“ĐỨC KITÔ ĐÃ CHỊU HIẾN TẾ
LÀM CHIÊN VƯỢT QUA CỦA CHÚNG TA”
Thánh Thể trong lịch sử cứu độ
Ước
nguyện của tôi trong bài suy niệm đầu tiên này là định vị mầu nhiệm bữa Tiệc Ly
trong tất cả lịch sử cứu độ. Mạc khải của Thiên Chúa cho con người nằm trong khuôn
khổ một lịch sử, mà theo đối tượng và mục đích của nó, được gọi là lịch sử cứu
độ.
Giữa
lòng lịch sử thế giới mà người ta có thể thấy và dựa trên các tài liệu, diễn ra
một lịch sử khác, không có những chiến tranh và hòa bình hay những phát minh của
con người làm dây dẫn, nhưng là những “phát minh” của Thiên Chúa, những mirabilia Dei (những việc lạ lùng của
Thiên Chúa), là những can thiệp của lòng Thiên Chúa nhân từ. Tất cả những hành
động mà Thiên Chúa thực hiện ở bên ngoài Người (ad extra), từ lúc tạo dựng đến lúc quang lâm, đều thuộc về lịch sử
này.
Đức
Kitô đến qua việc nhập thể ghi dấu một nét khác biệt về phẩm chất vào lịch sử
đó, theo cách một con sông khi chạm tới cống ngăn thì mực nước lên cao hơn. Tất
cả những việc Đức Giêsu làm trong cuộc đời của Ngài đều thuộc về lịch sử cứu độ:
ngay cả sự thinh lặng và chuyện thường ngày ở Nadarét cũng thuộc về lịch sử
này. Thời giờ của Ngài là “trung tâm của thời gian”, sự “viên mãn của thời
gian”.
Nhưng
lịch sử cứu độ không dừng lại ở lịch sử Đức Kitô. Cả chúng ta nữa, chúng ta
cũng thuộc về lịch sử này. Đời sống của một người tín hữu thuần túy, từ lúc được
rửa tội tới lúc chết, nói tóm lại, là một lịch sử cứu độ. Đó là vũ trụ vi mô của
lịch sử cứu độ, trong khi lịch sử khác kéo dài từ tạo dựng đến quang lâm là vũ
trụ vĩ mô của lịch sử này. Lần đến cuối cùng của Đức Kitô sẽ ghi dấu trong lịch
sử lâu dài này một nét khác biệt mới về phẩm chất: lần này sẽ là lúc lịch sử đi
tới cái vượt lên trên nó, từ thời gian tới vĩnh cửu, từ hy vọng tới chiếm đoạt,
từ đức tin tới vinh quang.
Khi
ấy, cuộc đời chúng ta thuộc về sự viên mãn của thời gian, khởi đầu bằng biến cố
nhập thể, ở giữa cái “đã có” và cái “chưa có”. Nếu chúng ta hình dung lịch sử cứu
độ như một đường thẳng trải dài trong thời gian, chúng ta có thể cho thấy điều
“đã” được thực hiện bằng một đường thẳng ngắt quãng cho tới lúc này, và điều
“chưa được thực hiện”, mà chúng ta đang chờ được hoàn tất, bằng một đường thẳng
được phác họa nhưng có thể ngắt quãng bất cứ lúc nào, vì chính đêm nay Chúa có
thể trở lại.
Khi
ấy, chúng ta tự hỏi Thánh Thể có chỗ đứng nào trong lịch sử cứu độ này. Chúng
ta phải đặt Thánh Thể chỗ nào trong dòng thời gian? Trả lời: Thánh Thể không ở
một chỗ nào, nhưng ở trong tất cả dòng thời gian này. Thánh Thể bao trùm lịch sử
cứu độ: tất cả lịch sử cứu độ hiện diện trong Thánh Thể và Thánh Thể hiện diện
trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Như ta thấy lúc bình minh, tất cả vòm trời
phản chiếu trong giọt sương mai trên một cành của hàng rào cây xanh, cũng thế,
trong Thánh Thể người ta chiêm ngắm tất cả dòng chảy của lịch sử cứu độ.
