LỜI CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC KITÔ
1. Việc rao giảng trong
đời sống Đức Giêsu
Sau
câu chuyện Đức Giêsu chịu phép rửa, thánh Máccô tiếp tục kể: "Đức Giêsu đến
miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: "Thời kỳ đã mãn,
và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng"
(Mc 1,14tt.). Matthêu viết ngắn gọn hơn: "Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao
giảng và nói rằng: ‘’Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần’ (Mt 4,17).
Với những lời này, "Tin Mừng" bắt đầu được hiểu theo nghĩa tin mừng
"của” Đức Giêsu - nghĩa là được Đức Giêsu công bố, và Đức Giêsu là chủ thể
- khác với Tin Mừng “về” Đức Giêsu trong lời rao giảng tiếp theo của các tông đồ,
trong đó Đức Giêsu là đối tượng.
Biến
cố này có một vị trí rất cụ thể về thời gian và không gian : xảy ra tại Galilê,
sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt. Động từ mà các tác giả Phúc Âm sử dụng "bắt
đầu rao giảng" rõ ràng cho thấy đó là lúc "khởi đầu", một điều gì
đó mới mẻ không chỉ trong đời sống của Đức Giêsu, mà còn trong chính lịch sử cứu
độ. Thư Do Thái mô tả tính mới mẻ này như sau: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều
cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời
sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2).
Đó
là lúc khởi đầu của thời gian cứu độ đặc biệt, một kairos mới, kéo dài khoảng hai năm rưỡi (từ mùa thu năm 27 đến mùa
xuân năm 30 Công nguyên).
Đức
Giêsu gán cho hoạt động này một tầm quan trọng đặc biệt, đến độ Ngài tuyên bố mình
đã được Chúa Cha sai đến và được Thánh Thần xức dầu thánh hiến để làm công việc
này, là "loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn" (Lc 4,18). Một ngày kia,
khi các tông đồ đang cố giữ Ngài lại, Ngài bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi
khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi
cốt để làm việc đó" (Mc 1,38).
Rao
giảng là một phần trong những điều được gọi là "mầu nhiệm cuộc đời Đức
Kitô", và chính như thế mà chúng ta tiếp cận nó. Trong bối cảnh này, thuật
ngữ "mầu nhiệm" có nghĩa là một biến cố của cuộc đời Đức Giêsu mang ý
nghĩa cứu độ, được cử hành trong phụng vụ của Giáo Hội. Nếu không có một ngày lễ
đặc biệt cho việc rao giảng của Đức Giêsu, chính vì nó được nhắc lại trong mỗi
phụng vụ của Giáo Hội. "Phụng vụ lời Chúa" trong Thánh lễ không gì
khác hơn là hiện tại hóa trong phụng vụ việc Đức Giêsu rao giảng. Bản văn của
Công Đồng Vatican II tuyên bố rằng Đức Kitô "hiện diện trong lời của Người,
vì chính Người đang nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo Hội" (PV 7).
Cũng
như trong lịch sử, sau khi rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã lên
Giêrusalem để hiến mình làm hy tế cho Chúa Cha, cũng vậy, trong phụng vụ, sau
khi lại công bố lời của Ngài, Chúa Giêsu làm mới lại việc hiến mình cho Chúa
Cha qua Thánh Lễ. Khi kết thúc kinh tiền tụng bằng lời tung hô: "Chúc tụng
Đấng ngự đến nhân danh Chúa, Hoan hô Chúa trên các tấng trời", trong tâm
trí, chúng ta trở lại lúc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để ăn mừng Lễ Vượt Qua
ở đó ; đấy là lúc kết thúc thời gian rao giảng và bắt đầu thời gian chịu khổ nạn.
Vậy
việc rao giảng của Đức Giêsu là một "mầu nhiệm" vì không chỉ chứa đựng
mặc khải của một học thuyết, mà còn giải thích chính mầu nhiệm con người Đức
Kitô. Cần phải hiểu cả mầu nhiệm xẩy ra trước - mầu nhiệm nhập thể –, lẫn mầu
nhiệm xẩy ra sau - mầu nhiệm vượt qua. Không có lời của Đức Giêsu, đây sẽ là những
biến cố câm lặng. Đức Gioan Phaolô II đã có một trực giác thích hợp khi ngài xen
lời rao giảng về Nước Thiên Chúa vào trong "những mầu nhiệm sự sáng",
thêm vào những mầu nhiệm vui, thương và mừng của kinh Mân Côi, cùng với biến cố
Đức Kitô chịu phép rửa, tiệc cưới Cana, cuộc biến hình và việc thiết lập Thánh
Thể.
