LỜI CHÚA TRONG SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI
1. Từ Đức Giêsu rao giảng
đến Đức Kitô được rao giảng
Trong
thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, một bức thư tuyệt vời dành cho thừa tác vụ rao
giảng, Thánh Phaolô viết: "Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ
rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa!" (2Cr 4,5). Cũng cho những tín hữu
Corintô, trong một lá thư trước, ngài đã viết: "Chúng tôi rao giảng một Đấng
Kitô bị đóng đinh" (1Cr 1,23). Khi thánh Tông đồ muốn tóm tắt toàn bộ nội
dung việc rao giảng Kitô giáo chỉ bằng một lời, thì lời này luôn luôn là Đức
Giêsu Kitô!
Trong
những quả quyết này, Đức Giêsu không được nhìn như một người loan báo, như
trong các sách Phúc Âm, nhưng như một người được loan báo. Đồng thời, chúng ta
thấy kiểu nói "Tin Mừng Đức Giêsu" có một ý nghĩa mới, mà ý nghĩa cũ
không mất ; từ ý nghĩa "Tin mừng do Đức Giêsu đem đến" (Đức Giêsu là
chủ thể!) sang "Tin Mừng về Đức Giêsu, hoặc liên quan đến Đức Giêsu"
(Đức Giêsu là đối tượng).
Thư
Rôma dùng chữ Tin Mừng theo nghĩa này khi
khởi đầu một cách trang trọng: "Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu
Kitô ; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên
Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của người mà hứa trước trong Kinh
Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Xét
như một người phàm, Đức Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít. Nhưng xét
như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con
Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm
1,1-4).
Trong
bài suy niệm này chúng ta tập trung vào "Lời Chúa trong sứ mệnh của Giáo Hội".
Đề cương của Thượng Hội đồng Giám mục đã bàn về chủ đề này trong chương ba. Chủ
đề nhấn mạnh các khía cạnh và lãnh vực thực hành khác nhau, theo lược đồ sau:
1.
Nhiệm vụ của Giáo Hội là công bố Đức Kitô, Lời Thiên Chúa làm người
2.
Lời Chúa phải có thể đến được với mọi người, bất cứ khi nào.
3.
Lời Chúa, ân sủng hiệp thông giữa các Kitô hữu
4.
Lời Chúa, ánh sáng cho cuộc đối thoại liên tôn:
a) với người Do Thái
b) với người thuộc các tôn giáo khác
5.
Lời Chúa là men của văn hoá hiện đại
6.
Lời Chúa và lịch sử con người
Tôi
chỉ đề cập một vấn đề cụ thể và rất hạn hẹp, tuy nhiên, theo tôi, có ảnh hưởng
đến phẩm chất và hiệu quả của việc loan báo trong Giáo Hội, trong mọi cách diễn
đạt.
2. Những lời "vô
ích" và những lời "hữu hiệu"
Trong
Phúc Âm Matthêu, trong bối cảnh diễn từ về những lời cho thấy lòng dạ người ta,
có một lời của Đức Giêsu làm cho độc giả Tin Mừng bất cứ thời nào phải run sợ:
"Tôi nói cho các người hay : đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về
mọi điều vô ích mình đã nói” (Mt 12,36).
Giải
thích những "lời vô ích" theo đúng ý của Đức Giêsu luôn là điều khó. Chúng
ta được soi sáng phần nào khi đối chiếu với một đoạn khác trong Phúc Âm Matthêu
(7,15-20), nói đến chuyện xem quả biết cây, và toàn bộ câu chuyện dường như nhằm
đến các tiên tri giả: "Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt
chiên mà đến với anh em ; nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh
ra quả nào, thì biết họ là ai…”.
