“ĐÂY THÌ CÒN
HƠN VUA
SALOMON NỮA”
Thánh Thể như sự hiện diện thật của Chúa
Tôi
đã bắt đầu những bài suy niệm này bằng cách suy tư về Thánh Thể trong lịch sử cứu
độ; trong đó chúng ta thấy mầu nhiệm Thánh Thể hiện diện qua nhiều cách khác
nhau trong suốt lịch sử cứu độ: như hình
bóng trong Cựu Ước, như biến cố
trong Tân Ước và như bí tích trong thời
Giáo Hội. Tiếp đến, tôi dừng lại khá lâu về Thánh Thể-bí tích, để cho thấy
Thánh Thể “làm nên” Giáo Hội như thế nào qua việc truyền phép, rước lễ, chiêm
niệm và cuối cùng qua việc bắt chước. Trong hai bài suy niệm cuối cùng, tôi muốn
lấy lại chủ đề đầu tiên: Thánh Thể trong lịch sử cứu độ, nhìn lại ngày hôm nay
và ngày mai.
Mầu
nhiệm Kitô giáo luôn có ba chiều kích: tưởng niệm quá khứ, hiện diện của ân sủng
và chờ đợi thời gian viên mãn. Thánh Tôma Aquinô gọi Thánh Thể là “bữa tiệc
thánh mà người ta lãnh nhận Đức Kitô: người ta cử hành việc tưởng niệm cuộc khổ
nạn (quá khứ) của Ngài, linh hồn được tràn đầy ân sủng (hiện tại), và bảo chứng
vinh quang tương lai được ban cho chúng ta” (Điệp ca O sacrum convivium).
Ngày
hôm nay, chúng ta bàn về Thánh Thể như là sự hiện diện thật của Chúa trong Giáo
Hội, dành bài cuối cùng để xem xét Thánh Thể như chờ đợi Chúa trở lại.
“Đây là nhà tạm Thiên
Chúa ở cùng nhân loại”
Một
hôm, tôi được dịp cử hành Thánh Lễ trong khuôn viên một đan viện. Bài Phúc Âm
hôm đó là đoạn Matthêu 12. Tôi sẽ không bao giờ quên cảm tưởng mà lời Đức Giêsu
nói đem lại cho tôi: “Đây thì còn hơn ông Giona... hơn vua Salomon nữa”. Lúc
này, tôi như thể lần đầu tiên nghe những lời đó. Tôi chợt hiểu ý nghĩa của những
trạng từ “hiện nay”, “ở đây”: thật sự “hiện nay”, “ở đây”, vào lúc này và ở nơi
xác định này, chứ không chỉ vào thời Đức Giêsu còn ở trần gian, cách nay bao
nhiêu thế kỷ. Tôi đờ đẫn cả người. Có gì đó trước mắt tôi hơn cả Giona,
Salomon, Abraham hay Môsê; có Con Thiên Chúa hằng sống và đích thực. Tôi đã hiểu
điều mà những lời sau đây muốn nói: “Thầy
ở cùng anh em mọi ngày…” (Mt 28,20).
Từ
ngày hè đó, tôi thích những lời ấy, giờ đây trở thành thân mật hơn nhiều đối với
tôi; trong Thánh Lễ, vào lúc quỳ xuống và đứng dậy sau truyền phép, tôi thường
hay tự nhủ: bây giờ ở đây còn hơn vua Salomon! Đôi khi tôi nói to lên những lời
ấy. Đối với bài suy niệm này, khi tôi muốn suy tư về mầu nhiệm Thánh Thể, là sự
hiện diện thật của Chúa Giêsu, tôi đã không tìm ra lời nào đẹp hơn làm khởi điểm,
và có thể đi cùng với tôi trong suốt cuộc nghiên cứu này của tôi.
Nhưng
trước khi đi sâu vào mầu nhiệm hiện diện này Chúa Giêsu trong Thánh Thể, chúng
ta hãy dừng lại một chút ngoài cửa để xem xét từ bên ngoài, với tất cả Kinh
Thánh làm hậu cảnh. Trong nhãn quan toàn bộ, sự hiện diện Thánh Thể được mạc khải
cho chúng ta như một cách tiếp cận tự nhiên về mạc khải của Thiên Chúa trong
Kinh Thánh, như nét vẽ cuối cùng mạc khải cho ta khuôn mặt đích thực của Thiên
Chúa. Thiên Chúa của Kinh Thánh là một Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, một Thiên
Chúa hiện diện, không phải một Thiên Chúa “không dính dáng với những chuyện của
con người”, không thể đạt tới, như Thiên Chúa của các triết gia. Vì vậy, Người
tìm thấy trong Thánh Thể một nơi để vĩnh viễn tỏ mình; Thánh Thể là bụi gai cháy
đích thực, nơi Thiên Chúa tỏ cho biết tên Người là Đức Chúa, nghĩa là, theo ý
nghĩa xác thực của sách Xuất hành 3,14, “Đấng có đó, Đấng hiện diện”.
Theo
đà ấy, Isaia bắt đầu nói về một con trẻ sẽ được gọi là Emmanuel: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
(x. Is 7,14). Cuối cùng là sự kiện thực hiện lời hứa: Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Sự
hiện diện của Thiên Chúa trước đây tỏ hiện trong đám mây hay trong vinh quang –
nhưng là một vinh quang gián đoạn và không thể nắm bắt – từ đây được bầy tỏ
trong xác thịt của chúng ta, một xác thịt thấy được, sờ được, ở giữa chúng ta: điều chúng tôi đã nghe, đã thấy tận mắt, đã
chiêm ngưỡng, tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời Sự Sống (1Ga 1,1).
Bản
liệt kê ấn tượng về các động từ trên chưa đầy đủ, còn thiếu động từ “ăn”. Và việc
lập phép Thánh Thể cho phép bước cuối cùng này: “Hãy cầm lấy mà ăn”, “Ai ăn thịt
tôi sẽ được sống đời đời”. Sự hiện diện của Thiên Chúa, một cách tổng quát và
bên ngoài, nếu nói được như vậy, trở thành cá nhân và bên trong con người,
không chỉ là một cách cố ý thoát khỏi vật chất (điều xẩy ra trong việc nhìn,
nghe, chiêm ngưỡng và đức tin), nhưng thật sự, cách cụ thể, thích ứng với điều
kiện của chúng ta là những hữu thể nhập thể. Thánh Thể là giai đoạn cuối cùng
trong suốt cuộc hành trình “hạ cố” của Thiên Chúa: sáng tạo, mạc khải, nhập thể,
Thánh Thể. Thật chính đáng khi phụng vụ lễ “Mình Máu Đức Kitô”, lễ Thánh Thể,
áp dụng cho Thánh Thể lời của Môsê: “Có
dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta?”