Tuy
vậy, có ba cách hiện diện khác nhau nơi Thánh Thể, theo thời gian hay giai đoạn
mà chúng ta phân biệt trong lịch sử cứu độ: trong Cựu Ước hiện diện như hình bóng, trong Tân Ước hiện diện như biến cố, và trong thời Giáo Hội, là thời
của chúng ta, như bí tích. Trong khi
hình bóng đi trước và chuẩn bị biến cố, thì bí tích “kéo dài” và hiện tại hóa
biến cố ấy.
Những hình bóng của
Thánh Thể
Như
tôi đã nói, trong Cựu Ước, Thánh Thể hiện diện như “hình bóng”. Tất cả Cựu Ước
chuẩn bị cho bữa Tiệc Ly của Chúa. Một con người đã ban một bữa tối vĩ đại.
Thánh Augustinô thốt lên: “Ai là con người này, nếu không phải là Đức Giêsu
Kitô, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người? Ngay từ những ngày đầu của
sứ vụ, các tiên tri đã không ngừng mời gọi người ta đến với bữa tiệc của Đức
Kitô. Họ đã được sai đến với dân Israel; họ thường được sai đến, và thường lặp
lại lời mời gọi, để các thực khách đến với bữa tiệc khi nào muốn” (Serm. 112 ; PL 38, 643).
Sự
chờ đợi này về giờ của bữa tối luôn được cảnh giác, không chỉ bằng lời các tiên
tri, mà còn nhờ những hình bóng hoặc những “kiểu mẫu”, nói khác đi, nhờ những dấu
chỉ hoặc những nghi thức cụ thể tạo nên việc chuẩn bị hữu hình hoặc “phác họa”
cách nào đó bữa Tiệc Ly của Đức Kitô.
Một
trong những hình bóng này được Đức Giêsu nhắc đến là manna (x. Xh 16,4 tt ; Ga
6,31 tt). Một hình bóng khác: hy tế của Melkisêđê và việc ông dâng bánh rượu
(x. St 14,18 ; Tv 110,4 ; Dt 7,1 tt). Hoặc hy tế của Isaác. Trong ca tiếp liên
“Lauda Sion Salvatorem” do thánh Tôma
Aquinô sáng tác cho ngày lễ Mình Máu Chúa, chúng ta hát: “Bánh được loan báo bằng
những hình bóng, được sát tế nơi Isaác, được chỉ định nơi con chiên vượt qua,
được ban như manna cho các tổ phụ”.
Trong
tất cả các hình bóng này về Thánh Thể, có một hình bóng còn hơn là một “hình
bóng”; nó chuẩn bị và như dự báo cho Thánh Thể: lễ Vượt Qua. Chính từ Vượt Qua
mà có danh xưng bàn tiệc hay bữa ăn vượt qua; người ta dựa vào đó mà gọi Đức
Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”. Kể từ đêm ra khỏi Ai Cập, Thiên Chúa đã chiêm ngắm
Thánh Thể, Người đã nghĩ đến việc ban cho chúng ta Con Chiên đích thực. Thiên
Chúa nói: “Thấy máu, Ta sẽ vượt qua”
(Xh 12,13), có nghĩa là: Ta sẽ “thực hiện cuộc Vượt qua” cho các ngươi, Ta sẽ bỏ
qua cho các ngươi, Ta sẽ cứu vớt các ngươi.
Về
điểm này, các Giáo Phụ đã tự hỏi: Chúa đã có thể thấy gì quý giá như thế nơi
nhà các người Do Thái để “vượt qua” và truyền cho thần sứ không đánh phạt…, và
đây là câu trả lời của các ngài: Người thấy Máu của Đức Kitô, Người thấy Thánh
Thể! Một trong những bản văn đầu tiên về lễ Vượt Qua trong Giáo Hội nói cho
chúng ta như sau: “Ôi, mầu nhiệm mới mẻ khôn tả! Con chiên bị sát tế trở thành
ơn cứu độ cho Israel, và cái chết của nó trở thành sự sống cho dân, máu nó làm
thiên sứ run sợ (x. Xh 12,13). Ôi thiên sứ, hãy trả lời cho tôi: vì sao người
run sợ, con chiên bị giết hay sự sống của Chúa? Máu của con chiên hay Thần Khí
của Chúa? Rõ ràng người thấy run sợ: người đã thấy mầu nhiệm của Chúa được hoàn
tất nơi con chiên, người đã thấy sự sống của Chúa nơi con chiên bị sát tế; con
chiên bị giết là hình bóng của Chúa; vì vậy, người đã không đánh phạt Israel”
(Mêlitô Sardes, Sur la Pâque, 31 tt).
