XII
“ĐỨC GIÊSU KÊU MỘT TIẾNG LỚN,
RỒI TRÚT LINH HỒN”
Các
tác giả Phúc Âm Matthêu và Maccô mô tả cái chết của Đức Giêsu như sau: “Đức Giêsu kêu một tiếng lớn, rồi trút linh
hồn” (Mt 27,50; Mc 15,37). Kraxas
phonè megalè trong tiếng Hy lạp, Clamans
voce magna trong tiếng la tinh. Có một mầu nhiệm lớn trong tiếng kêu của Đức
Giêsu lúc sinh thì, và chúng ta không thể bỏ qua. Nếu tiếng kêu này được phát
ra, chính là để được thu lại nếu nó được viết trong Phúc Âm, chính vì nó cũng
là Phúc Âm. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, tất cả những gì không nói ra hoặc
không thể dùng lời nào để nói ra, đều hàm chứa trong tiếng kêu này. Qua đó, Đức
Giêsu vét cạn tâm hồn Ngài tất cả những gì đã làm đầy nó trong cuộc sống của
Ngài. Đó là một tiếng kêu xuyên qua các thế kỷ, to hơn mọi tiếng kêu của con
người, cho dù đó là tiếng kêu từ chiến tranh, niềm vui hay thất vọng.
Không
phải vì suy đoán mà tìm cách đi vào trong mầu nhiệm của tiếng kêu này và khám
phá ra nội dung của nó. Có một lý do khách quan, thuộc tín điều cho phép làm
chuyện này. Lý do đó là sự linh hứng Kinh thánh. “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng”
(2Tm 3,16); “chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy
mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa.” (2Pr 1,21)
Vậy
có người biết bí mật của tiếng kêu này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng đã “linh hứng”
tất cả Kinh Thánh. Người quen cắt nghĩa ở đây điều Người đã không cắt nghĩa ở
chỗ khác; Người cắt nghĩa bằng những lời hiểu được những gì Người đã nói bằng “những tiếng rên siết khôn tả” ở chỗ
khác (x. Rm 8,26). Người là tác giả duy nhất của tất cả Kinh Thánh, vượt lên
trên những tác giả nhân loại khác nhau của Người.
Thánh
Tông Đồ nói: “Ai trong loài người biết được
những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người?
Cũng thế không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí
của Thiên Chúa.” (1Cr 2,11). Như vậy, không ai biết được những bí mật của
Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí Đức Kitô, Đấng ở trong Ngài và, trong suốt
cuộc đời của Ngài, đã là “bạn đồng hành chí thiết trong mọi sự[1]”.
Đức Giêsu đã làm mọi sự “trong Thánh Thần”.
Tất cả những gì Ngài nói là nói “trong
Thánh Thần” (x. Lc 4,18; 10,21). Thậm chí tiếng kêu của Ngài trên thập giá
là một tiếng kêu “trong Thánh Thần”, chứ không thuần túy là tiếng thét gào cùa
người sắp chết.
Vậy
“Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí phát xuất
từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta”
(1Cr 2,12), kể cả những gì được tiếng kêu này ban cho.
***
Trong
thư Rôma thánh Tông Đồ viết: “Thiên Chúa
đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.”
(Rm 5,5) Có một điều tôi đã chưa bao giờ để ý: qua những lời trên, thánh Phaolô
không quy chiếu tới tình yêu của Thiên Chúa cách chung chung, cũng không nói
cách trừu tượng, nhưng tới một lúc cụ thể của tình yêu này, tới một biến cố lịch
sử chính xác, mà ngài bắt đầu minh giải ngay. Bản văn cho biết tiếp: “Bởi vì, khi chúng ta còn là hạng người vô đạo,
thì Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,6). Liên từ “bởi vì – gar” chỉ ra rằng đây là một cách cắt
nghĩa điều xẩy ra trước; có mục đích cho thấy tình yêu này của Thiên Chúa lớn
như thế nào mà Chúa Thánh Thần đã đổ vào lòng chúng ta.