Nếu
câu này của Đức Giêsu có liên quan đến lời của ngài về các tiên tri giả, khi ấy
có lẽ chúng ta có thể khám phá ra chữ "vô ích" muốn nói gì. Thuật ngữ
gốc, được dịch là "vô ích", là argon,
có nghĩa là "không có hiệu quả" (a+ergon). Một số bản dịch hiện đại, trong
đó có bản dịch tiếng Ý của Hội đồng Giám mục Ý, dịch là "vô căn cứ" :
một lời không có nền tảng, do đó là vu khống. Đó là một cách làm cho lời Đức
Giêsu đe dọa có một ý nghĩa trấn an hơn. Thật vậy, không gì phải đặc biệt lo lắng,
nếu Đức Giêsu nói chúng ta phải trả lẽ với Thiên Chúa về mọi vu khống!
Tuy
nhiên, argon, đúng hơn, có nghĩa : lời
không xây dựng gì, không sản sinh gì cả, do đó trống rỗng, vô bổ, không hiệu quả.
Theo nghĩa này, bản Phổ Thông cũ dịch verbum
otiosum=lời "vô tích sự, vô ích, vô dụng", là chính xác hơn, vả lại,
đó cũng là cách dịch được chấp nhận ngày nay trong hầu hết các bản dịch.
Thật
không khó để đoán được Đức Giêsu có ý nói gì, nếu chúng ta so sánh tính từ này
với tính từ luôn nói lên đặc điểm của lời Chúa trong Kinh Thánh : tính từ energes, hữu hiệu, tác động, luôn có một
hiệu quả (ergos) đi kèm. Chẳng hạn, thánh Phaolô viết cho người Thessalonica là,
khi nhận được lời Chúa từ việc rao giảng của ngài, họ đã đón nhận lời ấy không
phải như lời của con người, nhưng là "lời của Thiên Chúa" tác động
(energeitai) nơi những người tin (1Tx 2,13). Sự đối nghịch giữa lời của Thiên
Chúa và lời của con người được trình bày ở đây, một cách mặc nhiên, như sự đối nghịch
giữa lời "tác động" và lời "không tác động", giữa lời hữu
hiệu và lời vô hiệu, vô ích.
Chúng
ta cũng tìm thấy khái niệm về hiệu năng của lời Chúa trong thư Do Thái: "Lời
Thiên Chúa là lời sống động..." (Dt 4,12). Nhưng đó là một khái niệm rất
cũ ; trong Isaia, Thiên Chúa tuyên bố rằng lời từ miệng Người nói ra sẽ không
bao giờ trở về với Người mà "không đạt kết quả", không "chu toàn"
sứ mệnh Người trao phó (x.Is 55,11).
Vậy
lời vô ích của người phải trả lẽ trong ngày phán xét không phải là tất cả và bất
cứ lời vô ích nào ; đó là lời nói vô tích sự, trống rỗng do người lẽ ra phải
nói những lời "hữu hiệu" của Thiên Chúa. Nói tắt, chính là lời của
tiên tri giả, người không nhận được lời Thiên Chúa, nhưng kích động người khác
tin rằng đó là lời Thiên Chúa. Đúng là ngược lại với điều Thánh Phaolô nói : nhận
được một lời của con người, người ta lại không coi đó là lời của con người, nhưng
coi đó là lời của Thiên Chúa. Con người sẽ phải tính sổ tất cả những lời vô ích
về Thiên Chúa! Ý nghĩa của lời cảnh báo nghiêm trọng mà Đức Giêsu muốn nói là ở
đó.
Lời
vô ích ngụy tạo lời Chúa ; nó là ký sinh trùng của lời Chúa. Người ta nhận ra
nó ở chỗ nó không sinh kết quả, vì theo định nghĩa, nó vô bổ, không hiệu quả
(trong điều tốt). Đức Chúa "đang canh thức để thi hành lời của Người"
(Gr 1,12). Người giữ khư khư lời của Người, và không thể để cho con người sử dụng
quyền năng thần linh ẩn chứa trong lời đó.
