“AI ĂN TÔI
SẼ NHỜ TÔI MÀ ĐƯỢC SỐNG”
Thánh Thể làm nên Giáo Hội nhờ việc chịu lễ
Một
triết gia vô thần đã phát biểu: “Con người là cái mà nó ăn”, một câu đáng cho
ta lưu ý; ông có ý định nói cho ta biết, nơi con người, không có khác biệt về
phẩm giữa vật chất và tinh thần, nhưng tất cả chỉ là đưa về thành tố hữu cơ và
vật chất. Tuy vậy, một lần nữa, chính một người vô thần đã tìm ra cách trình bầy
tốt nhất một mầu nhiệm Kitô giáo, dù ông không biết việc mình làm. Qua Thánh Thể,
người Kitô hữu thực sự là cái mà người đó ăn. Ngay từ xa xưa, thánh Lêô Cả đã
viết: “Việc chúng ta dự phần vào mình và máu Đức Kitô không nhằm chuyện gì khác
hơn là biến chúng ta thánh Đấng mà chúng ta ăn” (Serm. 12 sur la Passion
3, 7).
Nhưng
chúng ta hãy nghe chính Đức Giêsu nói về vấn đề này: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế
nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57). Trong
câu này, giới từ “nhờ” chỉ hai chuyển động: một chuyển động ghi khởi điểm, một
chuyển động ghi đích điểm. Ý nghĩa thế nào? Ai ăn thịt Đức Kitô thì sống “nhờ”
Ngài, nghĩa là nhờ sự sống từ Ngài mà đến, và sống “cho” Ngài, nghĩa là cho
vinh quang, tình yêu và Triều Đại của Ngài. Cũng như Đức Giêsu sống nhờ Chúa
Cha và cho Chúa Cha, cũng vậy, khi chúng ta hiệp thông vào mầu nhiệm mình và
máu Đức Giêsu, chúng ta sống nhờ Ngài và cho Ngài.
Các
Giáo Phụ đã bình giải mầu nhiệm này dựa vào ví dụ lương thực nuôi thân xác.
Theo các ngài, nguyên lý sống mạnh nhất biến đổi nơi mình nguyên lý nào yếu
hơn, chứ không ngược lại: thực vật tiêu hóa khoáng vật, động vật tiêu hóa thực
vật, tình thần tiêu hóa vật chất. Đức Giêsu nói với người đến lãnh nhận Ngài:
“Không phải ngươi biến đổi Ta trong ngươi, nhưng chính Ta sẽ biến đổi ngươi
trong Ta” (thánh Augustinô, Conf. VIII,
10). Chính lương thực, tự nó, không làm cho sống, không thể chuyển thông sự sống
cho ta, nhưng người ta phải ăn vì nó là lý do làm cho sống, vì nó nuôi dưỡng sự
sống đã có nơi thân xác ta. Ngược lại, bánh sự sống làm cho sống và ai lãnh nhận
thì nhờ nó mà được sống thật.
Vì
vậy, trong khi lương thực nuôi thân xác biến đổi thành người ăn nó, trong khi
cá, bánh và mọi của ăn khác trở thành máu của con người, thì ở đây, tất cả đều
ngược lại. Chính bánh sự sống hoạt động, tiêu hóa, và biến đổi thành nó người
nào dùng nó. Chính chúng ta là những người bị Đức Kitô tác động, những người sống
bằng sự sống làm linh hoạt Đức Kitô, do tước hiệu là đầu và trái tim của tất cả
thân thể. Chính vì để giúp chúng ta hiểu chân lý này – Đức Kitô không nuôi sống
ta theo kiểu những thực phẩm hư nát, nhưng vì Ngài có sự sống nơi Ngài, Ngài
làm lan tỏa nơi ta sự sống ấy – mà Ngài hiến mình làm “bánh ban sự sống”, và
nói thêm: “Ai ăn tôi sẽ nhờ tôi mà được sống” (x. Cabasilas, La vie dans le Christ IV, 3).
Nói
rằng trong việc chịu lễ Đức Giêsu “đồng hóa” ta với Ngài, có nghĩa cụ thể là
Ngài làm cho tình cảm, ước vọng, cách suy tưởng của ta giống như của Ngài. Nói
tắt, Ngài ban cho chúng ta “những tâm tình như chính Ngài” (x. Pl 2,5).
Đức
Giêsu ban tràn đầy cho chúng ta như thế, vì Ngài thi hành chức năng như trái
tim của nhiệm thể. Vai trò của trái tim trong bộ máy của chúng ta thực sự như
thế nào? Từ mọi phần của thân thể, nó nhận được dòng máu “ô nhiễm”, cạn kiệt
các yếu tố quan trọng, nhưng chứa đầy mọi thứ cặn bã độc hại của bộ máy; trong
phổi, máu này tiếp xúc với ôcxy, như thử qua lửa; được tái sinh và làm giầu bằng
những chất bổ dưỡng như thế, nó không ngừng được trả lại cho mọi chi thể nhờ sức
mạnh của trái tim. Cũng xẩy ra như vậy trong lãnh vực thiêng liêng, cho Thánh
Thể, trái tim của Giáo Hội là Đức Kitô. Trong thánh lễ, Ngài nhận được dòng máu
ô nhiễm từ khắp nơi. Lúc hiệp lễ, tôi đặt nơi Ngài tội lỗi của tôi, tất cả những
gì ô uế trong tôi để được tẩy sạch, và Ngài đem lại cho tôi một dòng máu tinh sạch,
máu của Ngài, máu của Con Chiên vô tì tích, đầy sự sống và thánh thiện, “phương
dược bất tử” (thánh Ignatiô Antiokia).