Nhưng
xét toàn bộ, chúng ta hãy nghe cho kỹ điều chính Thánh Thần nói qua miệng thánh
Tông Đồ. Theo tôi, chúng ta đang đi vào vực thẳm từ đó vang lên tiếng kêu của Đức
Kitô lúc hấp hối.
“Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng
người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không
ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện
chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người
tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ
chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được
Người cứu thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Thật vậy nếu ngay khi chúng
ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của người phải chết,
mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta được hòa
giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của người Con ấy.” (Rm 5,6-10)
Tiếng
kêu của Đức Giêsu trên thập giá là tiếng kêu của người lâm bồn. Vào lúc này,
Ngài sinh vào một thế giới mới. “Bức tường lớn ngăn cách” của tội lỗi đã bị hạ xuống,
và việc hòa giải được thực hiện (x. Ep 2,14tt). Vậy đây vừa là tiếng kêu đau khổ
vừa là tiếng kêu yêu thương. “Người vẫn
yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến
cùng.” (Ga 13,1) Ngài yêu thương họ đến hơi thở cuối cùng! Chúng ta hiểu tiếng
kêu này của Đức Kitô chứa đầy sức mạnh thần linh nào, nhờ vào những gì nó kích
thích nơi người nghe nó tại chỗ. Kinh Thánh viết là viên sĩ quan đứng trước mặt
Ngài, thấy Ngài tắt thở cách đó thì kêu lên: “Quả thực người này là Con Thiên Chúa!” (Mc 15,39) Ông trở thành
tín hữu.
Không
gì khác hơn là chúng ta phải đón nhận tiếng kêu yêu thương này, để nó chạm tới
lòng dạ chúng ta, làm thay đổi chúng ta. Nếu không, những Ngày Thứ Sáu thánh
này qua đi vô ích. Đức Giêsu vừa thốt lên tiếng kêu lớn ấy thì “ngay lúc đó bức màn trướng trong Đền thờ xé
ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung” (Mt
27.51-52). Chính là để chỉ ra những gì sẽ phải xẩy đến trong tâm hồn chúng ta.
Thiên Chúa chẳng làm gì với đất đá. Chính những khối đá khác phải vỡ ra; đó là
những “trái tim đá” của con người đã không bao giờ bị lay chuyển, không bao giờ
khóc, không bao giờ hồi tâm.
Đức
Giêsu biết rõ chỉ có một chìa khóa giúp mở những tâm hồn đóng kín, và không có
lời trách móc nào, xét đoán nào, đe dọa nào cũng không có sợ hãi nào, xấu hổ
nào, không gì khác có thể giúp được.. Chỉ có tình yêu mở các tâm hồn ra. Và đó
là khí cụ Ngài đã dùng với chúng ta: “Tình
yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi khi nghĩ rằng một người đã chết thay cho mọi
người” (2Cr 5,14). Hạn từ được thánh Phaolô dùng ở đây, sunechei, theo chiều vòng tròn có nghĩa
là: bao quanh chúng ta tứ phía, bao vây chúng ta, bao bọc chúng ta; theo chiều
đường thẳng có nghĩa: thúc bách chúng ta, không cho chúng ta ngưng nghỉ, urget nos, như bản Phổ thông dịch.
Chúng
ta phải giữ cho lời sau đây gắn chặt lấy ta: “Tình yêu mãnh liệt như thử thần, lửa tình là ngọn lửa bừng cháy”
(Dc 8,6). Chớ gì những ngọn lửa này bén vào chúng ta trong ngày thánh hôm nay,
hoặc ít ra bén vào người nào đó trong chúng ta, khiến họ cuối cùng phó thác cho
tình yêu của Thiên Chúa. Khi là về Thiên Chúa, thì để cho Ngài hiểu biết và chiếm
đoạt mình quan trọng hơn là để mình hiểu biết. Những điều này, Thiên Chúa mạc
khải cho những người bé mọn, nhưng lại giấu không cho người khôn ngoan thông
thái được biết (x. Mt 11,25)
***
Thế
nên chúng ta hãy dành thời giờ để suy nghĩ về tình yêu của Đức Kitô bao trùm lấy
ta và thấm nhập vào tận nơi sâu thẳm của con người ta. Hãy phơi bầy chúng ta
cho tình yêu này, như cho mặt trời mùa hạ. Vậy tình yêu này của Đấng Cứu Thế có
đặc tính nào?