2. Việc rao giảng của Đức
Kitô tiếp tục trong Giáo Hội
Thư
Do thái đã được viết một thời gian lâu sau khi Đức Giêsu qua đời, như vậy khá
lâu sau khi Đức Giêsu ngừng rao giảng. Tác giả nói rằng Thiên Chúa đã phán dạy
chúng ta qua Thánh Tử, "vào thời sau hết". Do đó ông xem những ngày
mà ông sống như thuộc về "những ngày của Đức Giêsu". Vì vậy, ở một đoạn
sau, khi trích dẫn lời Thánh Vịnh: "Ngày hôm nay, nếu các bạn nghe tiếng
Chúa, thì chớ cứng lòng", ông áp dụng những lời đó cho các Kitô hữu khi
nói: "Hãy đề phòng, đừng để người nào trong anh em lòng dạ xấu xa chối bỏ
đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống. Trái lại, ngày ngảy anh em hãy khuyên bảo
nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay”
(Dt 37). Vậy hôm nay Thiên Chúa cũng nói trong Giáo Hội và Người nói "qua
người Con". Hiến chế tín lý về mạc khải nói: “Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán
dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình ; và Thánh
Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội, và nhờ Giáo Hội làm
vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm
cho lời Chúa Kitô tràn ngập trong lòng họ" (MK 8).
Nhưng
làm thế nào và ở đâu chúng ta có thể nghe "tiếng nói của Ngài"? Mặc
khải của Thiên Chúa đã chấm dứt ; theo một nghĩa nào đó, không còn lời nào của
Thiên Chúa nữa. Ở đây, chúng ta khám phá ra một mối quan hệ khác giữa Lời và
Thánh Thể. Thánh Thể hiện diện trong suốt dòng lịch sử cứu độ : trong Cựu Ước,
như hình bóng (con chiên vượt qua, hy tế của Melkisêđê, manna trong sa mạc),
trong Tân Ước, như biến cố (sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô), trong Giáo Hội,
như bí tích (trong Thánh Lễ).
Hy
tế của Đức Kitô đã chấm dứt, kết thúc trên thập giá. Vì thế, theo một nghĩa nào
đó, không còn hy tế của Đức Kitô nữa ; tuy vậy chúng ta biết rằng vẫn còn một
hy tế và đó là hy tế duy nhất của thập giá hiện diện và hoạt động trong hy tế
Thánh Thể ; biến cố tiếp tục trong bí tích, lịch sử tiếp tục trong phụng vụ. Một
điều gì đó tương tự cũng xảy ra với Lời của Đức Kitô : nó đã không còn hiện hữu
như một biến cố, nhưng vẫn tiếp tục hiện hữu như một bí tích.
Trong
Kinh Thánh, Lời Thiên Chúa (dabar), nhất là trong hình thức đặc biệt là những lời
các tiên tri nói, luôn luôn tạo nên một biến cố ; đó là một lời-biến cố, đó là
một lời tạo ra một tình huống, một lời luôn thực hiện một điều mới trong lịch sử.
Kiểu nói lặp đi lặp lại "Lời của Đức Chúa nói với..." có thể được dịch
là: "Lời của Đức Chúa được cụ thể hoá nơi con người của..." (Edêkien,
Hacgai, Dacaria, v.v).
Loại
lời-biến cố nói trên tiếp tục cho đến Gioan Tẩy Giả. Quả thực, trong sách Luca,
chúng ta đọc: "Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, ... có lời Thiên
Chúa phán cùng (factum est verbum Domini super) con ông Dacaria là ông Gioan trong
hoang địa" (Lc 3,1tt). Sau đó, công thức này biến mất hoàn toàn trong Kinh
Thánh và được thay thế bằng một công thức khác. Không còn là "Factum est verbum Domini" nữa,
nhưng là "Verbum caro factum est":
Ngôi Lời đã trở nên người phàm (Ga 1,14). Giờ đây, biến cố là một con người!
Không ai thấy câu: "Lời Thiên Chúa phán cùng Đức Giêsu!” vì Ngài là Ngôi Lời.