Phải
sống kinh nghiệm đó để hiểu được lời Kinh Thánh: “Máu Đức Kitô…thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa đến sự
chết” (Dt 9,14), và: “Máu Đức Giêsu
thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi” (1Ga 1,7).
Thánh
Thể thực sự là “trái tim” của Giáo Hội, theo một nghĩa chắc chắn thực tiễn hơn
là chúng ta thường nghĩ.
Hiệp thông vào mình và
máu Đức Kitô
Trong
Thánh Thể, chính xác chúng ta hiệp thông với ai và với cái gì? Theo thánh
Phaolô: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm
tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ
Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?” (1Cr 10,16).
Chúng
ta thường giải thích những lời trên như sau: chúng ta hiệp thông với tất cả thực
tại Đức Kitô, qua những yếu tố khác nhau làm nên thực tại đó: mình Ngài, máu
Ngài, linh hồn và thần tính của Ngài. Cách suy nghĩ này chịu ảnh hưởng của triết
học Hy lạp và quan niệm của triết học này ở ba cấp độ : thân xác, linh hồn và
tinh thần. Khi đó phải chăng người ta không làm sáng tỏ tương quan từ ngôi vị
này đến ngôi vị kia, từ con người này đến con người kia, từ tất cả đến tất cả,
tất cả đều trở thành thực tại trong hiệp lễ, theo cách trực tiếp và đơn giản.
Theo ngôn ngữ Kinh thánh (chúng ta đã nói, nhưng tôi nhấn mạnh lại), những thuật
ngữ mình và máu có một nghĩa cụ thể và lịch sử. Chúng muốn nói lên tất cả sự sống
của Đức Kitô, hoặc đúng hơn: sự sống và sự chết của Ngài. Thân xác không được
báo hiệu như một thành tố siêu hình của con người, nhưng đúng hơn, như một sự sống
có điều kiện và sống trong một thân xác. Đây là về con người toàn vẹn, như trường
hợp thuật ngữ “xác thịt” được Gioan sử dụng trong Phúc Âm của mình. Trong Thánh
Thể, thân xác cho thấy Đức Kitô trong điều kiện của Ngài là tôi tớ, có thể phải
đau khổ, nghèo khó và thập giá. Đức Kitô “trở thành xác thịt” (làm người) đã chịu
khó nhọc, đổ mồ hôi, đau khổ, cầu nguyện, ở giữa chúng ta.
Cũng
vậy là từ “máu”: không phải nó phân biệt một khía cạnh trong một bộ phận của
con người (máu thuộc về thân xác), nhưng nó chỉ ra một thực tại cụ thể hoặc một
biến cố cụ thể là cái chết; không phải một cái chết nào đó, nhưng một cái chết
dữ dội và, theo ngôn ngữ hy tế của giao ước, một cái chết đền tội (x. Xh 24,8).
Từ
đó mà có một hệ quả quan trọng: không một thời điểm hay một kinh nghiệm nào
trong cuộc đời Đức Giêsu mà chúng ta không thể làm sống lại và chia sẻ, khi
chúng ta lên chịu lễ. Quả thực tất cả cuộc đời của Ngài đều là hiện diện trong
mình và máu. Một kiểu nói của Phaolô cho thấy tổng hợp mầu nhiệm thập giá Đức
Kitô: “Ngài đã hủy mình ra không” (Pl
2,7). Như vậy, mỗi thánh lễ có thể hoàn toàn được lời này soi sáng, đặc biệt nếu
là về cử hành hay dự một thánh lễ lúc mà chúng ta phải chịu một điều thiệt hại
gây ra cho chúng ta và chúng ta chống lại, hoặc khi vâng lời làm ta khó sống.
Khi đó, chúng ta có thể nói: Đức Giêsu đã hủy mình ra không, đến lượt tôi, tôi
cũng phải hủy mình ra không, khi chết cho tôi và cho những “lý lẽ” của tôi. Đó
chính là một hành vi đích thực hiệp thông với Đức Kitô.
Tùy
theo những tâm thái bên trong của ta hay những nhu cầu lúc đó, chúng ta có thể
đến gần Đức Giêsu và đứng bên cạnh Ngài khi Ngài cầu nguyện, lúc Ngài bị cám dỗ,
đang mệt nhọc, khi chết trên thập giá, cả lúc Ngài sống lại nữa. Đó không phải
là một loại tưởng tượng trong trí, nhưng chính vì Đức Giêsu vẫn đang sống ngày
hôm nay, cho dù không sống trong xác thịt, nhưng trong Thần Khí.