Phẩm
chất đầu tiên của nó là yêu kẻ thù của
mình. “Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với
Thiên Chúa thì Người đã cho chúng ta được hòa giải với Người.” (x. Rm 5,10)
Đức Giêsu đã nói là “không có tình thương
nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
(Ga 15,13). Nhưng phải hiểu rõ hạn từ “bạn hữu” nói ở đây. Chính Ngài cho thấy
có một tình yêu còn lớn hơn tình yêu đó, lớn hơn việc hy sinh tính mạng vì “bạn hữu” của mình: đó là yêu thương kẻ thù của mình (x. 5,44) và hy sinh
tính mạng vì kẻ thù của mình. Thế, bạn hữu ở đây muốn nói gì? Không phải những người
yêu bạn, nhưng là những người bạn yêu (Bạn theo nghĩa thụ động là “những người
được yêu”, không theo nghĩa năng động là “những người yêu”). Đức Giêsu gọi
Giuđa là bạn (x. Mt 26,50) không phải vì Giuđa yêu Ngài. (Ngài biết là hắn phản
bội Ngài), nhưng vì Ngài yêu hắn. Và hạn từ “kẻ thù” muốn nói gì? Không phải những
người bạn ghét, nhưng là những người ghét bạn (ngược với bạn hữu, kẻ thù theo
nghĩa năng động là “những kẻ ghét”, không theo nghĩa thụ động là “những người bị
ghét”). Thiên Chúa không thù ghét ai, và về phần Ngài, Ngài không coi ai là kẻ
thù. Mọi con cái của Ngài tốt và xấu theo cùng một cách thức.
Chính
là đỉnh điểm, ngọn núi Everest, của tình yêu. Tình yêu mà người ta không thể tưởng
tượng là có một tình yêu nào lơn hơn trên thế giới. Chết cho kẻ thù, yêu kẻ
ghét bạn, muốn hủy hoạn bạn, thậm chí đang hủy hoại bạn! “Lạy Cha, xin tha cho họ!” (x. Lc 23,34). Và những kẻ thù này,
chính là chúng ta. Chúng ta, những người tội lỗi, những người vô đạo, những người,
kể từ Ađam, đã học biết hình thức tình yêu đáng sợ này, một tình yêu được gọi
là ích kỷ: “yêu mình đến chỗ khinh mạn Thiên Chúa, nếu cần[2]”.
“Chính người đã gánh chịu những đau khổ của
chúng ta […] Đức Chúa đã đổ trên đầu
người tất cả tội lỗi của chúng ta […] và
người chẳng hề mở miệng” (x. Is 53,4.6-7).
Lạy
Đấng Cứu Chuộc chúng con, Chúa yêu chúng con biết mấy. Đừng để chúng con trở về
nhà không biết lần thứ mấy, mà không hiểu biết mầu nhiệm ngày hôm nay. Xin làm
cho cả chúng con nữa có thể vui mừng và cảm động thưa lên với Chúa: “Chúa đã
lên tiếng kêu gọi, lạy Chúa, và tiếng Chúa đã phá vỡ sự điếc lác của con… Và giờ
đây, trong tâm trạng mong ngóng chờ đợi, con khao khát hướng về Chúa[3].”
Chớ gì tiếng kêu của Chúa lúc sinh thì cũng phá vỡ sự điếc lác của chúng con.
Trong một ngày như hôm nay, mấy thế kỷ trước, một nhà thần bí lớn [4]
đang miệt mài suy niệm cuộc Khổ nạn của Đức Kitô thì nghe được những lời này
trong tâm hồn, những lời đã trở thành nổi tiếng: “Ta đã yêu con, đó không phải
là chuyện đùa!”