“Từ lúc ấy, đâu sẽ là sức mạnh của thực tại
(tức của lễ Vượt Qua Kitô giáo) nếu hình bóng thuần túy của nó đã là nguyên
nhân cứu độ” (Pseuđô-Hyppolitô, Sur la
Pâque, 3). Một hiệu năng như thế của các hình bóng Thánh Thể mà thôi đã khiến
thánh Tôma gọi các nghi thức của Cựu Ước là “những bí tích của luật cũ”.
Thời
Đức Giêsu, lễ Vượt Qua Do thái theo nghi lễ gồm hai thì: tiên vàn là sát tế
chiên được dẫn đến đền thờ Giêrusalem, lúc sau trưa ngày 14 nisan; sau đó, cả
gia đình ăn thịt chiên trong bữa ăn Vượt Qua vào đêm kế tiếp. Trong phụng vụ bữa
ăn, người cha trong gia đình – đây là lúc duy nhất ông mặc phẩm phục tư tế – cắt
nghĩa tính chất biểu tượng của các nghi thức, khi cho các con thấy, bằng những
đường nét lớn, việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Người.
Cuối
cùng, cũng vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua trở thành việc “tưởng niệm” (mémorial) không những cuộc Xuất hành, mà
cả mọi thần hiện khác của Thiên Chúa trong lịch sử Israel. Lễ Vượt Qua chính là
tưởng niệm và kỷ niệm bốn đêm quan trọng nhất của thế giới: đêm tạo dựng khi
ánh sáng vọt lên từ bóng tối; đêm Abraham sát tế Isaác; đêm ra khỏi Ai Cập và
đêm Đấng Mêsia đến còn phải đợi (Targum
sur Ex. 12,42).
Như
vậy, đối với người Do Thái, lễ Vượt Qua là một tưởng niệm (theo chữ trong Xh 12,14); nó còn là chờ đợi. Thật bất hạnh, khi Đấng Mêsia đến,
Đấng họ chờ đợi, thì họ lại không nhận ra Ngài, nhưng “biến Ngài thành điều họ
muốn” vì Ngài bị giết vào chính một dịp lễ Vượt Qua. Nhưng qua việc giết người
này, họ thực hiện hình bóng và hoàn tất điều họ chờ đợi: sát tế Con Chiên đích
thật của Thiên Chúa. Trong những ngày đó, như thường lệ, ở Giêrusalem có rất
đông người đến mừng lễ; tuy nhiên không một ai khi ấy biết rằng, trong một
phòng cao của thành phố, điều người ta chờ đợi từ bao nhiêu thế kỷ trở thành thực
tại.
Khi
Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em
hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19), từ “tưởng nhớ” lập tức nhắc nhớ cùng một từ
của sách Xuất hành, giúp cho người ta nghĩ rằng lễ Vượt Qua mới đã được thiết lập.
Thực sự, việc tưởng niệm cũ vẫn còn, nhưng nội dung của nó đã thay đổi, hoặc
đúng hơn, được hoàn tất: từ đây, lễ Vượt Qua sẽ tưởng niệm một sự sát tế khác,
một cuộc vượt qua khác: “Phúc cho ngươi, đêm cuối cùng, vì nơi ngươi, đêm ra khỏi
Ai Cập đã được hoàn tất. Nơi ngươi, Chúa chúng ta đã ăn lễ Vượt Qua nhỏ, và
chính Ngài trở thành lễ Vượt Qua lớn. Lễ Vượt Qua thay thế cho lễ Vượt Qua,
ngày lễ thay thế cho ngày lễ. Đây là lễ Vượt Qua qua đi và lễ Vượt Qua còn mãi;
đây là hình bóng và sự hoàn tất nó” (thánh Êphrem, Hymnes sur la crucifixion 3, 2).