Thay cho lời Thiên Chúa được thực hiện tạm thời nơi các tiên tri, giờ đây lời
Thiên Chúa được thực hiện đầy đủ và vĩnh viễn.
Thánh
Gioan Thánh Giá viết trong một trang nổi tiếng : Khi ban cho chúng ta người Con,
Thiên Chúa đã nói với chúng ta mọi sự, và không còn gì để mạc khải. Không có gì
để nói thêm, Thiên Chúa đã trở thành câm lặng theo một nghĩa nào đó, vì không
có gì khác nữa để nói. Nhưng phải hiểu cho đúng điều này : Thiên Chúa im lặng
theo nghĩa Người không nói điều gì mới liên quan đến những gì Người đã nói nơi
Đức Giêsu, chứ không theo nghĩa Người không còn nói nữa. Người luôn lại đang nói
những gì Người đã nói nơi Đức Giêsu!
Không
còn những lời-biến cố trong Giáo hội ; không còn lời Thiên Chúa phán cùng một
người, như đã từng phán với Samuel, Giêrêmia, hoặc Gioan Tẩy Giả ; nhưng có những
lời-bí tích. Lời bí tích là những lời Thiên Chúa đã được thực hiện một lần vĩnh
viễn và đã được ghi lại trong Kinh Thánh, trở thành "thực tại năng động"
mỗi khi Giáo Hội dùng thẩm quyền mà công bố chúng, và Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh
hứng chúng, cho chúng bừng lên trong lòng những người nghe". Đức Giêsu nói
về Chúa Thánh Thần: “Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga
16,14).
3. Lời-bí tích mà người
ta nghe
Khi
chúng ta nói về lời như một "bí tích", chúng ta hiểu thuật ngữ này
không theo nghĩa kỹ thuật và chặt chẽ của "bảy bí tích", nhưng theo
nghĩa rộng hơn, như khi chúng ta nói về Chúa Kitô như là "bí tích tiên khởi
của Chúa Cha" và về Giáo Hội như là "bí tích phổ quát của sự cứu rỗi"
(GH 48). Dựa trên định nghĩa của Thánh Augustinô về bí tích như "một lời người
ta thấy" (verbum visibile), thì ngược lại, người ta quen định nghĩa lời
như "một bí tích người ta nghe” (sacramentum audibile).
Trong
mỗi bí tích người ta phân biệt dấu chỉ hữu hình và thực tại vô hình là ân sủng.
Lời chúng ta đọc trong Kinh Thánh, tự nó, chỉ là một dấu chỉ vật chất (như nước
và bánh trong Thánh Thể), một bộ các vần chết, hoặc bất quá chỉ là một lời của ngôn
ngữ con người giống như những lời khác ; nhưng thông qua sự can thiệp của đức
tin và sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, qua một dấu chỉ như thế, một cách mầu
nhiệm, chúng ta tiếp xúc với chân lý và ý muốn sống động của Thiên Chúa, và
chúng ta lắng nghe chính tiếng của Đức Kitô.
Bossuet viết: "Thân xác Đức Giêsu trong bí tích đáng
tôn thờ cũng giống như chân lý
của Đức Kitô trong lời rao giảng
Phúc Âm. Trong mầu nhiệm Thánh Thể, những hình (species) mà bạn nhìn thấy là những dấu chỉ,
nhưng cái chứa đựng trong đó là thân thể Đức Kitô ; trong Kinh Thánh, những lời bạn nghe
là những dấu chỉ, nhưng tư tưởng được chuyển tải trong
những lời ấy
là chính chân lý của Con Thiên Chúa."
Người ta thấy tính bí tích của Lời Chúa trong sự
kiện là đôi khi nó hành động rõ ràng vượt quá sự hiểu biết của con người, một
sự hiểu biết có thể hạn chế và bất toàn. Nó hoạt động hầu như bởi chính nó, ex opere operato, như nói trong thần
học.
Khi Naaman, người Syria,
đến gặp Êlidê để được chữa khỏi bệnh phung, và khi nhà tiên trì này bảo ông đi tắm
bảy lần tại sông Giođanô, ông nổi giận mà nói: "Nước các sông Avana và Pacpa
ở Đamas chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Israel sao ? Ta lại không thể tắm ở
các sông ấy để được sạch hay sao?" (2V5,12). Naaman nói đúng: những con sông
ở Syria chắc chắn là tốt hơn và nhiều nước hơn. Tuy nhiên, tắm ở sông Giođanô, ông
đã được chữa lành, da ông giống như da của một đứa trẻ, một điều sẽ không bao
giờ xảy ra nếu ông tắm trong những con sông lớn của đất nước ông.