Tiên
tri Giêrêmia cho phép chúng ta nghe, như thể qua một bộ khuếch đại, lời cảnh
báo ẩn giấu trong lời này của Đức Giêsu. Giêrêmia rõ ràng tuyên sấm về các tiên
tri giả thế này: "Ðức Chúa các đạo binh phán như sau : đừng nghe lời các
ngôn sứ tuyên sấm ; chúng phỉnh phờ các ngươi, điều chúng nói chỉ là thị kiến
do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra…Ngôn sứ tuyên sấm dối
trá rằng : Tôi chiêm bao…Ngôn sứ có chiêm bao thì cứ thuật lại giấc chiêm bao,
còn người đón nhận lời Ta, thì hãy trung thành nói lại lời Ta! Rơm với lúa có
gì chung nhau không? Sấm ngôn của Đức Chúa. Lời của Ta lại chẳng giống như lửa,
chẳng giống như búa đập tan tảng đá sao? Sấm ngôn của Đức Chúa. Vì thế Ta chống
lại các ngôn sứ ăn cắp lời của Ta…Ta chống lại các ngôn sứ dùng ba tấc lưỡi của
mình mà tuyên sấm – sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,16.28-31).
3. Những ai là tiên tri
giả
Nhưng
chúng ta không ở đây để nói về các tiên tri giả trong Kinh Thánh. Như thường lệ,
vấn đề là : Kinh Thánh nói về chúng ta và cho chúng ta. Lời này của Đức Giêsu
không xét xử thế gian, nhưng là Giáo Hội ; thế gian sẽ không bị xét xử về những
lời vô ích của nó (tất cả những lời của thế gian, theo nghĩa được mô tả ở trên,
đều là những lời vô ích!), nhưng có lúc nó sẽ bị xét xử vì đã không tin vào Đức
Giêsu (x.Ga 16,9). Những người sẽ phải tính sổ về mọi lời vô ích là những người
của Giáo Hội ; chính là chúng ta, những người rao giảng lời Chúa.
"Những
tiên tri giả" không chỉ là những người đôi khi truyền bá những lạc giáo, nhưng
còn là những kẻ "ngụy tạo", xuyên tạc lời Thiên Chúa. Chính Phaolô sử
dụng thuật ngữ này, được dùng trong ngôn ngữ hàng ngày ; theo nghĩa đen, nó có
nghĩa là pha loãng lời, như những chủ quán bất lương đã làm, khi họ pha thêm nước
vào rượu (2Cr 2,17 ; 4,2). Các tiên tri giả là những kẻ không trình bày lời Thiên
Chúa trong sự tinh tuyền của nó, nhưng pha loãng nó và làm nó chìm nghỉm trong hàng
ngàn lời của con người phát ra từ lòng họ.
Tiên
tri giả cũng chính là tôi, bất cứ khi nào tôi không tin tưởng vào sự yếu đuối, điên
rồ, nghèo nàn, thô sơ của lời, và tôi cố gắng mặc áo quần cho nó, nghĩ rằng đồ
trang sức thì hơn lời nói, và dành nhiều thời giờ cho trang sức hơn là cho lời,
qua việc cầu nguyện, tôn thờ và bắt đầu để lời đó sống trong tôi.
Tại
Cana xứ Galilê, Đức Giêsu biến nước thành rượu, nghĩa là biến chữ chết thành Thần
Khí tác sinh (như các Giáo Phụ giải thích) ; những tiên tri giả là những người
làm ngược lại, tức là biến đổi rượu thuần khiết của lời Chúa thành nước không làm
cho người ta say sưa, thành chữ chết, thành những lẻo mép vô ích. Tự cơ bản, họ
hổ thẹn về Tin Mừng (x.Rm 1,16), về những lời của Đức Giêsu, vì những lời đó
quá "khó nghe" cho thế gian, hoặc không có giá trị và quá thô sơ cho
các nhà khoa học, và khi đó họ cố gắng "thêm gia vị" cho chúng bằng điều
mà Giêrêmia gọi là "tầm nhìn của lòng họ".