Thánh Thể như biến cố
Từ
đây, chúng ta đang ở trong sự viên mãn thời gian: Thánh Thể không còn hiện diện
như hình bóng nữa, nhưng như thực tại. Nội dung cũ của lễ Vượt Qua không bị phá
hủy, cũng không bị quên lãng, nhưng có một nội dung khác chồng lên nó, một nội
dung quan trọng đến mức vô biên, làm cho nó được “xác thực” và vượt qua nó từ mọi
phía. Nét mới mẻ lớn lao hoàn toàn được gom góp trong lời thánh Tông Đồ hô lên:
“Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt
Qua của chúng ta” (1Cr 5,7). Vì vậy Thánh Thể có thể được gọi là “mầu nhiệm
vừa cũ vừa mới : cũ nhờ được tiên trưng, mới nhờ thành hiện thực” (Mêlitô
Sardes).
Thế
nhưng, nói cho đúng, biến cố làm nền tảng cho Thánh Thể và thực hiện lễ Vượt
Qua mới hệ tại ở điều gì? Về điểm này, các Phúc Âm đưa ra hai kiểu giải đáp bổ
túc cho nhau, và đồng thời cho phép ta hiểu hơn mầu nhiệm, được xét theo những
quan điểm khác nhau. Như ta đã thấy, đối với người Do Thái, lễ Vượt Qua xẩy ra
trong hai thì và tại hai nơi khác nhau: sát tế chiên ở đền thờ và bữa ăn tại
nhà. Tác giả Gioan thích xem xét lúc sát tế hơn; lễ Vượt Qua Kitô giáo, theo
ngài (và như vậy là cả Thánh Thể) được thiết lập trên thập giá, vào lúc Đức
Giêsu, Con Chiên đích thực của Thiên Chúa, chịu hiến tế. Phúc Âm của ngài cho
thấy một sự tập trung đặc biệt: một đàng, nhiều lần ngài nhấn mạnh rằng lễ Vượt
Qua của người Do Thái đã gần đến (“sắp đến
lễ Vượt Qua của người Do Thái”, “sáu ngày trước lễ Vượt Qua”, “hôm đó là ngày
áp lễ”); đàng khác, ngài nói rằng “giờ” của Đức Giêsu cũng gần đến, giờ
Ngài chịu chết và được tôn vinh. Vậy có một sự gần đến “về thời gian” của một
ngày và một giờ rõ ràng, và một sự gần đến “về không gian” hướng về Giêrusalem,
tới lúc hai đà tiến này tập trung và đan chéo nhau ở Canvê, lúc sau trưa ngày
14 nisan, cho đến lúc người ta sát tế chiên cho lễ Vượt Qua ở đền thờ. Để làm nổi
bật hơn sự trùng hợp này, Gioan ghi nhận rõ sự kiện sau đây: trên thập giá,
liên hệ đến Đức Giêsu, “không một khúc
xương nào của Người sẽ bị dánh dập” (Ga 19,36), theo chỉ thị của sách Xuất
hành về chiên lễ vượt qua (Xh 12,46). Người ta hẳn có thể nghĩ rằng, vào đúng
lúc này, tác giả Phúc Âm thứ tư biến những lời của Gioan Tẩy Giả làm lời của
mình, và chỉ tay lên Đức Giêsu trên thập giá, ngài công bố cho mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội
trần gian” (Ga 1,29).