Kết
hợp với Chúa, chính là cùng với Ngài làm nên một
Thần Khí duy nhất
Trong
những bài nhiệm huấn của thánh Cyrillô Giêrusalem, chúng ta đọc thấy: “Dưới
hình bánh, thịt được ban cho bạn, dưới hình rượu, máu được ban cho bạn, để khi
tham dự vào thịt và máu Đức Kitô, bạn trở thành một thân thể và một máu huyết với
Đức Kitô” (Cat. myst. IV, 3, SCh 126,
p. 137). Đó là một ngôn ngữ dũng cảm, nhưng các Giáo Phụ biết mình không phóng
đại. Thật ra, việc chịu lễ có một chiều sâu đến độ vượt thắng mọi thứ loại suy
của con người. Đức Giêsu lấy cây nho và ngành nho làm ví dụ; chắc chắn đây là một
sự kết hợp rất chặt chẽ. Cây nho và ngành nho chia sẻ cùng một nhựa, cùng một sự
sống. Tách khỏi cây nho, ngành nho sẽ chết. Nhưng cả cây nho lẫn ngành nho đều
không “ý thức” điều liên kết chúng, vì chúng không có linh hồn. Đôi khi người
ta thêm ví dụ về vợ chồng: kết hợp với nhau, vợ chồng làm nên “một xương một thịt”
(đây có lẽ là loại suy mạnh nhất). Nhưng chúng ta lại đang ở trên một bình diện
khác thấp kém hơn nhiều: bình diện xác thịt chứ không phải tinh thần. Hai vợ chồng
có thể làm nên một xương một thịt, nhưng không làm nên một tinh thần duy nhất,
trừ khi hiểu theo nghĩa luân lý. Trái lại, “Ai
đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17). Chính đó
là sức mạnh của chịu lễ. Khi chịu lễ, chúng ta trở nên một tinh thần với Đức
Giêsu, và “tinh thần duy nhất” này là Chúa Thánh Thần. Theo thánh Basiliô, Chúa
Thánh Thần làm ta được thân mật với Thiên Chúa (Spir. S. 19), Thánh Irênê nói thêm: Chúa Thánh Thần là “sự hiệp
thông của chúng ta với Đức Kitô”. Theo kiểu nói của nhà thần học hiện nay, H.
Mulhen, Thần Khí là sự “trực tiếp” trong mối tương giao của chúng ta với Đức
Kitô, theo nghĩa Người là trung gian giữa Đức Kitô và ta, không vì vậy mà tạo
ra một vách ngăn nào, không có gì xen giữa Đức Giêsu và ta, vì Đức Giêsu và
Chúa Thánh Thần (cũng như Đức Giêsu và Chúa Cha) chỉ làm nên “một”.
Khi
ta chịu lễ, Đức Giêsu đến với ta để ban cho ta Thần Khí, không phải như Đấng đã
ban Thần Khí ngày xưa, nhưng như Đấng “trao Thần Khí” (x. Ga 19,30) sau khi đã
hoàn tất hy tế không đổ máu trên bàn thờ. Bằng cách này Đức Giêsu cho chúng ta
dự phần vào sự xức dầu thiêng liêng của Ngài lan tỏa qua chúng ta; nói đúng
hơn, Ngài dìm chúng ta vào trong dầu ấy: “Đức Kitô trào ra trong ta và kết hợp
với ta, bằng cách thay đổi ta và biến đổi ta trong Ngài, như một giọt nước mất
hút trong một đại dương bao la đầy hương thơm. Đó là những kết quả mà hương
thơm này tạo ra nơi những người bắt gặp nó. Nó không chỉ xức thơm những người
đó, không, nó biến đổi bản thể riêng của họ trong hương thơm này, hương thơm đã
được đổ tràn ra cho chúng ta: Chúng ta là
hương thơm của Đức Kitô (2Cr 2,15)” (Cabasilas, op. cit. IV, 3).
Quanh
bàn tiệc Thánh Thể, sự “say sưa chừng mực Thần Khí” trở thành thực tại. Bình giải
một đoạn văn trong sách Diễm ca, thánh Ambrosiô viết: “Anh đã ăn mật, ăn cả tảng mật ngọt (Dc 5,1). Bạn thấy chăng trong
tảng mật này không có gì đắng đót, nhưng có tất cả sự ngọt ngào ? “Anh đã uống rượu với mật của anh”
(ibid.). Bạn thấy chăng niềm vui đang nói không có tì tích nào làm nhơ bẩn? Là
vì, mỗi khi bạn uống chén, bạn nhận được ơn thứ tha tội lỗi, và bạn say sưa thần
khí. Đúng như thánh Tông Đồ nói: “Chớ say
sưa rượu chè, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí” (Ep 5,18). Người say Thần Khí
có thể nói được là đâm rễ trong Đức Kitô. Một sự say sưa thánh thiện là sự say
sưa tạo ra sự điều độ trong tâm hồn” (De
sacr. V, 17). Thánh Ambrosiô kêu lên trong thánh thi lừng danh mà ngày nay
người ta vẫn còn đọc trong phụng vụ các giờ kinh: “Chúng ta hãy vui sướng được
uống nước dư tràn chừng mực của Thần Khí” (laeti
bibamus sobriam profusionem Spiritus).