Lời Thiên Chúa chứa
đựng trong Kinh Thánh cũng vậy. Trong số các quốc gia, thậm chí trong Giáo hội,
đã có và sẽ có những quyển sách hay hơn một số sách Kinh Thánh, tinh tế hơn về
văn chương và xây dựng hơn về tôn giáo (cuốn Gương Chúa Giêsu hay Gương Phúc
chẳng hạn), nhưng không có cuốn nào hành động như cuốn khiêm tốn nhất trong
những sách được linh hứng. Trong lời Kinh thánh, có một điều gì đó hành động vượt
quá lời giải thích của con người ; giữa dấu chỉ và thực tại mà dấu chỉ biểu thị,
rõ ràng không có sự tương xứng ; điều này khiến người ta nghĩ tới cách hành động
của các bí tích.
"Nước của các con
sông ở Israel", là những lời Kinh Thánh được Thiên Chúa linh hứng, ngày
nay vẫn tiếp tục chữa lành bệnh phung của tội lỗi. Lúc kết thúc bài Phúc Âm đọc
trong Thánh Lễ, Giáo Hội dạy thừa tác viên có chức thánh hôn sách và đọc:
"Nhờ những lời Phúc Âm vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con" (per
evangelica dicta delantur nostra delicta). Chính Kinh Thánh chứng thực cho quyền
năng chữa lành của lời Chúa: "Thật vậy, không phải lá cây, chẳng phải
thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng lậy Đức Chúa, chính lời Ngài chữa lành tất cả”
(Kn 16,12).
Kinh nghiệm xác nhận điều
đó. Tôi đã nghe ai đó làm chứng trên một chương trình truyền hình mà tôi đã
tham dự. Ông là một người nghiện rượu nặng ; không thể quá hai giờ mà không
uống ; gia đình ông đang trên bờ vực tuyệt vọng. Ông và vợ ông đã được mời đến
một cuộc gặp gỡ về Lời Chúa, trong đó người ta đọc một đoạn Kinh Thánh. Có một
câu đã xâm chiếm tâm hồn ông như một ngọn lửa bừng cháy và ông cảm thấy mình được
chữa lành. Sau đó, mỗi khi bị cám dỗ uống rượu, ông tìm đến sách Thánh, đọc lại
câu đó, và tìm lại được sức mạnh, cho đến khi ông được chữa lành hoàn toàn. Khi
ông muốn nói câu này là câu nào, thì cảm xúc khiến ông mất giọng. Đó là câu
trong sách Diễm Ca: "Ân ái của anh thì ngon hơn rượu" (Dc 1,2). Những
lời đơn giản này dường như không liên quan gì tới trường hợp của ông, thì lại
là một phép lạ.
Người ta cũng đọc được
một chuyện tương tự trong "Những câu chuyện về một người lữ hành
Nga". Nhưng trường hợp nổi tiếng nhất là của Augustinô. Đọc những lời của
Thánh Phaolô trong thư Rôma 13,11tt: "Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng
ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến
đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày…đừng
chiều theo xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”, Augustinô cảm thấy "một ánh
sáng yên tĩnh" xâm chiếm tâm hồn và hiểu rằng ngài không còn làm nô lệ cho
xác thịt nữa (Conf, VIII,12).
4. Phụng vụ lời Chúa
Có một nơi và một lúc
trong đời sống của Giáo Hội, nơi Đức Giêsu hôm nay lên tiếng một cách trang
nghiêm và bảo đảm hơn : phụng vụ lời Chúa trong Thánh Lễ. Trong Giáo Hội sơ
khai, phụng vụ lời Chúa được tách biệt với phụng vụ Thánh Thể. Như sách Công Vụ
thuật lại, các môn đệ "đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ”,
ở đó họ nghe đọc Kinh Thánh, cùng nhau đọc Thánh Vịnh với những người Do Thái
khác và ca tụng Thiên Chúa ; họ đã làm như phụng vụ lời Chúa hôm nay. Sau đó họ
làm lễ bẻ bánh tại tư gia, tức là cử hành Thánh Thể (x.Cv 2,43).