Ba
tác giả Phúc Âm nhất lãm thích chọn thời điểm bữa ăn hơn. Chính trong bữa ăn,
chính xác là lúc lập phép Thánh Thể, mà các ngài thấy bước chuyển từ lễ Vượt
Qua cũ sang lễ Vượt Qua mới được thực hiện. Đối với các ngài, nét nổi bật nhất
là việc chuẩn bị bữa ăn vượt qua Đức Giêsu mừng trước khi chết: “Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với
các môn đệ của tôi ở đâu ?” (Lc 22,11). Gioan nhấn mạnh lúc hiến tế thực sự
(thập giá), còn Phúc Âm nhất lãm nhấn mạnh lúc hiến tế thần bí (bữa ăn). Nhưng
đây cũng chỉ là cùng một biến cố nhìn dưới
hai khía cạnh khác nhau, và biến cố này chính là sự hiến tế của Đức
Kitô. Thánh Êphrem viết: “Trong bữa ăn, Đức Giêsu hiến tế chính mình ; trên thập
giá, Ngài chịu hiến tế nhờ những người khác” (Hymne sur la cruxifixion 3, 1); đấy là cách Ngài nói rằng mạng sống
của Ngài, không ai lấy đi được; chính Ngài tự ý hy sinh mạng sống mình, có quyền
hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy (x. Ga 10,18).
Như
vậy, biến cố nền tảng của Thánh Thể là sự chết và sự sống lại của Đức Kitô,
hành vi “hy sinh mạng sống để lấy lại mạng sống ấy”. Chúng ta gọi đó là “biến cố”
vì đã xẩy ra trong lịch sử. Đó là một sự kiện độc nhất trong thời gian và không
gian xẩy ra một lần thay cho tất cả (semel)
và không thể lặp lại : Đức Kitô “đã xuất
hiện chỉ một lần để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt
9,26). Tuy nhiên đây không phải là những “sự kiện” thô ; chúng có lý do “vì
sao”, thậm chí “cho tôi”, tạo nên linh hồn của nó, và đó là tình yêu. Thánh Thể
sinh ra từ tình yêu; đấy là động cơ giải thích tất cả: vì Ngài đã yêu ta. “Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì
chúng ta đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương
thơm ngào ngạt” (Ep 5,2). Đây là cách tốt nhất cho biết Thánh Thể đến từ
đâu và thực sự là gì. Thánh Thể cho ta thấy như là công trình và quà tặng của cả
Ba Ngôi; tất cả Ba Ngôi tham gia thiết lập Thánh Thể: Chúa Con tự hiến tế như lễ
vật dâng lên Chúa Cha là Đấng nhận lấy trong Chúa Thánh Thần (x. Dt 9,14).
Tất
cả Ba Ngôi góp phần vào hy tế do đó mà có Thánh Thể, chứ không phải chỉ mình Đức
Giêsu. Điều đó giúp chúng ta đính chính một tư tưởng sai lầm có thể đã có, nhất
là về Chúa Cha. Một thứ văn hóa thời thượng nào đó, một cách ngây ngô và phạm
thánh, đưa về Thiên Chúa Cha một vài thành kiến được biét đến nhiều nhờ khoa
phân tâm học khi nói về những người cha tự nhiên. Chẳng hạn người ta tưởng tượng
một Chúa Cha vô cảm ngự trên trời cao, trong khi Con mình chết trên thập giá,
thậm chí sẵn sàng nhận máu hy tế của Con. Một Chúa Cha cam lòng nhận lấy và
không ban mình, đòi máu của con mình làm giá chuộc, chỉ khiến cho chúng ta sợ
hãi và ghê tởm. Tuy nhiên, đó là cách trình bầy hoàn toàn sai lạc. Thánh Phaolô
nói rằng: “(Đến như chính Con Một), Thiên
Chúa Cha cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm
8,32). “Vì hết thảy chúng ta”, đó là chìa khóa để hiểu tất cả. Nếu Chúa Cha chấp
nhận hy tế của Chúa Con, chính vì Chúa Con đã đưa về cho Người “mọi con cái đang tản mác về một mối”
(x. Ga 11,52); chính như thế mà Ngài để Chúa Cha có thể thực hiện được ý định
quý giá nhất của mình là “mọi người được
cứu độ” (x.Tm 2,4). Tình yêu của Chúa Cha dành cho Đức Giêsu không giới hạn,
vì Đức Giêsu đã hy sinh cho các anh chị em. Nhìn gần hơn, thì đó không chỉ thuần
túy vì Ngài hiến mình, nhưng vì hiến mình cho các anh chị em. Thiên Chúa luôn
là một Thiên Chúa “muốn tình yêu chứ
không muốn hy lễ” (Hs 6,6); nếu Người chấp nhận hy lễ của Con, chính vì Người
đã cho phép Con thương xót thế giới.