Sự
say sưa chừng mực không chỉ là một chủ đề thi vị, nhưng có nhiều ý nghĩa và sự
thật. Sự say sưa luôn gây hiệu quả là làm cho con người ra khỏi chính mình.
Nhưng khi mà trong cơn say vật chất (say rượu, say thuốc phiện) con người thoát
khỏi chính mình để sống “dưới” phẩm chất của một hữu thể có lý trí, gần như
theo cách thú vật, thì, nếu là về say sưa thiêng liêng, con người ra khỏi mình
để sống “trên” lý trí, ở chân trời của Thiên Chúa. Mọi chịu lễ cuối cùng sẽ trở
thành một sự xuất thần, nếu chúng ta không hiểu là những hiện tượng lạ lùng
nhưng ngẫu nhiên, đôi khi dành riêng cho các nhà thần bí, nhưng theo đúng nghĩa
là sự ra khỏi (extasis) con người của cái tôi, và nói như Phaolô, là “không còn
phài là tôi sống nữa”.
Điều
các Giáo Phụ muốn hiểu qua biểu tượng say sưa, thì thánh Tôma Aquinô diễn tả bằng
những hạn từ hợp lý hơn. Ngài nói : Thánh Thể là “bí tích tình yêu” (sacramentum caritatis) (x. S.Théol. III, q.78, a.3). Ngài giải
thích : Sự kết hợp với Đức Kitô hằng sống chỉ có thể xẩy ra trong tình yêu; thực
sự, tình yêu là thực tại duy nhất cho phép hai hữu thể sống kết hợp với nhau, mỗi
hữu thể vẫn là chính mình, để làm nên một. Nếu có thể nói Chúa Thánh Thần là sự
“hiệp thông của chúng ta” với Đức Kitô, thì chính vì Người là Tình Yêu của
Thiên Chúa. Sự chịu lễ nào không được thực hiện bằng một hành vì yêu thương đều
bất toàn; tôi không tự hiến hoàn toàn và không dè dặt cho Đức Kitô là Đấng đã
hiến mình cho tôi vào lúc tôi đến nói với Ngài bằng tấm lòng đơn sơ và chân
thành, như Phêrô: Lậy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa (x. Ga 21,16).
“Con
ở trong họ và Cha ở trong con”: hiệp thông với
Chúa Cha.
Cuối
cùng, trong việc chịu lễ, nhờ Đức Giêsu và Thần Khí của Ngài, chúng ta cũng gặp
được Chúa Cha. Trong “lời kinh tế hiến”, Đức Giêsu thưa với Chúa Cha: “Để họ được nên một như chúng ta là một. Con
ở trong họ và Cha ở trong con” (Ga 17,23). Những từ: “con ở trong họ như
Cha ở trong con” muốn nói rõ Đức Giêsu ở
trong chúng ta như Chúa Cha ở trong Ngài. Thế nên không thể lãnh nhận Chúa Con
mà đồng thời không lãnh nhận Chúa Cha. Lý do cuối cùng là Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần có cùng một bản tính thần linh không thể tách rời. Các Ngài chỉ
là một. Một ghi chú của thánh Hilariô đã làm nổi bật vấn đề này: “Chúng ta kết
hợp với Đức Kitô, Đấng không tách khỏi Chúa Cha, nhưng là Đấng, tuy ở trong
Chúa Cha, nhưng vẫn kết hợp với chúng ta. Chúng ta cũng đi đến chỗ hiệp nhất với
Chúa Cha theo cách ấy. Quả thực, Đức Kitô ở trong Chúa Cha theo cách đồng bản
tính, vì Ngài được Chúa Cha sinh ra; nhưng một cách nào đó, qua Đức Kitô, cả chúng
ta cũng ở trong Chúa Cha theo cách đồng bản tính. Đức Giêsu sống nhờ Chúa Cha,
còn chúng ta, chúng ta sống nhờ nhân tính của Ngài” (De Trinitate VIII, 13-16 ; PL 10, 246 tt.).
Để
xác định rõ hơn về phương diện thần học, chúng ta nói Đức Giêsu Kitô, Chúa Con,
hiện diện theo bản tính trong Thánh
Thể (nói cách khác: chính hai bản tính thần linh và nhân loại ở đó), và Ngài
cũng hiện diện theo ngôi vị (vì là
Ngôi Hai); Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, một cách trực tiếp, chỉ hiện diện theo
bản tính (vì sự hiệp nhất của bản tính thần linh), nhưng một cách gián tiếp, tức vì sự tương nhập (périchorèse, circumincession) của các
ngôi, sự hiện diện của các Ngài cũng là theo ngôi vị. Mỗi ngôi trong Ba
Ngôi thực sự bao gồm hai ngôi kia.