Tuy nhiên, rất sớm, họ
không thể thực hành được như vậy nữa, một đàng vì sự thù nghịch của cộng đồng
Do Thái đối với họ, đàng khác vì Kinh Thánh đã có một ý nghĩa mới, hoàn toàn hướng
về Đức Kitô. Do đó, việc nghe Kinh Thánh cũng được chuyển từ đền thờ và hội đường
đến các địa điểm thờ phượng Kitô giáo, trở thành phụng vụ lời Chúa như hiện nay,
trước kinh nguyện Thánh Thể.
Trong thế kỷ thứ hai,
Thánh Giustinô đã mô tả cử hành Thánh Thể, trong đó đã có mọi yếu tố thiết yếu
của Thánh Lễ tương lai. Phụng vụ lời Chúa không chỉ là một phần toàn vẹn của Thánh
Lễ, nhưng bên cạnh các bài đọc Cựu Ước còn có các bài đọc khác mà thánh nhân
gọi là "hồi ký của các tông đồ", tức là Phúc Âm và các thư, nói cụ
thể là Tân Ước.
Được nghe trong phụng
vụ, các bài đọc Kinh Thánh có được một ý nghĩa mới và mạnh mẽ hơn khi đọc trong
các ngữ cảnh khác. Các bài đọc ấy không có mục đích giúp hiểu Kinh Thánh hơn,
như khi đọc ở nhà hoặc trong một trường dạy Kinh Thánh, cho bằng giúp nhận ra Đấng
đang hiện diện trong hành vi bẻ bánh, và mỗi lần soi sáng một khía cạnh đặc
biệt của mầu nhiệm mà họ đang chuẩn bị để sống. Điều này thấy rõ trong câu
chuyện hai môn đệ Emmau : nhờ nghe giải thích Kinh Thánh, lòng các môn đệ bắt
đầu mở ra, đến nỗi các ông có thể nhận ra Chúa khi Ngài bẻ bánh.
Một ví dụ : các bài
đọc Chúa Nhật XXIX mùa thường niên năm B. Bài đọc I nói về người tôi tớ đau
khổ, mang trên mình tội lỗi của dân (Is 53,2-11) ; bài đọc II nói về Đức Kitô
Thượng Tế, nên giống chúng ta mọi đàng, trừ tội lỗi ; bài Phúc Âm nói về Con Người
đến để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người. Cả ba bài nhấn mạnh
một khía cạnh căn bản của mầu nhiệm sắp cử hành và lãnh nhận trong phụng vụ
Thánh Thể.
Trong Thánh Lễ, những
lời nói và câu chuyện của Kinh Thánh không chỉ được tường thuật, mà còn được
tái hiện ; ký ức trở thành thực tại và hiện diện. Điều gì đã xảy ra "ngày
ấy", đang xảy ra "bây giờ", "hôm nay" (hodie), như
phụng vụ thích nói. Chúng ta không chỉ là người nghe lời, mà còn là người nói
chuyện và diễn viên trong lời này. Chính cho chúng ta, đang hiện diện ở đây, mà
lời được nói ; chúng ta được kêu gọi đóng vai các nhân vật được nhắc đến.
Cũng ở đây, một số ví
dụ sẽ giúp chúng ta hiểu. Trong bài đọc I, chúng ta đọc câu chuyện Chúa nói với
Môsê từ bụi gai cháy. Trong Thánh Lễ, chúng ta đứng trước bụi gai cháy thực sự.
Người ta đọc đoạn Isaia nhận than hồng trên môi để thanh tẩy, giúp ông thi hành
sứ mệnh. Chúng ta cũng sẵn sàng nhận trên môi miệng than hồng thật sự. Edêkien
được mời ăn cuộn sách các sấm ngôn tiên tri. Chúng ta cũng sắp ăn Đấng là chính
lời trở thành thịt và bánh
Sự việc trở nên rõ
ràng hơn nếu chúng ta chuyển từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ bài đọc I đến bài Phúc
Âm. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết chắc chắn được chữa lành nếu bà đụng được vào
mép áo Đức Giêsu. Còn chúng ta đang chạm nhiều hơn là chạm vào mép áo của Ngài,
thì sao? Có lần tôi nghe câu chuyện Dakêu trong Tin Mừng, và tôi bị đánh động
bởi tính thời sự của câu chuyện. Chính tôi là Dakêu ; những lời đã được nói cho
tôi. "Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông"; chính về tôi mà người ta đã có
thể nói: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Và sau khi tôi nhận Đức
Giêsu vào nhà, chính về tôi mà Ngài đã nói: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho
nhà này".