(Đnl 4,7). Trước nhà tạm, chúng ta có thể thật sự lặp lại những lời của sách Khải
huyền: Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại (Kh 21,3). Phải, Thánh Thể liên quan đến mầu nhiệm Vượt Qua, nhưng cũng
có liên quan cốt tử đến mầu nhiệm Nhập Thể; tưởng
niệm một biến cố – cuộc Vượt Qua – nhưng cũng là sự hiện diện của một ngôi vị: Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Dây liên hệ
sâu xa này được làm sáng tỏ trong Phúc Âm Gioan, khi chúng ta từ chương 1 bước
qua chương 6: Ngôi Lời mặc lấy xác phàm (Nhập Thể), và xác phàm này trở thành
“của ăn thật” (Thánh Thể). Sự sống vĩnh cửu trở nên hữu hình cho chúng ta trong
Nhập Thể (x. 1Ga 1,2) từ đây trở thành của ăn cho chúng ta, trở thành “lương thực
đem lại sự sống đời đời”. Thánh Thể có được sức mạnh vô tận thần hóa chúng ta,
vì cho chúng ta tiếp xúc với xác thịt của Con Người-Thiên Chúa.
“Điều
gì tốt thì giữ”
Giờ đây chúng ta bước qua cửa đã giữ chúng ta dừng chân
cho tới lúc này, để đi vào trong đám mây sáng chói, ở bên kia bức màn, trong
nơi cực thánh, đối diện với chính mầu nhiệm hiện diện thật của Đức Giêsu trong
Thánh Thể. Làm thế nào đối diện với một mầu nhiệm cao vời, vô phương đạt thấu ấy?
Chúng ta nghĩ ngay đến con số không kể xiết các lý thuyết và các cuộc tranh luận
về đề tài này, những khác biệt giữa người Công giáo và Thệ phản, giữa bên La tinh
và Chính thống giáo, có đầy sách vở về chuyện đó khi chúng ta học thần học. Ngày
nay, chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng không thể thêm bất cứ điều gì khác vào
mầu nhiệm này để có thể làm gia tăng đức tin của chúng ta và sưởi ấm tâm hồn
chúng ta, mà không thể không rơi vào cuộc bút chiến giữa các hệ phái Kitô khác
nhau.
Nhưng đó lại chính là công trình kỳ diệu mà Chúa Thánh Thần
đang thực hiện ngày nay giữa mọi người Kitô hữu. Người buộc chúng ta phải thừa
nhận rằng, trong những cuộc tranh luận của chúng ta về Thánh Thể, có biết bao
nhiêu tự phụ của con người tưởng có thể nhốt mầu nhiệm trong một lý thuyết hay
thậm chí trong một lời, cũng như muốn thắng địch thủ. Thần Khí thúc đẩy chúng
ta thống hối, vì chúng ta đã biến bảo chứng tối cao của tình yêu và sự hiệp nhất
mà Chúa đã để lại cho chúng ta thành đối tượng ưu đãi để chúng ta tranh cãi.
Phương
tiện giúp chúng ta đi trên con đường đại kết này về Thánh Thể, con đường bác ái
Kitô giáo, là cùng nhau thừa nhận việc chia sẻ cho nhau. Không phải là vượt quá
những khác biệt thật sự hay vì bất cứ lý do gì mà không còn giữ giáo lý công
giáo chính thực. Đúng hơn đây là để chung những khía cạnh tích cực và những giá
trị xác thực có trong mỗi truyền thống, để xây dựng “toàn bộ” những chân lý
chung cho chúng ta và bắt đầu lôi kéo chúng ta tới hiệp nhất. Thật đáng kinh ngạc
khi một số quan điểm Công giáo, Chính thống và Tin lành, liên quan đến sự hiện
diện thật, cho thấy là khác biệt và phá hoại, trong trường hợp người ta đặt chúng
tương phản với nhau và xem xét chúng thay thế nhau thay vì hội tụ với nhau cách
tuyệt vời, miễn là giữ cho chúng được cân bằng. Chúng ta phải bắt đầu làm một
cuộc tổng hợp: sàng lọc những truyền thống lớn Kitô giáo để giữ lại nơi mỗi
truyền thống “điều gì tốt” (x. Tx 5,21), theo lời khuyên của thánh Tông Đồ. Khi
để chung như vậy, những gì thuộc Thiên Chúa thì tích lũy lại, và những gì thuộc
con người thì bị đào thải.
Một sự hiện diện thật,
nhưng ẩn giấu: truyền thống La tinh
Trong
tinh thần này, chúng ta hãy để chút thời giờ nhìn kỹ hơn những truyền thống
Thánh Thể chính: La tinh, Chính thống giáo và Tin lành, để kích thích chúng ta
xây dựng trên những sự phong phú của mỗi truyền thống và kết hợp tất cả những
phong phú đó trong kho tàng chung của Giáo Hội. Ý tưởng mà cuối cùng chúng ta
có được về mầu nhiệm hiện diện thật sẽ phong phú và sống động hơn.
Theo
thần học La tinh, trọng tâm không cần bàn cãi của hành động Thánh Thể từ đó
phát xuất sự hiện diện thật của Đức Kitô, là lúc truyền phép. Chính đó là lúc
mà Đức Giêsu hành động và nói ở ngôi thứ nhất. Thần học La tinh nối kết với tất
cả trào lưu truyền thống Giáo phụ; hãy xem những gì thánh Ambrôsiô viết: “Bánh
này thuộc về bánh trước khi được truyền phép; nhưng sau khi truyền phép, bánh
trở thành mình Đức Kitô. Việc truyền phép được thực hiện bằng những lời nào? Những
lời ấy là của ai? Của Đức Giêsu! Tất cả những lời cầu nguyện trước lúc này, đều
là những lời của linh mục đọc lên ca tụng Thiên Chúa, cầu nguyện cho dân, cho
những người lãnh đạo và những người khác. Nhưng đến lúc Thánh Thể được thực hiện,
thì linh mục không dùng lời của mình nữa, mà dùng lời của Đức Kitô. Vậy chính lời làm nên (conficit)
bí tích… Bạn có thấy lời của Đức Kitô hữu hiệu (operatorius) biết bao không? Trước lúc truyền phép, đã không có
mình Đức Kitô, nhưng sau truyền phép, tôi nói với bạn từ đây đó là mình Đức
Kitô. Chính Ngài đã nói và điều đó đã xẩy ra; Ngài đã truyền lệnh và điều đó liền
có (x. Tv 33,9)” (De sacr. IV,
14-16).