***
Phẩm
chất thứ hai của tinh yêu nơi Đấng Cứu Thế là một tình yêu hiện tại. Đây không phải là ngọn lửa đã tắt, không phải một sự việc
của quá khứ cách nay đã hai ngàn năm và chỉ còn là một kỷ niệm. Tình yêu ấy
đang trong hiện thể, đang sống động. Nếu cần, Đức Kitô sẽ còn chết cho chúng
ta, vì tình yêu đưa Ngài đến chỗ chết vẫn còn kéo dài, không thay đổi. Đức Kitô
nói với chúng ta bằng những lời mà, có một hôm, Ngài đã cho tín hữu Pascal nghe
thấy:
“Ta là bạn hữu ngươi hơn
bất cứ một bạn hữu nào khác. Ta đã làm cho ngươi hơn họ, họ sẽ không bao giờ chịu
điều Ta đã chịu khổ vì ngươi, và cũng sẽ không bao giờ chết cho ngươi lúc ngươi
bất trung và gian ác, như Ta đã chết và sẵn sàng chết cho các người Ta tuyển chọn[5]”
Đức
Giêsu đã đưa ra vô số dấu chỉ nói lên tình yêu của Ngài. Không gì còn có thể
làm để bày tỏ tình yêu ấy, vì không có thử thách nào lớn hơn là hiến mạng sống
mình. Nhưng nếu Ngài vét cạn những dấu chỉ tình yêu, thì tình yêu của Ngài
không bị vét cạn. Giờ đây tình yêu của Ngài được phó thác cho một dấu chỉ đặc
biệt, một dấu chỉ khác, một dấu chỉ là một thực tại, thậm chí là một ngôi vị:
Chúa Thánh Thần. Tình yêu của Thiên Chúa – tình yêu này của Thiên Chúa mà giờ
đây chúng ta được biết – “đã được đổ đầy
vào lóng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Vậy
đây là một tình yêu sống động, hiện tại và đang bập bùng: Chúa Thánh Thần.
Lúc
mà các tác giả Phúc Âm khác nói là Đức Giêsu “kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn” thì Gioan nói: “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”
(Ga 19,30), có nghĩa là Ngài không chỉ trút hơi thở mà còn ban Thần Khí, Chúa
Thánh Thần, Thần Khí của Ngài. Giờ đây chúng ta hiểu tiếng kêu của Chúa lúc
sinh thì chứa đựng điều gì. Mầu nhiệm của Ngài cuối cùng được khai mở.
Chúng
ta được sinh ra từ tiếng kêu đó. Những lời Thánh vịnh, trong thực tế, được áp dụng
cho Đức Giêsu trên thập giá: “Kìa xứ
Philitinh cùng xứ Cút, tại đó kẻ này người nọ đã sinh ra. Nhưng nói về Sion,
thiên hạ bảo: người người sinh tại đó. Chúa ghi vào sổ bộ các dân: “kẻ này người
nọ đều sinh ra tại đó” (x. Tv 87, 4.5.6). Phải tất cả đều sinh ra tại đó,
ngay cả những người không biết điều ấy.
***
Phẩm
chất thứ ba của tình yêu nơi Đấng Cứu Thế là một tình yêu cá nhân. Đức Kitô đã chết “vì chúng ta”, thánh Tông Đồ nói như vậy.
Nếu chúng ta gán cho kiểu nói “vì chúng ta” một ý nghĩa tập thể mà thôi, kiểu
nói đó mất đi điều gì đó thuộc nét cao cả của nó. Sự mất tương xứng về con số
tái lập một sự tương xứng nào đó về giá trị. Thật sự Đức Giêsu là Đấng vô tội, còn
chúng ta là tội nhân, Ngài là Thiên Chúa còn chúng ta là con người; nhưng dù
sao Ngài cũng chỉ có một mình, còn chúng ta có hàng tỉ người. Nói một người chết
để cứu mạng sống của hàng tỉ người có thể xem ra ít phóng đại hơn. Nhưng không
phải như vậy. Ngài đã chết “vì chúng ta” có
nghĩa là “vì mỗi chúng ta”. Theo nghĩa phân phối, không chỉ theo nghĩa tập thể.