Đôi
khi các thánh có kinh nghiệm, do đã sống kinh nghiệm đó, về cả Ba Ngôi hiện diện
trong Thánh Thể, điều mà thần học quả quyết như một nguyên lý. Người ta đọc thấy
trong Nhật ký của một nhà thần bí lớn, thánh nữ Vêronica Giuliani: “Trong bí
tích Thánh Thể, tôi dường như thấy Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất như ngự trên
ngai: Chúa Cha trong sự toàn năng của Người, Chúa Con trong sự khôn ngoan của
Người, Chúa Thánh Thần trong tình yêu của Người. Mỗi lần tôi chịu lễ, linh hồn và trái tim tôi trở thành đền thờ
của Ba Ngôi chí thánh. Và khi Thiên Chúa đến trong tôi, thì cả thiên đàng cũng
đến đó. Khi nhìn thấy Thiên Chúa giam mình trong Bánh Thánh, suốt cả ngày tôi ở
trong tình trạng ngất trí vì tôi cảm thấy hạnh phúc. Cho dù tôi phải lấy mạng sống
để minh chứng cho sự thật này, tôi cũng sẽ làm điều đó cả ngàn lần” (Diario III, 928. 1048).
Như
vậy, chúng ta đi vào một sự hiệp thông mầu nhiệm, nhưng thật sự và sâu xa, với
cả Ba Ngôi: với Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Tất cả Ba Ngôi
hiện diện quanh bàn thờ một cách vô hình. Chính đó là ý nghĩa của bức icône nổi tiếng của A. Rublev về Ba
Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, được biểu thị tượng trưng bằng ba
thiên thần hiện ra với Abraham dưới gốc cây sồi ở Mambrê, tạo nên một thứ vòng
tròn thần bí quanh bàn thờ và dường như nói với những ai chiêm ngắm: hãy là một
như chúng ta là một.
Thiên Chúa đã đặt thân
thể Ngài trong bàn tay chúng ta
Việc
chịu lễ mở rộng trước mắt chúng ta như những cửa lần lượt đưa chúng ta vào trước
hết là trong trái tim Đức Kitô, rồi nhờ Ngài mà đi vào trong trái tim Ba Ngôi.
Nhưng trước một sự hạ cố quá lớn lao không thể ngờ được của Thiên Chúa, chúng
ta lại cảm thấy buồn. Chúng ta làm gì với thân thể Đức Kitô. Có một hôm, lúc chịu
lễ, tôi cảm thấy rúng động bởi một bài thánh ca hay, trong đó có câu được lặp
đi lặp lại như một thứ điệp khúc: “Thiên Chúa đã đặt thân thể Người trong bàn
tay chúng ta, Thiên Chúa đã đặt thân thể Người trong bàn tay chúng ta”. Thình
lình, tôi cảm thấy như có một nỗi đau trong lòng: Thiên Chúa đã đặt thân thể Người
trong bàn tay chúng ta, còn chúng ta, chúng ta làm gì với thân thể của Thiên Chúa?
Và tôi đã không thể cầm hãm tiếng kêu này trong nơi sâu thẳm của tôi: Chúng tôi
đã bạo hành với thân thể đó. Chúng tôi đã bạo hành với thân thể đó. Bằng cách
nào? Ngài đã tự nguyện đến trên bàn thờ và trong tâm hồn ta, mà chúng ta lạm dụng.
Chúng ta “buộc” Ngài hàng ngày làm cử chỉ tuyệt đỉnh yêu thương này, trong khi
chúng ta không yêu mến, thường chia trí quá đáng, và chính như thế mà chúng ta
bạo hành với Ngài. Phải đầy tế nhị dịu hiền biết bao đối với một người hoàn
toàn nhỏ bé không được bảo vệ; chúng ta thì ngược lại, tỏ ra thô lỗ tầm thường
biết bao với Đức Giêsu, Đấng không được bảo vệ trước chúng ta, và đây chính là
một mầu nhiệm. Thánh Phanxicô Assisi kêu lên: “Anh em hãy xem, hàng ngày Ngài hạ
mình xuống trên bàn thờ, như Ngài đã làm điều đó khi từ ngai vàng, Ngài hạ cố
xuống trong lòng Đức Trinh Nữ”.
Vì
vậy, chúng ta không thể chịu lễ nếu không có sự khiêm nhường của một tâm hồn thống
hối. Cũng chính thánh Phanxicô còn nói với chúng ta: “Anh em hãy nghe, nếu Đức
Thánh Trinh Nữ đã nhận được bao nhiêu vinh dự – và điều này là công bình – vì
Người đã cưu mang Ngài trong lòng dạ rất tinh tuyền, nếu thánh Gioan Tẩy Giả nhảy
mừng, và không dám đặt tay trên đầu Chúa, nếu người ta tôn kính ngôi mộ nơi
Chúa nghỉ yên trong một thời gian vắn, thì người lãnh nhận Ngài trên đôi tay,
trên môi miệng, trong lòng và mang Ngài cho người khác lãnh nhận, người đó phải
thánh thiện, công chính, xứng đáng biết bao nhiêu. Hẳn là điều khốn khổ và bất
hạnh khủng khiếp, nếu khi Ngài đang hiện diện nơi anh em, anh em lại bận tâm đến
chuyện gì khác ở thế gian. Chớ gì con người hãy lo sợ, vũ trụ hãy run rẩy và tầng
trời hãy nhảy mừng, khi Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, ở đó, trên bàn thờ,
trong đôi bàn tay của linh mục. Anh em thân mến, anh em hãy chiêm ngắm sự khiêm
nhường của Thiên Chúa, hãy mở lòng anh em cho Ngài; anh em hãy khiêm nhường để
Ngài nâng anh em lên” (Thư cho tổng tu
nghị).