Theo
nhãn quan La tinh, chúng ta có thể nói về một tính hiện thực Kitô học: “Kitô học”, vì sự chú ý hoàn toàn hướng về
Đức Kitô, được xét đến cả trong cuộc sống lịch sử và nhập thể lẫn với tư cách Đấng
Phục Sinh. Đức Kitô vừa là đối tượng vừa là chủ thể của Thánh Thể: Đấng được thực
hiện trong Thánh Thể và Đấng thực hiện Thánh Thể; “tính hiện thực”, vì người ta
không chỉ thấy Đức Giêsu hiện diện trên bàn thờ trong một dấu chỉ và biểu tượng
(chống lại Bérenger de Tours), nhưng trong sự thật và với thực tại riêng của
mình. Để cho thấy ví dụ về một sự hiện thực như thế, chúng ta hãy lấy bài ca Ave verum đã được Đức Giáo hoàng Innocentê IV sáng tác cho
lúc dâng lễ: “Kính chào thân xác đích thực, sinh bởi lòng Đức Trinh Nữ Maria,
Ngài đã thật sự chịu đau khổ và đã chịt sát tế trên thập giá vì con người, từ cạnh
sườn Ngài máu và nước đã chảy ra…”.
Tiếp
theo, Công đồng Trentô đã đem lại nhiều chi tiết chính xác về cách quan niệm sự
hiện diện thật, qua những trạng từ: vere,
realiter, substantialiter; Đức Giêsu hiện diện thật, không chỉ bằng hình ảnh hay hình bóng; Ngài thực sự hiện diện,
chứ không chỉ cách chủ quan, vì đức tin của người tín hữu; Ngài hiện diện theo
bản thể, tức theo thực tại sâu sắc mà giác quan không thấy, chứ không chỉ vẻ
bên ngoài vẫn còn là bánh và rượu.
Đúng
là có thể có thể có nguy cơ rơi vào một thứ thực tiễn “sống sượng”, hoặc quá
đáng như trong công thức chống lại lạc thuyết của Béranger, theo kiểu: mình và
máu Đức Kitô chỉ hiện diện trên bàn thờ “cách khả giác và đúng là được tay của
linh mục chạm đến và bẻ ra, và được nhai bởi răng của các tín hữu” (x. Dz. 690). Nhưng nguy cơ này có được phương
dược trong chính truyền thống. Thánh Augustinô đã làm sáng tỏ sự việc một
lần vĩnh viễn: sự hiện diện của Đức Giêsu trong Thánh Thể đến “in sacramento” (trong bí tích), nói khác
đi, không phải là sự hiện diện thể lý, nhưng hiện diện cách bí tích, qua trung
gian các dấu chỉ bánh và rượu. Tuy nhiên trong trường hợp này, dấu chỉ không khai trừ thực tại, nhưng làm cho thực tại hiện diện
trong một cách thức độc nhất, nghĩa là một thực tại thiêng liêng – là thân xác
của Đức Kitô phục sinh – có thể trở thành hiện tại cho ta, bao lâu chúng ta còn
sống trong cuộc đời này.
Ở
Tây phương, thánh Tôma Aquinô – một bậc thầy khác về linh đạo Thánh Thể – cũng
như thánh Augustinô, có cùng một kiểu diễn đạt, khi ngài nói về sự hiện diện của
Đức Kitô “theo bản thể” dưới các hình bánh và rượu (x. Somme théologique IIIa, q.75, a.4). Quả thực, nói rằng Đức Kitô hiện
diện, với bản thể của Ngài, trong Thánh Thể, cũng là nói Ngài hiện diện trong
thực tại chân thật và sâu xa của Ngài mà người ta chỉ có thể đạt tới nhờ đức
tin: “Thị giác, xúc giác, vị giác, tất cả đều thất bại; chỉ còn đức tin vào lời
của Ngài”, thánh Tôma đã ca lên như thế trong bài “Adoro Te devote”. Khởi đầu bài ca này, thánh nhân đã lấy lại và
khai triển với nét độc đáo riêng nhãn quan bí tích của Augustinô, khi viết rằng
Đức Kitô trong Thánh Thể hiện diện trong các hình thái hay hình: “Lậy Thiên
Chúa ẩn mình, con sốt sắng thờ lậy Chúa đang thực sự ẩn mình dưới những hình
này”. Kiểu nói la tinh “vere latitas” rất dồi dào ý nghĩa; muốn nói rằng:
Chúa ẩn mình, nhưng thật sự đang ở đây (nhấn mạnh trên vere, trên thực tại hiện diện), và cũng muốn nói: Chúa thật sự đang
ở đây, nhưng ẩn mình (nhấn mạnh trên latitas,
trên đặc tính bí tích của sự hiện diện này).
Một
lối cắt nghĩa như thế tránh được nguy cơ về một thực tế “sống sượng”. Trong một
thánh thi khác tôn vinh Thánh Thể, thánh Tôma còn nói: “Đức Kitô không bị người
ăn bẻ nát, Ngài không bị bẻ nát, cũng không bị phân chia, nhưng được lãnh nhận
hết” (Lauda Sion).
Thế
nên Đức Giêsu hiện diện trong Thánh Thể theo một cách thức độc nhất, không thấy
nơi đâu khác. Không một tính từ nào, chỉ mình nó, là đủ để nói lên phẩm chất của
sự hiện diện này, ngay cả tính từ “thực sự”: thực sự là do res (sự việc) và có nghĩa: theo kiểu một sự việc hay một sự vật;
nhưng Đức Giêsu không hiện diện trong Thánh Thể như một “sự việc” hay sự vật,
mà là một con người. Nếu phải gọi tên cho sự hiện diện này, có lẽ tốt hơn chỉ
thuần túy gọi là sự hiện “Thánh Thể”, vì nó chỉ được thực hiện trong Thánh Thể.
Hành
động của Chúa Thánh Thần: truyền thống Chính thống giáo
Thần
học La tinh cung cấp nhiều nét phong phú, nhưng không khai thác hết mầu nhiệm,
cũng không thể làm điều đó. Điều còn thiếu cho thần học này, ít nhất trong quá
khứ, là không cho thấy tầm quan trọng phải có của Chúa Thánh Thần, và là chủ yếu
cho việc hiểu Kinh Thánh. Vậy cuối cùng chúng ta hướng về Đông phương với một
tâm hồn được chuẩn bị hoàn toàn khác với trước đây: chúng ta không còn lo lắng
về sự khác biệt, nhưng may mắn được nó bổ túc cho nhãn quan La tinh của chúng
ta. Thực ra, truyền thống Chính thống giáo cho thấy rõ hành động của Chúa Thánh
Thần trong cử hành Thánh Thể. Vả lại, những đối chiếu này đã mang lại kết quả kể
từ Công đồng Vaticanô II; cho tới lúc đó, trong lễ quy Rôma, người ta chỉ đề cập
Chúa Thánh Thần như một lời xen vào vinh tụng ca kết thúc: “Chính nhờ Người, với
Người và trong Người…trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần…”. Nhưng hiện nay, mọi
Kinh Nguyện Thánh Thể mới đều có hai lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần: trên lễ vật
trước lúc truyền phép, và trên Giáo Hội sau lúc truyền phép.