Ở chỗ khác, thánh Tông Đồ đã nói: “Ngài
đã yêu tôi và đã hiến mạng vì tôi” (Gl 2,10).
Thế
nên không phải một tập thể mà Ngài yêu, nhưng là từng cá nhân, từng người. Ngài
cũng đã chết vì tôi, và tôi phải kết luận là Ngài cũng sẽ chết cùng một cách thức
ấy, cho dù chỉ có mình tôi để cứu trên mặt đất này. Đây là một quả quyết thuộc
đức tin. Tình yêu của Đức Kitô là một tình yêu vô biên, vì Ngài thuộc thần linh
chứ không chỉ thuộc con người. (Đức Kitô cũng là Thiên Chúa, chúng ta đừng bao
giờ được quên điều đó, dù một phút cũng đừng!) Nhưng vô biên không do các phần
tạo nên. Nó là tất cả nơi tất cả. Hàng triệu hình thánh thể được truyền phép mỗi
ngày trong Giáo Hội, nhưng mỗi hình không chỉ chứa đựng một phần thân thể Đức
Kitô, nhưng là tất cả Đức Kitô. Cũng vậy là tình yêu của Ngài. Có hàng tỉ người,
nhưng không phải họ chia nhau mỗi người một phần nhỏ tình yêu của Ngài, nhưng
là toàn thể tình yêu này. Tất cả tình yêu của Đức Kitô ở trong tôi, và điều đó
phải gợi cho tôi niềm vui. Nhưng người anh em tôi cũng là đối tượng của tất cả
tình yêu của Đức Kitô, và điều đó phải gợi ý cho tôi kính trọng, quý mến và bác
ái với người đó.
Tôi
cũng có thể nói: “Ngài đã yêu tôi, và đã hiến mạng vì tôi!” Ngài biết tên từng
con chiên, Ngài gọi chúng “từng con một”
(x. Ga 10,3) Không có ai chỉ thuần túy là con số đối với Ngài. Những lời của
Thiên Chúa đọc thấy nơi tiên tri Isaia, vang lên mới mẻ và chân thực trên môi
miệng Đức Kitô trên thập giá: “Đừng sợ,
vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi, ngươi là của riêng
Ta […] Vì trước mắt Ta, ngươi thật
quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43,1.4) Ngươi đáng được
trân trọng, vì Ta thương mến ngươi: ở đây tất cả đều ở số ít. Những lời này êm dịu
biết bao cho người thấy mình lầm than, bất xứng, bị mọi người bỏ rơi, dù họ ít
can đảm mà tin vào điều đó.
Về
điểm này, thánh Tông Đồ kêu lên: “Phải
chăng là gian truân, khốn , đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Không,
không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35.38.39) Đấy là một khám phá có thể làm
thay đổi đời sống của một người, là tin mừng mà chúng ta không bao giờ được mỏi
mệt khi nói to cho con người ngày hôm nay. Một điều duy nhất bảo đảm và không
lay chuyển trên thế giới này, chính là Thiên Chúa yêu tương chúng ta.
***
Tôi
đã nói tiếng kêu của Đức Giêsu trên thập giá là tiếng kêu của người phụ nữ lúc
lâm bồn. Nhưng là một tiêng kêu đặc biệt của lúc lâm bồn. Cách đây ít lâu,
trong một chuyến ra nước ngoài, tôi được biết một trường hợp cảm động. Trong
lúc một thiếu phụ trẻ chờ sinh con đầu lòng, người ta khám phá ra nơi nàng một
khối u. Khi đi hóa trị ngay để làm ngưng khối u, chị được cảnh báo là chắc chắn
sẽ mất đứa con. Phải chọn lựa. Bà con cũng như dư luận thúc ép chị cứu mạng
mình, nói rằng chị sẽ có thể có những đứa con khác. Nhưng chị vẫn không lay
chuyển và từ chối chữa trị. Chị đã trở thành một trường hợp cấp quốc gia, nhiều
lần trở thành đối tượng cho báo chí và truyền hình, nhất là vì trong nước này,
người ta đang tranh luận nhiều về việc phá thai. Để tránh tò mò, người thiếu phụ
rời nước này, về ẩn nơi quê quán của cha mẹ. Ở đó, mấy ngày sau chị sinh con, một
bé gái dễ thương, nhưng chị chết một tuần sau đó.