Như
vậy, Chúa Cha không chỉ là Đấng nhận hy tế của Con, Người còn là Đấng ban Con
mình làm hy tế, Đấng phải hy sinh ban Con mình cho chúng ta! Theo thánh Phaolô,
nếu Đức Giêsu dâng mình cho Thiên Chúa vì chúng ta, khi ấy, hy tế đúng là cho
Thiên Chúa, nhưng không phải Thiên Chúa được hưởng lợi, mà là con người, là
chúng ta, chính đó là tất cả sự khác biệt giữa hy tế Kitô giáo và các các hy tế
khác.
Chúng
ta không thể nói cho cùng về biến cố thập giá từ đó phát sinh ra Thánh Thể;
chúng ta sẽ không bao giờ vét cạn nguồn phong phú. Biến cố này, xẩy ra quá
nhanh và rất ít quan trọng trong lịch thế giới, ít nhất xét bên ngoài, thực sự
hàm chứa một năng lực mạnh mẽ đến nỗi sự cứu độ của lịch sử thế giới dựa vào
đó. Theo cách loại suy, người ta bắt đầu nghĩ tới năng lượng chứa đựng trong nguyên
tử cũng rất nhỏ. Có một hôm, liên tưởng tới lúc này, Đức Giêsu nói: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thấy những
ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49). Thực sự, “mọi sự đã hoàn
tất” trên thập giá: không một tư tưởng nào hay hành động nào có thể đạt tới mức
lớn lao như vậy. Ở đó, chúng ta chạm tới đáy mọi nguồn mạch thần linh và nhân
loại; sự dữ dưới bất cứ hình thức nào đều bị đánh bại tận căn, mọi ơn cứu độ đã
đến, mọi vinh quang đều đưa về Ba Ngôi.
Thánh Thể như bí tích
Giờ
đây chúng ta xem xét Thánh Thể ở giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ, thời của
Giáo Hội mà chúng ta đang sống. Vào lúc này, Thánh Thể hiện diện như là bí
tích, nghĩa là dưới dấu chỉ bánh và rượu, như Đức Giêsu đã thiết lập trong bữa
cuối khi Ngài nói: Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.
Điều
quan trọng là cần hiểu sự khác biệt giữa biến cố mà chúng ta đã mô tả và bí
tích, sự khác biệt giữa lịch sử và phụng vụ. Thánh Augustinô giúp ta làm công
việc này. Thánh Tiến sĩ viết: “Chúng ta biết và chúng ta tin bằng một đức tin
không lẫn lộn là Đức Kitô đã chết cho ta chỉ một lần, Ngài là Đấng Công Chính
chết cho ta là những tội nhân, là Chúa chết cho các tôi tớ. Anh em biết biến cố
này chỉ xẩy ra một lần; tuy nhiên, bí tích lặp lại theo định kỳ, như thể lặp lại
nhiều lần điều lịch sử tuyên bố chỉ xẩy ra một lần duy nhất. Tuy vậy không có
mâu thuẫn giữa biến cố và bí tích, như thể người ta có thể tuyên bố bí tích là
giả và chỉ coi biến cố là thật. Thực ra, điều chỉ xẩy ra một lần duy nhất theo
lịch sử, thì trong thực tế bí tích thường lặp lại chính điều đó khi cử hành
trong tâm khảm người tín hữu. Lịch sử mạc khải điều đã xẩy ra một lần và theo
cách nào; còn phụng vụ làm cho quá khứ không bị lãng quên, không theo nghĩa lại
khiến cho biến cố xẩy ra (non faciendo),
nhưng bằng cách cử hành biến cố (sed
celebrando) (x. Serm. 220 ; PL
38, 1089).