Thánh
Phaolô đã viết cho môn đệ của ngài là Timôthê: "Hãy cố gắng ra trước mặt
Thiên Chúa như một người đã được thử luyện, một người thợ không có gì phải xấu
hổ, một người thẳng thắn dạy lời chân lý. Còn những chuyện nhảm nhí, trống rỗng,
anh hãy tránh xa, vì những kẻ nói những chuyện ấy sẽ tiến sâu vào con đường vô
luân” (2Tm 2,15-16). Những chuyện nhảm nhí là những chuyện không liên quan gì đến
kế hoạch của Thiên Chúa, không liên quan
gì đến sứ mệnh của Giáo Hội. Quá nhiều lời của con người, quá nhiều lời vô dụng,
quá nhiều phát biểu, quá nhiều tài liệu. Trong kỷ nguyên truyền thông đại
chúng, Giáo Hội cũng có nguy cơ chìm vào "bãi rác" những lời vô dụng,
được nói ra chỉ để nói, được viết ra vì có các tạp chí và báo chí có chỗ đăng.
Như
vậy, chúng ta làm cớ cho thế giới sống yên hàn trong sự vô tín và tội lỗi của
mình. Nếu thế giới nghe lời chân thật của Chúa, sẽ không dễ cho người không tin
thoát ra bằng cách nói (như họ thường làm sau khi nghe chúng ta giảng): "Chỉ
thấy dài và dai, với những lời nhảm nhí!". Thánh Phaolô cho thấy lời Chúa như
"khí giới chúng ta dùng để chiến đấu", và nói rằng, nhờ ơn Chúa, lời ấy
"có sức đánh đổ các đồn lũy. Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận và mọi
thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi tư tưởng
phải đầu hàng” (2Cr 10,3-5).
Theo
triết gia Kierkegaard, nhân loại đang suy nhược vì ồn ào động đạc. Phải “công bố
một thời gian chay tịnh”, nhưng là chay tịnh lời nói ; phải có ai đó kêu lên: "Hỡi
Israel, hãy im lặng mà nghe!", như Môsê đã kêu (Đnl 27,9). Đức Thánh Cha (Bênêđitô
XVI) nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của thứ chay tịnh này trong cuộc gặp gỡ
Mùa Chay với hàng giáo sĩ Rôma, và tôi tin rằng, như thường lệ, lời mời gọi của
ngài đã được gửi đến Giáo Hội trước khi được gửi đến thế giới.
4. Đức Giêsu đã không đến
để nói với chúng ta những điều không quan trọng
Những
lời sau đây của Charles Péguy luôn gây ấn tượng cho tôi:
Này
con,
Chúa
Giêsu Kitô,
-
Chính là Giáo Hội đang nói với con cái mình -
đã
không đến để nói với chúng ta những chuyện nhảm nhí.
Con
hiểu
Ngài
đã không du hành đến trái đất...
Để
kể cho chúng ta những chuyện giải trí trẻ con
Và
những chuyện cười đùa...
Ngài
không có thời gian để vui chơi...
Ngài
đã không tốn phí đến vậy
Để
mang đến cho chúng ta
Những
câu đố vui
Mối
quan tâm phân biệt lời Chúa với bất cứ lời nào khác lớn lao đến nỗi, khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Đức Giêsu
ra lệnh cho họ đừng chào hỏi ai dọc đường (Lc 10,4). Tôi có kinh nghiệm phải chịu
thiệt thòi là lệnh truyền này đôi khi phải được hiểu theo nghĩa đen. Dừng lại để
chào người ta và trao đổi xã giao lúc sắp phải giảng, chắc chắn sẽ mất tập
trung vào lời phải giảng, và làm mất đi ý nghĩa về sự khác biệt của nó so với bất
kỳ loại ngôn từ nào của con người. Chúng ta nên cảm nhận cùng một đòi hỏi ấy
khi mặc phẩm phục để cử hành Thánh lễ.