Ý
thức về sự cao cả của mầu nhiệm mà chúng ta lãnh nhận, vượt quá sự xứng hợp của
chúng ta để đón nhận, nếu chúng ta nài xin, bạn hữu của chúng ta trên trời – Đức
Maria, các thiên thần, các thánh mà chúng ta yêu mến – sẵn sàng đến giúp đỡ
chúng ta. Cùng với các ngài chúng ta có thể nói rất đơn sơ, nhưng cương quyết,
gần giống như người mà Phúc Âm đề cập: ông ta phải tiếp một người bạn nửa đêm đến
nhà và không có gì cho người ấy, ông ta không ngại đánh thức một người láng giềng
quen biết để xin bánh cho người bạn kia (x. Lc 11,5 tt). Phần chúng ta, chúng
ta có thể xin với những người thờ phượng
hoàn hảo trên trời sự tinh tuyền của các ngài, lời ca ngợi, sự khiêm nhường,
tâm tình biết ơn vô hạn của các ngài đối với Thiên Chúa, để Đức Giêsu tìm thấy
những điều ấy nơi ta, khi Ngài đến viếng thăm lúc ta chịu lễ. Các thánh, đứng đầu
là Đức Maria, thích hành động như thế. Điều này có thể nhờ tín điều các thánh
thông công. Các ngài muốn điều đó vì các ngài yêu chúng ta và yêu mến Đức
Giêsu. Thử tưởng tượng các ngài từ chối coi. Theo tôi, khi đó người ta đua nhau
trên thiên đàng bằng một thứ ghen tương nào đó vì những lời kêu gọi tương tự.
Khi
chúng ta chịu lễ, Thiên Chúa ở đó cách viên mãn, và khi ấy không có gì là không
thể: những ước ao giản dị, thậm chí trẻ
con, được coi là những quyền do sự hào phóng toàn năng của Thiên Chúa. “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng
tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng
ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32). Nếu một ông vua thuận cho con trai
mình đi thăm một người nghèo trong khu nhà ổ chuột của người này, ông có sẽ từ
chối người nghèo này một đồ trang trí nào đó hay những bông hoa để làm cho
khung cảnh bớt thảm hại hay làm cho việc tiếp đón bớt bất tiện chăng? Chúng ta
có thể nói thêm nữa theo kiểu trẻ em, và vào lúc chịu lễ, hình dung sự “ngạc
nhiên” của Đức Giêsu đang mong tìm thấy nơi ở thảm hại thường ngày, khi Ngài đến
giữa chúng ta; trái lại, Ngài đang đứng trước chính vẻ huy hoàng của tầng trời,
nơi mà từ đó Ngài đến.
Chỉ
cần chúng ta trông đợi. Đức Maria và các thánh đánh giá rất quan trọng những gì
chạm đến trái tim của Vua trên trời. Chính vì vậy, thực đáng buồn và ngượng
ngùng biết bao khi, giữa ngày sống, thình lình bạn nhận ra là các ngài đã đến,
đã trang hoàng nhà cửa của người nghèo, nhưng chủ nhà lại đi ra ngoài từ sáng sớm
và không trở về.
Tôi
cho rằng chính là một hồng ân cứu độ cho một người Kitô hữu trải qua thời kỳ mà
người đó sợ không dám lên chịu lễ, sợ nghĩ tới điều đang xẩy ra làm cho họ run rẩy,
thời kỳ mà họ không ngừng lặp lại như Gioan Tẩy Giả: “Có phải chính Ngài đang đến với tôi?” (Mt 3,14). Chúng ta không thể
lãnh nhận Thiên Chúa với tư cách Thiên Chúa, tức là vẫn bảo vệ cho Người sự
thánh thiện và oai nghiêm của Người. Chúng ta không thể thuần hóa Thiên Chúa.
Giáo Hội, khi giảng dậy – giờ đây việc chịu lễ trở thành một thói quen quá “dễ
dàng” – hẳn không phải ngại nói với giáo dân đôi khi bằng ngôn từ của thư Do
thái: “Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ
thấy được có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và dông tố, có tiếng kèn vang dậy,
và tiếng nói thét gầm, khiến những người nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt
ra với họ nữa, vì họ không chịu nổi những lời sau đây:…Cảnh tượng hãi hùng đến
mức ông Môsê phải nói: Tôi kinh hoàng và run rẩy. Nhưng anh em đã tới núi Sion,
tời thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn
thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên
Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng
xét xử mọi người…Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu, và
được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh mẽ hơn cả máu Abel”
(Dt 12,18-24).