Các
phụng vụ Đông phương luôn coi sự hiện diện thật của Đức Kitô trên bàn thờ là do
sự can thiệp đặc biệt của Chúa Thánh Thần, đến độ coi lúc chính xác Đức Kitô hiện
diện là khi đọc kinh epiclesis (kinh
khẩn cầu Chúa Thánh Thần), chứ không phải lúc truyền phép (tuy nhiên giáo lý
này xuất hiện muộn hơn, tiếp theo sau cuộc tranh cãi về việc đập phá ảnh tượng).
Trong kinh thượng tiến (anaphore) của thánh Giacôbê, sử dụng nơi Giáo Hội
Antiokia, Chúa Thánh Thần được khẩn cầu bằng những lời sau đây: “Lậy Chúa, xin
sai xuống trên chúng con và trên những lễ vật dâng tiến Chúa đây Thần Khí thánh
của Chúa, Đấng ban sự sống, ngự trị cùng với Chúa là Thiên Chúa và là Cha, và với
Con độc nhất của Chúa. Người hiển trị, đồng bản thể, đồng vĩnh tồn; Người đã
nói qua Lề Luật, các tiên tri và Tân Ước; dưới hình chim bồ câu, Người đã xuống
trên Chúa chúng con là Đức Giêsu Kitô trong sông Giođan, và đã đậu trên Ngài;
dưới hình lưỡi lửa, Người đã xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần. Lậy Chúa,
xin sai xuống trên chúng con và trên những lễ vật dâng tiến Chúa đây Thần Khí rất
thánh của Chúa, để nhờ Người đến trong thánh thiện, tốt lành và vinh quang, Người
thánh hóa bánh này và làm cho trở nên mình thánh Đức Kitô (Amen), để Người
thánh hóa chén này và làm cho trở nên máu châu báu của Đức Kitô (Amen)”.
Ở
đây, còn có gì hơn là chỉ thuần túy thêm vào lời kêu cầu Chúa Thánh Thần; có một
cái nhìn rộng lớn đi sâu vào lịch sử cứu độ, cho phép ta khám phá ra một chiều
hướng mới về mầu nhiệm Thánh Thể. Khởi đi từ
những lời của Kinh Tin kính Nicêa-Constantinôpôli định nghĩa Chúa Thánh Thần là
“Chúa” và là “Đấng ban sự sống”, “đã dùng các tiên tri mà phán dạy”, viễn tượng
mở rộng tới chỗ vạch ra một “lịch sử” chân thực riêng cho Chúa Thánh Thần. Người
luôn hoạt động khi ban sự sống. Lúc đầu, Ađam là một hình tượng bất động, lấy
ra từ đất sét, nhưng được một “hơi thở của sự sống” thổi vào, và con người trở
thành một sinh vật; khi đến lúc mời gọi Ađam Mới xuất hiện, lại cũng chính Chúa
Thánh Thần can thiệp nơi Đức Maria, để ban sự sống cho Đấng Cứu Thế nơi Mẹ; còn
ở nhà Tiệc ly, chúng ta thấy một nhúm người đang sợ hãi và bấp bênh, một loại
thân thể bất động như con người đầu tiên, thì cũng chính hơi thở của Thần Khí đến
và rồi Giáo Hội sống động xuất hiện. Mỗi lần như vậy, chính Chúa Thánh Thần gây
ra một sự khác biệt về phẩm chất trong đời sống và lịch sử cứu độ.
Thánh
Thể đưa một loạt những lần can thiệp kỳ diệu đến chỗ hoàn tất. Ngày Phục Sinh,
khi ùa vào trong mồ, “sờ” vào thân xác bất động của Đức Giêsu, làm cho thân xác
ấy sống lại, Chúa Thánh Thần lặp lại sự kỳ diệu này trong Thánh Thể: Người xuống
trên bánh rượu là những yếu tố chết và ban cho chúng sự sống, Người biến chúng
thành thịt máu Đấng Cứu Chuộc. Quả thật, như Đức Giêsu đã cho thấy điều đó khi
nói về Thánh Thể, chính “Thần Khí mới làm
cho sống” (Ga 6,63). Thêôđôrê Mopsueste, khi trình bày cách tuyệt vời truyền
thống Thánh Thể của Đông phương, đã viết: “Nhờ hành dộng phụng vụ, Chúa chúng
ta như đã sống lại từ trong kẻ chết và đổ tràn trên tất cả chúng ta ân sủng của
Ngài, nhờ việc Chúa Thánh Thần đến. Khi vị tư tế tuyên bố bánh và rượu này là
Mình và Máu Đức Kitô, ông xác nhận chúng trở thành như thế nhờ tiếp xúc với
Chúa Thánh Thần. Đã xẩy ra như vậy với thân xác tự nhiên của Đức Kitô, khi Ngài
lãnh nhận Chúa Thánh Thần và được Người xức dầu. Chúng ta tin rằng lúc Chúa
Thánh Thần đến, bánh và rượu lãnh nhận một thứ xức dầu của ân sủng. Và từ đó
chúng ta tin chúng là mình và máu Đức Kitô, bất tử, bất hoại, bất thụ và bất biến
tự bản chất, như chính thân xác Đức Kitô
trong sự Phục Sinh” (Homélies catéch.
XVI, 11 tt).