Đòi
hỏi còn mạnh hơn khi nói đến chính nội dung rao giảng. Trong Tin Mừng Máccô, Đức
Giêsu trích dẫn lời của Isaia: "Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Is 29,13) ; rồi Ngài nói với
những người Pharisiêu và các kinh sư: "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên
Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm... Các ông thật khéo coi thường điều
răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông…Các ông lấy truyền thống
các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mc 7,7-13).
Khi
chúng ta không giới thiệu lời đơn giản và trần trụi của Chúa, mà không đưa nó
qua bộ lọc của vô số những phân biệt và xác định, những bổ sung và giải thích, tự
chúng cũng chính đáng, nhưng lại giết chết lời Chúa, thì đúng là chúng ta làm điều
mà hôm ấy Đức Giêsu đã khiển trách các người Pharisiêu và các kinh sư : chúng
ta đã “hủy bỏ” lời Chúa, đã "phản bội" nó, khi làm cho nó mất đi phần
lớn sức mạnh thâm nhập vào trái tim con người.
Lời
Chúa không thể được dùng để diễn thuyết tùy hoàn cảnh hay để phủ bọc những diễn
thuyết dọn sẵn và hoàn toàn của con người bằng thế giá của Thiên Chúa. Trong thời
gian gần đây, chúng ta đã thấy xu hướng này dẫn tới đâu. Phúc Âm đã được sử dụng
để hỗ trợ tất cả các loại dự phóng của con người : từ đấu tranh giai cấp đến
cái chết của Thiên Chúa.
Khi
một cử tọa được xác định trước bằng các điều kiện tâm lý, nghiệp đoàn, chính trị,
đến nỗi ngay từ đầu, không thể không nói những gì họ mong đợi, không thể không cho
họ có lý về mọi chuyện ; khi không hy vọng có thể dẫn khán giả tới chỗ có thể
nói với họ: "Hãy hoán cải và tin!”, thì tốt hơn là không công bố lời Chúa,
để lời Chúa không bị sử dụng như phương tiện cho những mục đích phe phái, và do
đó bị phản bội. Nói cách khác, tốt hơn là không nên rao giảng đích danh, bất
quá chỉ cần lắng nghe, cố gắng hiểu và chia sẻ những lo lắng và đau khổ của người
ta, rao giảng Nước Thiên Chúa bằng sự hiện diện và bác ái. Trong Phúc Âm, Đức
Giêsu rất cẩn thận không để mình bị biến thành dụng cụ cho những mục đích chính
trị và phe phái.
Thực
tại của kinh nghiệm, lời của con người, tất nhiên không bị loại trừ khi rao giảng,
nhưng nó phải tùy thuộc vào lời Chúa, để phục vụ lời Chúa. Cũng giống như trong
Thánh Thể, thân thể của Đức Kitô đồng hóa người ăn, chứ không ngược lại, cũng vậy,
trong việc loan báo, chính lời Chúa, là nguyên lý mạnh nhất của đời sống, phải bắt
lời của con người lụy phục và bị đồng hoá, chứ không ngược lại. Do đó, khi giải
quyết các vấn đề giáo lý và kỷ luật của Giáo Hội, phải can đảm thường xuyên khởi
đi từ lời Chúa, đặc biệt là lời Tân Ước, và sau đó gắn kết với lời này, chịu để
cho lời này ràng buộc, chắc chắn theo cách này người ta có bảo đảm hơn sẽ đạt được
mục đích là khám phá ra ý muốn của Thiên Chúa trong mỗi vần đề.
Người
ta cũng cảm thấy nhu cầu như vậy trong các cộng đồng tu sĩ. Trong việc đào tạo
những người trẻ và những tập sinh, trong những buổi linh thao và phần còn lại của
đời sống cộng đồng, người ta có nguy cơ dành nhiều thời gian cho các văn phẩm của
vị sáng lập (thường có nội dung rất nghèo nàn) hơn là cho lời Chúa.