Xác
định rõ mối liên hệ giữa hy tế duy nhất của thập giá và thánh lễ là một vấn đề
rất tế nhị, và là một trong những điểm tranh luận chính vốn dĩ vẫn có giữa người
Công giáo và người Tin lành. Như ta đã thấy,
Augustinô sử dụng hai động từ renovat
và celebrat (làm mới lại và cử hành), rất chính
đáng, với điều kiện phải hiểu từ này dưới ánh sáng của từ kia: thánh lễ làm mới
lại biến cố thập giá bằng cách cử hành biến cố (không phải làm lại!), và cử
hành biến cố bằng cách làm mới lại (không chỉ bằng cách tưởng niệm nó!). Từ có
được tối đa sự đồng thuận đại kết có lẽ là động từ biểu thị (được Đức Phaolô VI
sử dụng trong thông điệp Mysterium Fidei),
hiểu theo nghĩa mạnh nhất của biểu thị, tức là hiện tại hóa.
Như
vậy theo lịch sử, chỉ có một Thánh Thể duy nhất mà Đức Giêsu đã thực hiện bằng
cuộc đời và cái chết của mình; ngược lại theo phụng vụ, tức qua bí tích mà Đức
Giêsu thiết lập trong bữa cuối, có biết bao Thánh Thể người ta đã cử hành và sẽ
còn cử hành cho đến tận thế. Biến cố thì chỉ xẩy ra một lần (semel), bí tích được thực hiện “mỗi lần”
(quotiescumque).
Nhờ
bí tích Thánh Thể, chúng ta trở thành những người đồng thời với biến cố cách mầu
nhiệm; biến cố trở thành hiện tại cho chúng ta và chúng ta cho biến cố. Đêm Vượt
Qua, trong phụng vụ, người Do Thái thời Đức Giêsu đã nói: “Qua từng thế hệ, tất
cả và từng người phải tự coi mình như thể chính mình đích thân ra khỏi đất Ai Cập
trong đêm này” (Pesachim X, 5). Áp dụng
cho người Kitô hữu chúng ta, bản văn mốn nói rằng ở mỗi thời kỳ, mỗi người phải
tự coi mình như thể đích thân ở dưới chân thập giá sau trưa hôm đó, đồng thời với
Đức Maria và Gioan. Phải, chúng ta đã ở đó; “chính từ đó mà tất cả chúng ta được
sinh ra”. Khi tôi nghe bài hát đạo của dân da mầu: “Bạn có ở đó, bạn có ở đó, gần
thập giá Đức Giêsu chăng?”, tôi luôn nghe thấy có lời đáp lại trong tôi: phải,
tôi cũng đã ở đó, gần thập giá Đức Giêsu.
Nhưng
bí tích Thánh Thể không hiện tại hóa biến cố thập giá chỉ cho chúng ta mà thôi;
như vậy ít quá: tiên vàn, chính cho Chúa Cha mà bí tích làm cho biến cố ấy
thành hiện tại. Mỗi lần “bẻ bánh”, khi linh mục bẻ bánh thánh, thì như thể bình
trắng nuột của nhân tính Đức Kitô lại vỡ ra, đúng như điều đã xẩy ra trên thập
giá, như thể hương thơm sự vâng phục của Ngài còn bay lên để làm mủi lòng Chúa
Cha. Cũng như khi Isaác hít mùi áo thơm của Giacóp, chúc lành cho cậu mà nói: “Kìa mùi thơm con tôi như mùi thơm cánh đồng
Đức Chúa đã chúc phúc” (St 27,27).
Nếu
chúng ta tự hỏi làm thế nào mà biến cố thập giá không bao giờ được hoàn tất
cách hoàn hảo, giống như mọi sự kiện lịch sử khác, nhưng ngược lại nó tiếp tục
còn được hiện tại hóa hôm nay, câu trả lời cuối cùng chính là: Chúa Thánh Thần.
Lặp lại lời thánh Basiliô, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên bố trong thông điệp về
Chúa Thánh Thần: “Đức Kitô đã hoàn tất mọi công trình của Ngài, đặc biệt hy tế
của Ngài nhờ sự can thiệp của Chúa Thánh Thần (praesente Spiritu)”; trong thánh lễ, trước lúc chịu lễ, linh mục cầu
nguyện như sau: “Lậy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, theo ý Chúa Cha
và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần,
Chúa đã chết để cho thế gian được sống…”. Nền tảng của mọi sự chính là lời Kinh
Thánh trong thư Dt 9,14: “Nhờ Thánh Thần
hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên
Chúa”. Những lời như vậy rọi một ánh sáng mới trên biến cố thập giá; biến cố
là “thuộc linh” nếu chúng ta hiểu nó được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, Đấng
là tình yêu, đã khơi dậy từ trong nơi sâu thẳm của linh hồn nhân loại của Đức
Kitô hành vi hiến mình cho Chúa Cha vì chúng ta, và là Đấng đã làm cho Ngài ôm
lấy thập giá.