Tuy
nhiên, có một chi tiết cần phải để ý: Chúa Thánh Thần không hành động tách biệt
với Đức Giêsu, nhưng trong lời của Đức Giêsu. Đức Giêsu nói về Người: “Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất
cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại…Người sẽ tôn vinh Thầy, vì người sẽ lấy
những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,13-14). Vì vậy không được
tách biệt và càng không được đối lập với nhau những lời của Đức Giêsu (“Này là
Mình Thầy”) và những lời của kinh epiclesis
(“Xin Chúa Thánh Thần làm cho bánh này trở thành mình Đức Kitô”). Lời mời gọi các
anh em Công giáo và Chính thống giáo hiệp nhất phát sinh từ chính những sự sâu
thẳm của mầu nhiệm Thánh Thể. Ngay cả khi, do sức mạnh của sự việc, việc tưởng
niệm lập phép Thánh Thể và lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần xảy ra vào những thời
điểm khác nhau (con người không thể diễn tả mầu nhiệm trong chỉ một lúc), tuy
nhiên hành động của các Ngài liên kết với nhau. Chắc chắn hiệu quả là từ Thần
Khí (không phải từ linh mục hay từ Giáo Hội), nhưng hiệu quả này là từ bên
trong lời của Đức Kitô và qua lời Ngài. Do đó mà thánh Ambrôsiô đã kêu lên: “Bạn
không thấy lời của Đức Kitô hữu hiệu dường nào sao?”. Từ đây chúng ta biết lời ấy
hữu hiệu là do ai: do Chúa Thánh Thần! Đức Giêsu nói: “Này là mình Thầy”, nghĩa
là: Thầy muốn bánh này là mình Thầy. Và mỗi lần như thế Chúa Thánh Thần thực hiện
ý muốn này của Đức Giêsu. Và sự “cộng tác” tuyệt vời như tôi vừa nói, được thực
hiện. Trong việc truyền phép, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta Đức Giêsu, để
lúc hiệp lễ Đức Giêsu có thể ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần.
Hiệu
năng hiện tại hóa sự hiện diện của Đức Giêsu trên bàn thờ, như tôi đã nói,
không đến từ Giáo Hội, nhưng, cần nói thêm, không xẩy ra mà không có Giáo Hội.
Giáo Hội là dụng cụ sống động được Chúa Thánh Thần dùng làm máng chuyên cho một
công trình chung. Việc Đức Giêsu xuống trên bàn thờ giống như lúc Ngài trở lại
lần cuối trong vinh quang: Thần Khí và Tân Nương (Giáo Hội) nói với Đức Giêsu:
Xin Ngài ngự đến! Và Ngài đến (x. Kh 22,17).
Tầm quan trọng của đức
tin: linh đạo Tin lành
Truyền
thống La tinh cho thấy rõ “ai” hiện diện trong Thánh Thể: Đức Kitô; truyền thống
Chính thống giáo cho thấy rõ Ngài hiện diện là “bởi ai”: bởi Chúa Thánh Thần;
thần học Tin lành cho thấy rõ sự hiện diện này tác động “trên ai”, nói khác đi,
với những điều kiện nào mà bí tích thực tế thực hiện điều nó biểu thị nơi người
lãnh nhận. Những điều kiện này khác nhau nhưng tóm lại trong một từ: đức tin.
Chúng
ta không lần lữa ở những hệ quả tiêu cực mà vào một số thời kỳ người ta rút ra
nguyên tắc của Tin lành chủ trương các bí tích chỉ là những “dấu chỉ đức tin”.
Chúng ta hãy vượt qua những hiểu lầm và bút chiến, và chúng ta thấy lời nhắc mạnh
mẽ này đến đức tin thực bổ ích để giải cứu bí tích và không biến nó (như đã xảy
ra trong thời của Luthêrô và không chỉ thời đó) thành một trong những "việc
lành" hoặc thành một điều gì đó hoạt động hơi máy móc và có tính ma thuật,
hầu như không được con người biết đến. Chung quy, vấn đề là khám phá ra ý nghĩa
sâu xa của lời tung hô phụng vụ sau lúc truyền phép; lời tung hô này, chúng ta
nhớ ngày xưa đã được xen vào trong công thức truyền phép, như để nhấn mạnh rằng
đức tin là phần chủ yếu của mầu nhiệm: “Mysterium
fidei”, mầu nhiệm đức tin.
Đức
tin không làm nên bí tích, nó chỉ làm cho người ta “lãnh nhận” bí tích; chỉ có
lời của Đức Kitô, được Giáo Hội lấy lại và được Chúa Thánh Thần làm cho hữu hiệu,
mới “làm nên” bí tích. Nhưng ích lợi của một bí tích sẽ như thế nào nếu bí tích
không được “lãnh nhận”? Về việc Nhập Thể, những người như Origen, thánh
Augustinô, thánh Bênađô đã nói: “Việc Đức Kitô được Đức Maria sinh ra ngày xưa ở
Belem ích gì cho tôi, nếu Ngài không sinh ra trong tâm hồn tôi bằng đức tin?”
Cũng phải nói như thế về Thánh Thể. Đức Kitô thật sự hiện diện trên bàn thờ thì
có ích gì, nếu Ngài không hiện diện cho tôi. Một trạm truyền thanh phát sóng ở
nơi nào đó chẳng ích gì, nếu không có trạm thu sóng của nó; âm nhạc không tồn tại
nếu không có những lỗ tai để nghe. Lúc Đức Giêsu hiện diện trong thân xác ở trần
gian, thì đức tin là cần thiết; nếu không – như chính Ngài thường hay lặp lại
trong Phúc Âm – sự hiện diện của Ngài chẳng có ích gì, trừ ra để lên án người
ta: “Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Capharnaum”.
Chiều
kích chủ quan và hiện sinh này của sự hiện diện Thánh Thể không hủy bỏ sự hiện
diện khách quan đi trước đức tin của con người, hơn nữa nó giả thiết và làm
tăng giá trị đức tin ấy, vì thật sự chính Luthêrô, người đã rất đề cao vai trò
của đức tin, đã có thể viết lời tuyên tín lạ lùng vào sự hiện diện thật như
sau: “Tôi không thể hiểu những từ: ‘này là mình Thầy’ khác với những gì những từ
ấy nói. Vậy những người khác phải chứng minh rằng khi có lời: ‘này là mình Thầy’,
thì thân xác Đức Kitô không có ở đó. Tôi không muốn nghe những cách cắt nghĩa dựa
trên lý trí. Trước những lời rõ ràng như vậy, tôi không chấp nhận thắc mắc; tôi
gạt bỏ lương tri và lý trí lành mạnh của con người. Những chứng cứ vật chất, những
luận chứng hình học, tôi gạt bỏ hết. Thiên Chúa ở trên tất cả mọi loại toán học.
Chỉ cần rất đỗi ngạc nhiên mà thờ lậy lời Thiên Chúa” (Colloque de Marburg, 1529).
Chúng ta đã nhanh chóng lướt qua sự phong phú
của những truyền thống Kitô giáo khác nhau, đủ để làm cho chúng ta thoáng thấy
một quà tặng vô hạn được ban cho Giáo Hội, khi các hệ phái Kitô giáo khác nhau
quyết định để làm của chung những thiện ích thiêng liêng của mình, theo cách
các Kitô hữu đầu tiên “để mọi sự làm của
chung” (Cv 2,44). Điều đang xẩy ra thì đã xẩy ra thời tiên tri Khácgai lúc
tái thiết đền thờ: mọi ngươi dân Israel đang bận bịu tái thiết và làm đẹp nhà
riêng của mình, thì Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri mà nói: “Bây giờ có phải là lúc để các ngươi ở trong
các nhà có ghép gỗ đóng trần, còn Đền Thờ thì lại hoang tàn đổ nát không?”