5. Nói như những lời của
Thiên Chúa
Tôi
hiểu những gì mình nói có thể khiến nhiều người bác bẻ cách nghiêm trọng. Việc rao
giảng của Giáo Hội phải chăng sẽ chỉ còn là một chuỗi các trích dẫn Kinh Thánh,
với rất nhiều chỉ dẫn về chương này câu kia, theo cách của giáo phái Chứng Nhân
Giêhôva và các nhóm duy căn (fondamentalistes) khác? Chắc chắn là không. Chúng
ta là những người thừa kế một truyền thống khác. Đây là điều tôi muốn nói qua
việc gắn bó với lời Chúa.
Vẫn
trong thư thứ hai Côrintô, Thánh Phaolô viết: "Chúng tôi không phải như
nhiều người, những kẻ xuyên tạc (nghĩa đen là: pha loãng, ngụy tạo!) lời Chúa,
mà với tư cách là những người trung thực, được Thiên Chúa sai đi, chúng tôi lên
tiếng trước mặt Người, trong Đức Kitô” (2Cr 2,17) và Thánh Phêrô, trong thư thứ
nhất, khuyên các Kitô hữu như sau: “Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa" (1Pr
4,11). “Nói trong Đức Kitô”, hay “nói (như) lời Thiên Chúa", có nghĩa gì? Chắc
chắn không có nghĩa là chỉ lặp lại nguyên si những lời được Đức Kitô và Thiên
Chúa nói trong Kinh Thánh ; nhưng có nghĩa là cái hứng cơ bản, tư tưởng "định
hình" và hỗ trợ mọi sự, phải đến từ Thiên Chúa chứ không phải từ con người.
Người loan báo phải được "Thiên Chúa sai khiến" và nói như Người đang
hiên diện.
Có
hai cách chuẩn bị một bài giảng hoặc bất kỳ loan báo nào về đức tin, bằng lời
nói hay lời viết. Trước tiên tôi có thể ngồi ở văn phòng, và chính tôi chọn lời
để loan báo và chủ đề để khai triển, dựa trên kiến thức, sở thích của tôi, v.v.
Và một khi chuẩn bị xong bài giảng, tôi có thể quỳ xuống để xin Chúa chúc phúc
cho những gì tôi đã viết và làm cho những lời của tôi có hiệu quả. Việc này đã tốt,
nhưng nó không phải là đường lối tiên tri. Đúng hơn, chúng ta phải làm ngược lại.
Đầu tiên, quỳ xuống và cầu xin Chúa cho biết đâu là lời Người muốn nói ; sau
đó, ngồi vào bàn làm việc và sử dụng những kiến thức của mình để tạo hình hài
cho lời này. Điều này làm thay đổi mọi thứ, vì theo cách này, không phải Thiên
Chúa phải làm cho lời của tôi thành lời của Ngài, mà chính tôi là người làm cho
lời của Ngài thành lời của tôi.
Chúng
ta phải tin chắc rằng, trong mọi trường hợp, Chúa Phục Sinh có trong lòng một lời
mà Ngài muốn truyền đạt cho dân. Chính lời đó làm thay đổi sự việc, chính lời
đó mà chúng ta cần phải khám phá. Và chắc hẳn Ngài sẽ mạc khải lời đó cho thừa
tác viên của mình, nếu người này khiêm tốn và kiên nhẫn nài xin Ngài. Lúc đầu,
đây gần như là một vận hành của trái tim mà người ta không nhận ra : một ánh
sáng nhỏ bừng lên trong tâm trí, một lời Kinh Thánh bắt đầu làm ta chú ý và làm
sáng tỏ một tình huống.