Chúng
ta biết Giáo Hội sơ khai cảnh báo cộng đoàn phụng vụ lúc chịu lễ: “Ai thánh thiện,
hãy tới gần. Ai không thánh thiện, hãy sám hối” (Didachè 10). Thánh Gioan Kim Khẩu, người có chuyện xích mích với một
đám dân quen đối diện sự việc cách hời hợt, có thể nói là không bao giờ đề cập
việc chịu lễ mà không dùng tính từ “kinh khủng” (friktos). Ngài viết: “Những mầu nhiệm Giáo Hội thật kinh khủng, bàn
thờ thật kinh khủng. Không có ơn Chúa giúp đỡ đặc biệt, một linh hồn không thể
chịu đựng lửa của một lễ hy sinh như thế mà không hoàn toàn bị lửa đó tiêu diệt”
(In John. hom. 46 ; De Sacerd. III, 4). Ngài còn nói là khi
người Kitô hữu trở về từ bàn thánh, người đó giống như một con sư tử phun ra lửa:
cái nhìn của người đó khiến ma quỷ chịu không nổi. Ít nhất một lần phải có kinh
nghiệm về sự oai nghiêm kinh khủng của Thánh Thể, để sau đó hiểu đầy đủ lòng
nhân từ thương xót của Thiên Chúa che giấu sự oai nghiêm của Người như một bức
màn, sợ chúng ta tiêu biến.
Giáo Hội : hiệp thông
vào thân thể Đức Kitô
Trong
bài suy niệm, chúng ta giới hạn vào chiều dọc của hiệp thông, tức hiệp thông với
Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong bản văn nhắc lúc đầu,
thánh Phaolô nói: “Khi ta cùng bẻ bánh
thánh, đó chẳng phải là dự phần vào thân thể Người sao: bởi vì chỉ có một tấm
Bánh, và chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy” (1Cr 10,16-17). Từ “thân thể”
được nói tới hai lần trong bản văn; lần thú nhất chỉ thân thể thực sự của Đức
Kitô, lần thứ hai chỉ thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Theo thánh
Augustinô: “Vào lúc chịu khổ nạn, Chúa trong bí tích này đã ban cho chúng ta thịt
và máu Ngài, làm cho chúng ta cũng trở thành thịt máu ấy. Là vì, cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng là thân thể của Ngài, và như vậy, nhờ lòng thương xót của Ngài,
chúng ta là cái mà chúng ta lãnh nhận. Anh em hãy nhớ lại một lát xem hạt giống
đã như thế nào khi còn trong cánh đồng: đất làm nó nẩy mầm, mưa nuôi dưỡng nó;
rồi có người và công việc của ông ta: ông đưa nó đến sân, đập ra, sàng sẩy rồi
cho vào kho; ông lấy số cần thiết để xay thanh bột và nấu nướng, và chính như
thế, cuối cùng nó trở thành bánh. Bây giờ, hãy nghĩ về anh em: anh em đã không hiện
hữu, anh em đã được tạo dựng, đã được đặt trên sân của Chúa, được đập ra, nhờ sự
vất vả của những “con bò” là những người đã loan báo Tin Mừng cho anh em. Khi
là dự tòng, anh em như ẩn tàng trong kho lẫm; khi đích danh cam kết xin chịu
phép rửa tội, anh em bắt đầu được sàng lọc bằng chay tịnh và trừ quỷ; cuối cùng
anh em đến với nước, anh em được nhào nặn để trở nên một; rồi lửa của Chúa
Thánh Thần nấu nướng anh em và anh em trở thành bánh của Chúa. Đó là cái mà anh
em đã lãnh nhận. Anh em thấy đó, bánh được chuẩn bị là một; cũng vậy anh em
cũng hãy là một trong tình yêu lẫn nhau, giữ cùng một đức tin, một đức cậy, một
đức ái, mà không gì phân chia” (Sermo
Collection Denis 6 ; PL 46, 834 tt).
Giáo
Hội, thân thể Đức Kitô, hình thành theo khuôn mẫu Bánh thánh. Giáo Hội cũng chịu
nhiều thăng trầm như Thánh Thể. Bánh thánh thực hiện sự hiệp nhất của các phần
tử bằng cách biểu thị nó (cũng trong việc đó, bí tích “significando causat”). Trong lúc chịu lễ, “sự hiệp nhất của dân
Chúa được biểu thị cách cụ thể và được thực hiện cách kỳ diệu” (GH 11). Nói
khác đi, những dấu chỉ bánh và rượu diễn tả cách hữu hình điều gì (sự hiệp nhất
nhiều hạt lúa và nhiều ngành nho), thì bí tích thực hiện điều đó cách nội tâm,
trên bình diện thiêng liêng.