(Kg 1,4). Khi đó, dân bắt đầu đưa gỗ trên núi về để tái thiết đền thờ Thiên
Chúa, và Thiên Chúa hài lòng về họ và tỏ hiện vinh quang của Ngài.
Ngày
hôm nay, dường như tôi vẫn còn nghe tiếng than phiền này của Thiên Chúa đang
nói với người Kitô hữu chúng ta: có phải dường như đây là lúc các ngươi được
yên ổn, mỗi người hài lòng với “Giáo Hội” của mình, đang khi thân thể của Con
Ta vẫn còn chia rẽ chăng? Thánh Phaolô thấy có hai lý do khiến cho cộng đồng
Corintô kém cỏi: ăn uống “cách bất xứng” bữa tối của Chúa (vậy là do cách cư xử
xấu của họ), và ăn uống “tách biệt” nhau (vậy là do họ chia rẽ nhau). Thực sự
có những người trong số họ ăn bữa ăn riêng của mình, thích mang đến những đồ ăn
phù hợp với mình, mà hoàn toàn không biết đến những người khác (x. 1Cr 11,20
tt). Chúng ta phải coi điều cảnh báo như thế là cho chúng ta, và phải học cách
“chờ đợi” nhau trong Bữa Tiệc của Chúa và chia sẻ tất cả những sự phong phú của
truyền thống chúng ta, không nghĩ rằng chúng ta nắm giữ mọi sự, không đánh giá
thấp những truyền thống khác. Chính đó là agapè
lớn nhất, có những chiều kích toàn thể Giáo Hội. Chúa đặt trong lòng ta ước muốn
thấy bác ái đó, vì Cha chung của chúng ta được vui mừng và Giáo Hội của Người
được củng cố.
Cảm thức về sự hiện diện
Sau
cuộc hành hương Thánh Thể ngắn ngủi qua các hệ phái Kitô giáo khác nhau, chúng
ta cũng đã thu lại vào giỏ những mẩu dư của việc hóa bánh ra nhiều lớn lao
trong Giáo Hội. Nhưng chúng ta không thể hoàn tất ở đây việc suy niệm của chúng
ta về mầu nhiệm hiện diện thật; điều đó có nghĩa là không ăn những mẩu bánh dư
mà chúng ta đã thu lại. Đức tin vào sự hiện diện thật là một sự việc lớn lao,
nhưng không đủ cho chúng ta; ít nhất đức tin được hiểu theo cách nào đó. Có một
ý tưởng chính xác, sâu sắc, hoàn hảo về phương diện thần học về sự hiện diện thật
của Đức Giêsu trong Thánh Thể là không đủ. Trong số các nhà thần học, có rất
nhiều vị biết mọi sự về mầu nhiệm này: từ những cuộc tranh luận ở thời Béranger
đến các cuộc bàn cãi xoay quanh sự biến thể và sự biến nghĩa, nhưng họ không biết
đến sự hiện diện thật. Là vì, theo nghĩa Kinh thánh của hạn từ, người “biết” một
sự vật là người có kinh nghiệm về sự vật đó. Thực sự biết lửa là người, ít ra một
lần, đã bị ngọn lửa chạm phải, và đã phải mau chóng lùi lại để khỏi bị phỏng.
Thánh
Grêgôriô Nyssê đã để lại cho chúng ta một kiểu nói rất hay để xác định mức độ
cao nhất này của đức tin; ngài nói tới một “cảm thức về sự hiện diện” (aisthesis parousias) (In Cant. XI, 5, 2) khi một người nào đó
bị sự hiện diện của Thiên Chúa bắt chộp; người đó có một tri giác nào đó (chứ
không chỉ là một ý tưởng) về sự hiện diện của Ngài. Đây không phải là một tri
giác tự nhiên, nhưng là kết quả của một ân sủng tác động như một sự đoạn giao về
mức độ, một sự khác biệt lớn về phẩm chất. Có một loại suy lớn với những gì đã
xẩy ra sau ngày Phục Sinh, khi Đức Giêsu để cho ai đó nhận ra mình. Đó là một
điều bất ngờ đột nhiên làm thay đổi hoàn toàn cách xuất hiện của một con người.
Sáng ngày Phục Sinh, Đức Giêsu hiện ra với Maria và nói với bà: “Này bà, sao bà khóc?” (Ga 20,15). Nhưng
bà tưởng là người làm vườn. Chưa có chuyện gì xẩy ra cả; đó là cuộc đối thoại
đơn thuần giữa hai người. Thì đây Đức Giêsu gọi tên bà: Maria! Ngay tức khắc, như thể một bức màn xé toang ra: “Rabbouni!”
(Lậy Thầy) (Ga 20,16). Ít ngày sau, các tông đồ đi đánh cá ở hồ; xuất hiện
một người đứng trên bờ, người đó hỏ từ xa: “Này
các chú, không có gì ăn ư?” Các
ông trả lời: “Thưa không”. Nhưng một
tia sáng lóe lên trong tâm hồn Gioan; ông kêu lên: “Chúa đó!” Khi ấy, mọi sự đều thay đổi, các ông vội vã chèo thuyền
vào bờ (x. Ga 21,4). Các môn đệ Emmau cũng đã biết đến một biến cố tương tự, chắc
hẳn theo một cách thức thầm lặng hơn; Đức Giêsu đi đường với họ, nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra
Người; cuối cùng, khi Đức Giêsu làm cử chỉ bẻ bánh, lúc ấy “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”
(Lc 24,31).
