chúng ta cũng đặt ra câu
hỏi tương tự ngày hôm nay : liệu khoa chú giải, từ lâu bị khuynh hướng ngữ học
làm cho khô cằn, sẽ có thể lấy lại được đà tiến và sức sống mà nó đã có vào những
lúc khác trong lịch sử Giáo Hội chăng? Sau khi nghiên cứu lịch sử lâu đời về khoa
chú giải Kitô giáo, cha de Lubac buồn bã kết luận : chúng ta hiện đang thiếu những
điều kiện để có thể làm sống lại cách đọc theo hướng thiêng liêng như cách đọc
của các Giáo Phụ ; chúng ta thiếu niềm tin mãnh liệt này, thiếu ý thức về sự viên
mãn và hiệp nhất mà các ngài có, vì vậy, ngày hôm nay muốn bắt chước sư táo bạo
của các ngài, sẽ gần như bị coi là phạm thánh, vì chúng ta thiếu tinh thần thúc
đẩy những việc này.
Tuy
nhiên, cha không hoàn toàn đóng cửa hy vọng và quả quyết rằng nếu muốn tìm thấy
lại một chút về cách giải thích Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng, trong những
thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, tiên vàn phải làm tái sinh một phong trào Thánh
Linh. Một vài thập niên sau đó, trước sau Công đồng Vatican II, tôi có cảm tưởng
khám phá ra một lời tiên tri trong những lời cuối cùng này. "Phong trào Thánh
Linh" và "đà tiến" bắt đầu trở lại, không phải vì người ta lên chương
trình hoặc tiên liệu, nhưng vì Thần Khí bắt đầu thổi một lần nữa, một cách bất
ngờ, từ khắp nơi, trên những đống xương khô. Song song với các đặc sủng tái xuất
hiện, việc đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng cũng tái xuất hiện. Đây cũng
là một trong những hoa trái tuyệt diệu nhất của Thần Khí.
Khi
tham dự các cuộc gặp gỡ Kinh Thánh và các buổi cầu nguyện, có lần tôi ngạc
nhiên khi nghe những suy tư về lời Chúa giống như những suy tư của Origen, thánh
Augustinô, hay thánh Grêgoriô Cả ngày xưa, cho dù ngôn ngữ đơn giản hơn. Người
ta áp dụng rất đơn giản và thích đáng những lời về đền thờ, về "căn lều của
Đavít", về Giêrusalem bị phá hủy và được tái thiết sau thời lưu đầy, về Giáo
Hội, về Đức Maria, về cộng đồng của họ hoặc về cuộc sống cá nhân của họ. Những
gì được thuật lại về các nhân vật trong Cựu Ước làm người ta nghĩ đến Đức Giêsu
bằng cách loại suy hay phản đề, và những gì được thuật lại về Đức Giêsu được hiện
tại hóa và áp dụng cho Giáo Hội hoặc cho từng tín hữu.
Nhiều
nghi ngờ về việc đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng phát sinh từ chỗ không
để ý đến sự phân biệt giữa giải thích và áp dụng. Trong cách đọc theo hướng thiêng
liêng, nói chung đây là áp dụng hoặc hiện tại hóa bản văn, hơn là có ý định giải
thích nó, khi áp dụng cho nó một ý nghĩa không liên quan gì đến ý định của tác
giả Sách Thánh. Chính là điều chúng ta đã thấy trong Tân Ước liên quan đến những
lời của Đức Giêsu. Người ta lưu ý rằng các tác giả Phúc Âm Nhất lãm đôi khi đưa
ra các ứng dụng khác nhau của cùng một dụ ngôn do Đức Kitô nói, tùy theo nhu cầu
và các vấn đề của cộng đồng mà các ngài viết cho họ.
Các
ứng dụng của các Giáo Phụ và các ứng dụng của ngày hôm nay hiển nhiên không có
cùng đặc tính quy điển như các ứng dụng ban đầu, nhưng quá trình dẫn đến các ứng
dụng này là như nhau và dựa trên sự kiện là lời Chúa không phải là những lời chết,
được bảo quản trong dầu, như Péguy nói. Đó là những lời "hằng sống"
và "năng động", có khả năng giải
phóng ý nghĩa và tiềm thể ẩn giấu, đáp ứng với các câu hỏi và tình huống mới.
Đây là hậu quả của cái mà tôi gọi là "linh hứng năng động" của Kinh Thánh,
theo nghĩa Kinh Thánh không chỉ "được Thần Khí linh hứng" mà còn
"thở ra" Thần Khí và liên tục phát tán, nếu người ta đọc với đức tin.
Theo Thánh Grêgoriô Cả, "Kinh Thánh cum
legentibus crescit, tăng trưởng cùng với người đọc". Kinh Thánh tăng
trưởng mà vẫn còn nguyên vẹn.
Tôi
kết luận bằng một lời cầu nguyện mà tôi đã nghe một phụ nữ đọc lên, sau khi nghe
câu chuyện Êlia được đưa lên trời, để lại hai phần ba tâm trí cho Êlidê. Đây là
một ví dụ về việc đọc theo hướng thiêng liêng, theo nghĩa mà tôi vừa giải
thích: "Con cảm tạ Chúa đã không để lại cho chúng con chỉ có hai phần ba Thần
Khí của Chúa, khi Chúa lên trời, nhưng để lại tất cả Thần Khí của Chúa! Con cảm
tạ vì Chúa đã không để lại Thần Khí cho một môn đệ duy nhất, nhưng cho tất cả mọi
người!"
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ tư Mùa Chay năm 2008, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm Micae Trần Đình Quảng