“Bí
tích thực hiện”: tuy nhiên không phải chỉ mình nó, cũng không phải tự động,
nhưng cùng với sự dấn thân của chúng ta. Khi tôi đến gần Thánh Thể, tôi không
thể không quan tâm đến người anh chị em tôi; tôi không thể đẩy xa người đó,
không đẩy xa đích thân Đức Kitô, và chính tôi lìa xa sự hiệp nhất. Người nào
lúc chịu lễ tự phụ đang cháy lửa yêu mến Đức Kitô trong khi vừa mới xúc phạm
hay làm tổn thương một người anh chị em, và làm điều đó mà không xin lỗi hoặc
không có ý định xin lỗi người anh chị em, thì người đó giống như người lâu ngày
gặp một người bạn, nhón gót chân lên hôn vào trán bạn để chứng tỏ tình cảm thắm
thiết, nhưng lại không nhận ra rằng, khi làm điều đó, anh ta đang giẫm lên chân
người bạn bằng đôi giầy có đinh. Bàn chân của Đức Giêsu, chính là những chi thể
của thân thể Ngài, đặc biệt những người nghèo khổ và hèn kém nhất. Những “bàn
chân” đó là của Ngài, Ngài yêu thương và Ngài hẳn có thể kêu to cho người của
chúng ta: ngươi có kính mến ta cũng vô ích.
Trong
việc chịu lễ, Đức Kitô đến với tôi cũng là Đức Kitô không thể phân chia đang đi
gặp người anh chị em tôi. Ngài liên kết chúng ta với nhau, nếu có thể nói được
như thế, vào lúc Ngài liên kết tất cả chúng ta với Ngài. Có lẽ đó là ý nghĩa
sâu sắc của cách diễn tả bắt gặp trong những tác phẩm của Tân Ước và của Giáo Hội
sơ khai: “Hợp nhất với nhau trong việc bẻ
bánh” (Cv 2,42). Các Kitô hữu đã ý thức về sự hợp nhất của họ trong việc bẻ
bánh; quả là nghịch lý khi hợp nhất trong hành vi phân chia, vì bẻ ra biểu thị
phân chia. Đúng là như vậy: chúng ta hợp nhất trong sự phân chia, đúng hơn
trong sự phân chia cùng một tấm bánh.
Ở trên, thánh Augustinô đã nhắc chúng ta rằng
không thể có bánh nếu những hạt lúa làm nên bánh tiên vàn không được xay ra. Để
được xay, không gì hữu hiệu hơn là bác ái huynh đệ, nhất là đối với những người
sống đời cộng đồng: chịu đựng lẫn nhau, dù có khác nhau về tính tình, quan điểm,
v.v. Đó như là một chiếc cối xay tinh luyện chúng ta ngày qua ngày, bỏ đi những
chỗ xấu xí tự nhiên của chúng ta.
Từ
đây chúng ta biết ý nghĩa của lời thưa Amen,
và khi thưa Amen lúc chịu lễ, chúng
ta biết mình nói với Đấng nào. Thừa tác viên nói: “Mình Thánh Chúa Kitô”, và
chúng ta đáp: “Amen”. Chúng ta đáp Amen với thân thể rất thánh của Đức
Giêsu, sinh bởi Đức Maria, đã chết vì ta, nhưng chúng ta cũng đáp Amen với thân thể mầu nhiệm là Giáo Hội,
và một cách cụ thể là những anh chị em quanh chúng ta trong cuộc sống hoặc nơi
bàn tiệc. Không thể tách hai thân thể, đón nhận thân thể này mà không đón nhận
thân thể kia. Đáp Amen với nhiều anh
chị em, có lẽ với phần đông, chắc hẳn không quá khó, nhưng trong số họ, luôn sẽ
có người làm ta đau khổ, bất kể đó là lỗi của họ hay lỗi của ta ; luôn có người
chống đối ta, chỉ trích ta, vu khống ta. Đáp Amen trong trường hợp này là rất khó, nhưng chứa đựng một ân sủng đặc
biệt; thậm chí như một bí ẩn trong hành vi này. Nếu chúng ta muốn hiệp thông với
Đức Giêsu cách thân mật hơn, hoặc nếu chúng ta cần Ngài tha thứ và ban cho
chúng ta ân sủng đặc biệt, chính đó là phương tiện tốt để được nhậm lời: đi
lãnh nhận Đức Giêsu trong Thánh Thể đồng thời với người hoặc những người “anh
chị em” này; nói rõ với Ngài: Lậy Chúa Giêsu. hôm nay con lãnh nhận Chúa cùng với
người anh em này (nói rõ tên), con cho người này cùng với Chúa trú ngụ trong
tâm hồn con; con sung sướng được Chúa dẫn người này đến cùng với Chúa. Cử chỉ
nhỏ mọn này làm Đức Giêsu rất hài lòng, vì Ngài biết rằng để làm được điều này,
chúng ta đã phải chết đi một tí.
Tôi
kết thúc bài suy niệm này bằng một đoạn của bài Adoro Te devote, một bài hát đã nuôi dưỡng lòng đạo đức của rất nhiều
thế hệ tin vào Thánh Thể. Đoạn đó khởi đầu bằng câu: “O memoriale mortis Domini” được dịch là: Ôi, tưởng niệm cái chết của
Chúa, là bánh hằng sống ban sự sống cho con người: xin cho linh hồn con được sống
bằng Chúa và luôn cảm thấy ngọt ngào sự hiện diện của Chúa”. Amen.
(R. Cantalamessa, L’Eucharistie, notre sanctification,
Centurion 1989, chap. 3)
Lm
Micae Trần Đình Quảng