Thế
đấy! chính xác đó là những gì xẩy ra vào ngày một người Kitô hữu đã bao lần
lãnh nhận Đức Giêsu trong Thánh Thể, nhờ ân huệ của Ngài, cuối cùng “nhận ra”
Ngài và hiểu biết chân lý của lời: “Đây
thì còn hơn vua Salomon nữa”. Chính từ một kinh nghiệm tương tự mà cách đây
ít lâu nẩy sinh Phong trào Canh tân đặc sủng trong Giáo Hội Công giáo. Một nhóm
người trẻ Công giáo Hoa Kỳ, ngày cuối tuần, đã đi đến một nhà tiếp đón những
người tĩnh tâm. Họ vừa gặp nhau trong nhà nguyện buổi tối trước Thánh Thể thì bỗng
chốc xẩy ra một sự việc đặc biệt; sau đó, một người trong nhóm nói về sự việc
như sau: “Chúng tôi bắt đầu kính sợ Chúa; một thứ kinh khiếp thánh không cho
chúng tôi ngước mắt lên. Người ở đó, đích thân hiện diện, còn chúng tôi, chúng
tôi đã sợ không cưỡng lại được tình yêu quá mức của Người. Chúng tôi tôn thờ
Người mà lần đầu tiên khám phá ra tôn thờ nghĩa là gì. Chúng tôi trải qua một
kinh nghiệm nóng bỏng về thực tại đáng sợ: sự hiện diện của Chúa. Kể từ đó, bằng
một sự sáng sủa mới mẻ và không quanh co, chúng tôi đã hiểu những hình ảnh của
Đức Chúa, Đấng mà trên núi Sinai, nói vang như sấm và bùng nổ bằng chính lửa từ
bản thân Ngài, chúng tôi đã hiểu kinh nghiệm của Isaia và điều ông quả quyết:
“Thiên Chúa chúng ta là ngọn lửa thiêu hủy”. Sự kính sợ này, một cách nào đó,
không gì khác hơn là tình yêu, hoặc ít nhất chúng tôi đã nhận ra là như thế. Đó
là một điều hết sức đáng yêu và đẹp đẽ, cho dù không ai trong chúng tôi thấy
hình ảnh khả giác nhỏ nhất. Đó như thể là thực tại cá nhân của Thiên Chúa, chói
lòa rực rỡ, đến xâm chiếm cả căn phòng lẫn chúng tôi bằng sự hiện diện của
Ngài” (The Spirit and the Church, par
R. Martin, New York, 1976, p. 16).
Sự đáp ứng của ta trước
mầu nhiệm hiện diện thật
Từ
đức tin của chúng ta và từ “cảm thức” về sự hiện diện thật phải phát sinh một lòng
tôn kính bộc phát đối với Đức Giêsu trong Thánh Thể, và ngay cả từ sự âu yếm. Đó
là một cảm thức quá tinh tế và cá nhân đến nỗi người ta có nguy cơ làm nó mất đi
vẻ tươi tắn chỉ bằng cách nói về nó. Một lần nữa, chúng ta hãy nghe thánh
Phanxicô Assisi, một bậc thày dạy chúng ta về sự sùng mộ Thánh Thể, một người
có tâm hồn tràn đầy những tình cảm âu yếm kính tôn.
Trong
lá thư “Gửi tất cả các giáo sĩ, về việc tôn kính Thân Thể Đức Kitô”, ngài đã buồn
bã mà viết: “Chớ gì những ai phục vụ những mầu nhiệm trọng đại này, nhất là những
ai làm điều đó mà thiếu lòng tôn kính phải có, hãy nhìn coi những chén thánh,
khăn thánh và những khăn khác dùng để thánh hiến Thân Thể Chúa chúng ta là Đức
Giêsu Kitô, đang trong tình trạng tồi tệ như thế nào. Nơi nhiều người, Mình
Thánh được để vào những nơi bất xứng; thật đáng phải khóc lên khi thấy người ta
mang đi, lãnh nhận mà không chuẩn bị, khi thấy Mình Thánh được ban mà không có
lòng tôn kính. Chúng ta lại không nhiệt thành với việc phục vụ thánh này sao,
khi mà chính Chúa phó mình trong tay chúng ta, chúng ta có Ngài và chịu lấy
Ngài mỗi ngày? Chúng ta lại không biết rằng chúng ta phải rơi vào tay Ngài?
Nào, từ những lộn xộn này, và cả những lộn xộn khác, chúng ta hãy lập tức cương
quyết tạ lỗi”.
Phanxicô
cảm thấy âu yếm trước Chúa Giêsu Thánh Thể như ngài đã cảm thấy trước Hài Nhi của
Belem ở Greccio. Ngài thấy Hài Nhi bơ vơ trước con người, bất lực, nhất là
khiêm nhường; đối với ngài, vẫn luôn là Đức Giêsu hằng sống và cụ thể, chứ
không là một sự trừu tượng thần học. Ngài viết trong chúc thư: “Cha hành động
như thế về Con Thiên Chúa Tối Cao, cha không thấy điều gì khác hơn trên thế
gian này, trong hình hài có thân xác, ngoại trừ mình và máu rất thánh của
Ngài”.
Thánh
Thể là trách nhiệm lớn nhất của Giáo Hội trong lịch sử. Giáo Hội có trách nhiệm
trong biết bao nhiêu lãnh vực: một giáo lý lành mạnh, con người, văn hóa, kho
tàng nghệ thuật; nhưng tất cả những trách nhiệm đó không có tầm quan trọng nào
so với trách nhiệm về Mình và Máu Đấng Cứu Thế là giá chuộc Giáo Hội.
Ngày
xưa, ở những thế kỷ đầu của Kitô giáo, có một kỷ luật thịnh hành gọi là “luật bảo
mật” (discipline de l’arcane): người ta không được nói về Thánh Thể quá dễ
dàng, nhẹ dạ, và càng phải ít phơi bầy Thánh Thể ra cho mọi người; cũng vậy, đối
với người trở lại, mầu nhiệm Thánh Thể chỉ được mạc khải đầy đủ trong tuần lễ
sau khi họ chịu phép Rửa tội, tức cho người tân tòng chứ không cho người dự
tòng. Đó là lúc người ta mong đợi nhất, vì mầu nhiệm bao quanh nó. Ngày nay
chúng ta tự hỏi vì sao phải cẩn thận quá như vậy. Phải chăng chỉ vì sợ bị người
ngoại chế diễu hay xúc phạm? Chắc chắn đã sợ như vậy, nhưng sâu xa hơn, đó là
cách diễn tả một tình cảm tôn kính và sợ hãi tôn giáo trước việc Thiên Chúa quá
gần gũi. Arcane (bảo mật) do “arca”, phát
xuất từ động từ la tinh arcere có
nghĩa là giữ ở ngoài xa, che giấu, không cho người phàm tục trông thấy. Chính
vì vậy, trong các văn khắc hay tranh tường, người ta che giấu Thánh Thể không
cho dân ngoại biết dưới hình thức các biểu tượng, chẳng hạn con cá. Có lẽ đã đến
lúc tái lập luật bảo mật. Không phải trong hình thức, nhưng trong tinh thần.