Đó
thực sự là "hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt", nhưng sau đó người ta
nhận ra rằng, ở bên trong đã có mọi thứ ; có một tiếng sét có thể quật ngã những
cây hương nam xứ Liban. Sau đó người ta ngồi vào bàn làm việc, mở sách, tham khảo
các ghi chú, các Giáo Phụ, các bậc thầy, các nhà thơ.... Nhưng bây giờ, tất cả
hoàn toàn khác. Không còn là lời Chúa phục vụ văn hoá của chúng ta, nhưng là
văn hoá của chúng ta phục vụ lời Chúa.
Origen
mô tả quá trình dẫn đến khám phá này. Theo ông, trước khi tìm kiếm thức ăn
trong Kinh Thánh, phải chịu đựng một "sự nghèo khó của giác quan" ; tâm
hồn bị bóng tối bao quanh tứ phía, người ta đi vào những con đường không lối
thoát. Cho đến lúc, đột nhiên, sau khi đã tìm kiếm vất vả và cầu nguyện, tiếng
của Ngôi Lời vang lên, và ngay lập tức, một cái gì đó sáng lên ; Đấng mà tâm hồn
tìm kiếm đang đến gặp, “nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi” (x. Dc 2,8), tức
là mở rộng tâm trí để nhận được lời mạnh mẽ và sáng láng của Ngài". Một niềm
vui lớn đến kèm với lúc này, niềm vui khiến Giêrêmia phải thốt lên: "Gặp
được lời Chúa, tôi đã nuốt vào. Lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thỏa lòng
con” (Gr 15,16).
Nói
chung, câu trả lời của Thiên Chúa là dưới hình thức một lời Kinh Thánh ; tuy
nhiên vào lúc này, lời ấy có liên quan lạ lùng với tình huống và với vấn đề phải
bàn, như thể lời ấy đã được viết ra chính xác cho trường hợp này. Đôi khi thậm
chí không cần trích dẫn một cách rõ ràng lời kinh thánh nào đó, hoặc bình giải
về nó. Chỉ cần lời này hiện diện rõ trong tâm trí người nói và thấm nhiễm mọi điều
ông nói. Nếu có trường hợp như vậy thì de
facto ông nói "như những lời của Thiên Chúa". Phương pháp này vẫn
còn hiệu lực : cho các văn kiện lớn của Huấn quyền cũng như cho bài học mà vị
giám tập truyền đạt cho tập sinh, cho hội nghị các học giả cũng như cho bài giảng
khiêm tốn dành cho Thánh lễ chủ nhật.
Tất
cả chúng ta đều có kinh nghiệm về điều mà chỉ một lời Thiên Chúa có thể làm, lời
mà chúng ta tin tưởng sâu xa và được sống trước hết bởi người công bố nó, thậm
chí đôi khi người đó không biết. Thông thường, chúng ta thấy rằng trong vô số lời,
chính lời đó đã đánh động con tim và đưa nhiều người đến với tòa giải tội.
Sau
khi đã chỉ ra các điều kiện của việc loan báo Kitô giáo (nói về Đức Kitô, với lòng
chân thành, như được Thiên Chúa thúc đẩy và dưới ánh mắt của Người), thánh Tông
Đồ tự hỏi: "Ai là người có khả năng thực hiện điều ấy?" (2Cr 2,16). Hiển
nhiên không có ai cả. Chúng ta chứa đựng kho báu này trong những bình sành (2Cr
4,7). Nhưng chúng ta có thể cầu nguyện : Lậy Chúa, xin đoái nhìn chiếc bình
sành đáng thương này vì nó phải mang kho tàng lời của Chúa ; xin giữ con không thốt
ra những lời vô dụng khi nói về Chúa ; xin cho con biết yêu thích lời Chúa để
chúng con biết phân biệt với mọi lời khác, biết coi mọi lời khác là vô vị. Như Chúa
đã hứa, xin hãy gieo nạn đói trên xứ này, “không phải đói bánh ăn, cũng không
phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe lời Chúa” (Am 8,11).
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ hai Mùa Chay năm 2008, tại Phủ Giáo hoàng
Lm Micae Trần Đình Quảng