Đó là điều xảy ra cho
mỗi câu chuyện phúc âm. Làm sao trong Thánh Lễ người ta không thể đồng hóa mình
với người què được Đức Giêsu nói: "Tội lỗi con đã được tha", và
"đứng lên... và về nhà", cùng với Simêon đang ẵm con trẻ Giêsu, với Tôma
đang run rẩy chạm vào vết thương của Ngài?
Không chỉ những sự
kiện mà cả những lời Phúc Âm được nghe trong Thánh lễ cũng có một ý nghĩa mới
và mạnh mẽ hơn. Một ngày mùa hè, tôi cử hành Thánh Lễ trong một tu viện nhỏ. Đoạn
phúc âm là Mt 12. Tôi sẽ không bao giờ quên được ấn tượng mà những lời này của
Chúa Giêsu gây ra cho tôi: "Đây thì còn hơn Giôna ... Đây thì còn hơn vua
Salomon!” Vào lúc ấy, như thể lần đầu tiên tôi nghe những lời này. Tôi hiểu
rằng hai trạng từ "bây giờ" và "ở đây" thật sự có nghĩa là bây
giờ và ở đây, tức là, trong lúc này và tại nơi này, không chỉ lúc Đức Giêsu
sống ở trần gian, cách nay nhiều thế kỷ. Từ ngày hè đó, những lời này đã trở
nên thân thiết và quen thuộc với tôi theo một cách mới. Thông thường, trong
Thánh Lễ, lúc tôi quỳ gối và lại đứng lên sau lúc truyền phép, tôi tự nhắc lại
cho mình câu: "Đây thì còn hơn Giôna ... Đây thì còn hơn vua Salomon!"
Origen nói với các Kitô
hữu thời của ông: "Anh em thường hay tham dự vào các mầu nhiệm thánh, khi anh
em nhận lấy Mình Chúa, anh em tỏ ra rất cẩn thận và tôn kính, đến nỗi ngay cả
một mảnh vụn cũng không để rơi xuống đất, và không gì thuộc món quà thánh hiến bị
mất đi. Anh em thâm tín một cách chính xác rằng thực sai lầm khi không để ý đến
các mảnh vụn ấy. Nếu anh em cũng cẩn thận giữ gìn thân thể - và quả là chính
đang khi làm như vậy – thì hãy biết rằng thờ ơ với lời Chúa cũng quan trọng không
kém thờ ơ với thân thể của anh em".
Trong số những lời
Chúa mà chúng ta nghe hàng ngày trong Thánh Lễ hay trong phụng vụ Các Giờ Kinh,
hầu như luôn có một lời đặc biệt dành cho chúng ta. Tự nó, nó có thể lấp đầy cả
ngày sống của chúng ta và làm sáng tỏ lời cầu nguyện của chúng ta. Đừng để nó rơi
vào quãng không. Những tác phẩm điêu khắc và những bức chạm trổ nổi của phương
Đông xưa trình bày các ký lục đang nghe tiếng của các vua chúa đọc cho viết
hoặc nói. Chúng ta thấy ông ta cực kỳ chăm chú : chân dạng, thân thẳng, mắt mở
to, tai banh ra. Đây là thái độ được gán cho người tôi trung của Chúa trong Isaia:
"Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như
một người môn đệ" (Is 50,4). Đây là thái độ chúng ta phải có khi nghe công
bố lời Chúa.
Chúng ta hãy đón nhận lời
khuyên trong lời mở đầu Quy Luật Thánh Biển Đức, như thể được nói cho chúng ta:
"Chúng ta hãy mở to đôi mắt trước ánh sáng thần linh, hãy lắng nghe với đôi
tai chăm chú và thán phục, tiếng nói thần linh kêu to với chúng ta mỗi ngày: “Ngày
hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa, [Người phán] : Các ngươi chớ cứng lòng”
(Tv 94,8), và “Ai có tai nghe thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh”.
(Kh 2,7).
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ nhất Mùa Chay năm 2008, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm Micae Trần Đình Quảng