Trong
đoạn văn trên, Chúa Thánh Thần được gọi là “hằng hữu”: hằng hữu hay vĩnh viễn ở
đây có nghĩa là sẽ không có kết thúc như các hy tế của Cựu Ước, nhưng kéo dài
hôm nay và luôn mãi tới tận thế. Chính nhờ Thánh Thần hằng hữu mà Đức Giêsu đã
lãnh được ơn cứu chuộc “vĩnh viễn” (x. Dt 9,12). Tự nó, hy tế thập giá được
hoàn tất lúc Đức Giêsu gục đầu xuống và tắt thở. Thế nhưng ở nơi Ngài như có một
ngọn lửa ẩn giấu mà không gì, ngay cả cái chết, có thể dập tắt một khi được thắp
lên. Đức Giêsu Nadarét, với tư cách như thế, không mãi mãi ở giữa ta, nhưng
Ngài trở lại cùng Chúa Cha; ngược lại, Thần Khí của Ngài ở với ta đến muôn đời.
Chính đó là ngôn ngữ của Đức Giêsu khi Ngài nói với những kẻ chất vấn Ngài: “Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng
: Đấng Kitô phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói : Con Người phải được
giương cao?” (Ga 12,34). Ở một đoạn sau, Đức Giêsu gián tiếp trả lời: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho
anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16). Đức
Kitô ở lại luôn mãi khi ban cho các môn đệ Thần Khí của Ngài, Đấng sẽ ở với họ
luôn mãi (H. Muhlen). Do đó chúng ta hiểu vì sao, theo một nghĩa nào đó, hy tế
thập giá có thể còn kéo dài. Cũng như cả cuộc đời của Đức Giêsu, hy tế ấy vừa kết
thúc vừa không kết thúc, vừa nhất thời vừa vĩnh cửu: nhất thời theo lịch sử,
vĩnh cửu theo Thần Khí. Các bí tích của Giáo Hội, đặc biệt bí tích Thánh Thể,
trở thành khả thể nhờ Thần Khí Đức Giêsu sống trong Giáo Hội. Từ nền tảng thần
học này người ta thấy lộ ra tầm quan trọng của kinh epiclesis, kinh khẩn cầu Chúa Thánh Thần trong thánh lễ, lúc thánh
hiến lễ vật.
Trên
thập giá, Đức Giêsu gục đầu “tắt thở”, có nghĩa là “trao Thần Khí” (Ga 19,30);
mỗi thánh lễ có thể được coi như hơi thở cuối cùng của Đức Giêsu, không bao giờ
tắt, sẽ trở lại bay lượn trên chúng ta, khuấy động không khí, nếu có thể nói được
như vậy, để làm cho cộng đoàn đầy tràn sự hiện diện của Đức Kitô. Điều lạ lùng
đã xẩy ra nhờ lời cầu nguyện của Elia trên núi Camêlô, khi lửa từ trời xuống
thiêu rụi củi và của lễ (x. 1V 18,20 tt), điều lạ ấy được lặp lại một cách hoàn
toàn thiêng liêng và vô hình.
Đến
lượt chúng ta, nếu chúng ta cử hành Thánh Thể – như Đức Giêsu đã làm trên thập
giá – “kết hợp với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ ban cho những cử hành của chúng ta
một tiếp nhận mới và một ánh sáng mới. Quả thực, Ngài sẽ làm cho chúng ta trở
thành điều chúng ta xin trong lễ quy, là thành “một hy tế vĩnh cửu làm đẹp lòng
Thiên Chúa”.
(R. Cantalamessa, L’Eucharistie, notre sanctification,
Centurion 1989, chap. 1)
Lm
Micae Trần Đình Quảng