Ngày nay, không phải việc xúc phạm Thánh Thể (bất hạnh thay, điều này vẫn còn xẩy
ra!) cho bằng nguy hiểm coi Thánh Thể là chuyện tầm thường; Thánh Thể chỉ còn
là chuyện “bình thường”, mà người ta có thể coi nhẹ coi thường quá trớn. Chính
các linh mục tiên vàn phải nhớ điều đó, vì chính họ mỗi ngày có quan hệ với
Mình và Máu Đức Kitô, chính họ là những người “canh giữ”, nhiệm vụ mà Giáo Hội
đã giao phó cho họ, cũng chính họ dễ bị quen quá hóa nhàm, dễ quên đây là về
Thiên Chúa và phải thờ lậy Thiên Chúa. Khi là về Thiên Chúa, sự thân mật luôn
phải đi đôi với sự kính trọng.
Huấn
giáo đầu tiên về Thánh Thể, mà một cha sở đã dạy cho dân của ngài, là cách thức
hiện diện trước bàn thờ và đi lại trước Thánh Thể. Có một cách bái gối trước
nhà tạm có thể có giá trị như một bài giảng về sự hiện diện thật. Có biết bao
nhiêu dấu chỉ nhỏ bé cho phép chúng ta hiểu Đức Giêsu được người ta cảm thấy
đang hiện diện trong một cộng đồng Kitô giáo đến mức nào: khăn bàn thờ luôn sạch
sẽ, một bình hoa, chỉ cần một bình, nhưng là hoa tươi, đèn nhà chầu luôn sáng…
Đừng khinh chê quá dễ dàng những dấu chỉ bên ngoài; nếu Con Thiên Chúa đã không
coi thường việc bày tỏ tình yêu của Ngài đối với ta qua những dấu chỉ như dấu
chỉ Thánh Thể, tại sao chúng ta lại sợ bày tỏ cho Ngài tình yêu của chúng ta
qua các dấu chỉ? Chắc chắn Đức Giêsu không ngừng lại ở các cử chỉ của thân xác,
nhưng ở những tình cảm thúc đẩy trái tim của Ngài; chính chúng ta cần những cử
chỉ của thân xác để khơi dậy những tình cảm của tâm hồn và diễn tả chúng ra. Sự
sốt sắng và tế nhị (chứ không phải sự mầu mè) đối với Thánh Thể trong nhà thờ
cho thấy lòng tin và đạo đức của linh mục và của cộng đồng tụ họp nhau trước
Thánh Thể.
“Nếu
tôi có thể tin rằng trên bàn thờ thật sự có Thiên Chúa, tôi tưởng mình sẽ quỳ
xuống và không thể đứng dậy nữa”. Đó là suy nghĩ của một người đã không tin vào
sự hiện diện thật. Có lẽ đó không phải là điều Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta, vì
cũng còn có những bổn phận bác ái và phục vụ anh em; Ngài không đòi chúng ta
luôn quỳ gối về phương diện thể lý, nhưng chắc chắn Ngài đòi hỏi một cách
thiêng liêng, trong tâm hồn ta. Có thể giữ tâm hồn mình trong trạng thái tôn thờ
trước Thánh Thể, trong khi bàn tay chúng ta vẫn làm việc, tha tội, viết lách. Đời
sống của mọi Kitô hữu, đặc biệt tu sĩ và linh mục, phải hướng về nhà tạm. Theo
một truyền thống rất lâu đời, các nhà thờ luôn “hướng về”, tức hướng về phía
Đông, vì Đức Kitô đã chịu chết và sống lại ở phía Đông, ở Giêrusalem. Đền thờ
là tâm hồn chúng ta cũng phải hướng về phía Đông, về Mặt Trời Công Chính, từ
Thánh Thể, rạng ngời trên Giáo Hội. Theo lời Đức Giêsu nói, kho tàng của chúng
ta ở đâu thì lòng chúng ta cũng ở đó (x. Mt 6,21), nhưng kho tàng lớn nhất của
chúng ta trên thế giới này (“kho tàng giấu trong thửa ruộng”), chính là Đức
Giêsu Thánh Thể; vậy ước gì lòng chúng ta ở đó, ước gì lòng chúng ta trở lại đó
sau giấc ngủ ban đêm và ước gì lòng chúng ta tìm chỗ chắc chắn trước nhà tạm.
Phải, có thể quỳ lâu giờ trong tinh thần trước Thánh Thể, ngay cả trong lúc làm
việc, hoặc khi du hành trong xe lửa…
Hồi
tâm là chuyện quan trọng, hiện diện với Đấng đang hiện diện. Như chúng ta đã thấy,
hiện diện đòi người khác cũng phải hiện diện, nhưng rất nhiều khi chúng ta lại
vắng mặt. Nếu Thiên Chúa là “Đấng đang có mặt ở đây” thì con người lại “không
có mặt ở đây”, sống ở ngoài, vong thân, “ở miền xa”. Khi nghĩ lại giai đoạn trước
ngày hoán cải, thánh Augustinô đã buồn bã mà kêu lên: “Chúa đã ở với con, mà
con lại không ở với Chúa” (Conf. X,
27). Để gặp Đức Giêsu trong Thánh Thể, phải trở lại vào bên trong chính mình.
Khi
các môn đệ Emmau “nhận ra” Chúa lúc Ngài bẻ bánh, ngay lập tức, không cần biết
là “trời đã muộn”, họ chạy đi báo tin cho các môn đệ khác ở Giêrusalem. Người
đã thực sự nhận ra Chúa trong Thánh Thể tức khắc trở thành tông đồ của sự hiện
diện thật. Đức tin kéo theo kinh nghiệm và kinh nghiệm kéo theo chứng từ. Gioan
Tẩy Giả là khuôn mẫu vô song của cách rao giảng mầu nhiệm hiện diện thật: không
phải bằng nhiều lời, như tôi đã làm trong bài suy niệm này, nhưng chỉ “bằng quyền
năng của Thần Khí”, khi ông kêu lên: “Có
một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Gioan là người
chỉ đường, là người giơ ngón tay, mạnh mẽ chỉ cho thấy hướng chính xác; ông
nói: Đây Chiên Thiên Chúa! Tất cả môn đệ của ông nhìn về hướng đó, và bỏ ông để
theo Con Chiên (x. Ga 1,35).
Chúng
ta đã suy niệm về sự hiện diện thật của Đức Giêsu ở giữa chúng ta. Cuối cùng
chúng ta nhớ rằng sự hiện diện ấy không chỉ là một ân huệ, mà còn là một trách
nhiệm. Ngày đó, Đức Giêsu nói: “Nữ hoàng
phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ
tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon; mà đây thì còn hơn
vua Salomon nữa” (Mt 12,42).
(R. Cantalamessa, L’Eucharistie, notre sanctification, ed.
Centurion 1989, ch. VI)
Lm
Micae Trần Đình Quảng