Tôi
đã tự hỏi: một khi lớn lên, đứa trẻ sẽ cảm thấy gì khi biết điều đó? Đối với nó,
mọi sự trong đời dường như là hư vô so với những gì mẹ nó đã làm. Đôi khi chúng
ta bắt gặp những đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ thì mẹ chết. Chúng không giống với những
đứa khác. Chúng như mang một mầu nhiệm. Dường như chúng không biết cũng không
muốn biết bất cứ điều gì, nhưng thực ra, chúng rất để ý thu góp mọi kỷ niệm và
lời nói mà người ta nhắc lại về mẹ của chúng. Đối với chúng, người ta nổi bật
theo cách họ nói về mẹ của chúng. Cái chết này được ghi nơi thẳm sâu con người
của chúng. Chính từ cái chết đó mà chúng được sinh ra.
Chúng
ta hãy là em bé gái này, hãy là những thụ tạo của một người mẹ chết! Trong
Thánh lễ, linh mục đọc lời nguyện trước khi chịu lễ: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống, theo ý Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần,
Chúa đã chết để ban cho thế gian được sống (per
mortem tuam, mundum vivificasti)…” Tiếng kêu của Đức Kitô trên thập giá là
tiếng kêu của người chết để ban cho thế gian được sống.
Dùng
cách thức “một người mẹ” để giải thích sự Cứu Chuộc có một lợi điểm. Nó cho thấy
một điều gì đó mới mẻ, sáp nhập và sửa chữa một phần nhãn quan “pháp lý” dựa
trên ý tưởng về giá cứu chuộc. Trong trường hợp người mẹ chết cho con được sống,
mối dây giữa cái chết của chị và sự sống của đứa con không phải là ngoại tại,
nhưng nội tại. Nó không ở nơi một người khác – Chúa Cha – Đấng nhìn tới cái chết
này mà ban sự sống; nhưng ở nơi chính tình yêu của Đấng ban sự sống. Sự sống thực
sự phát sinh từ cái chết. “Ngài đã chết đển ban cho thế gian được sống”. Nhưng
chỉ giải thích này mà thôi cũng không đủ, nếu không có giải thích về sự “chuộc”.
Là vì đứa con trước khi ra đời, không làm gì chống lại mẹ nó, nó không phải “kẻ
thù”, cũng không “vô đạo” như chúng ta, ngược lại, chúng ta là kẻ thù, vô đạo
trước khi Đức Kitô làm cho chúng ta được sống.
***
Trước
mạc khải này về tình yêu của Đức Kitô, chúng ta đáp lại thế nào? Chúng ta đừng
vội quyết định ngay và tìm cách đáp lại. Chúng ta sẽ không có khả năng đó, hơn
nữa, đó không phải là chuyện quan trọng nhất phải làm ngày hôm nay. Có một chuyện
phải làm trước tiên, một chuyện chứng tỏ chúng ta đã hiểu: xúc động. Đừng đánh
giá thấp sự xúc động. Khi phát xuất từ tâm hồn và chính thực, xúc động là cách
đáp lại thuyết phục nhất và xứng đáng nhất có thể có, trước mạc khải về một
tình yêu lớn lao hoặc một nỗi đau buồn lớn lao. Khi xúc động, người ta trải
nghiệm về việc không còn tự chủ được nữa. Người ta mở lòng ra cho người khác.
Vì vậy người ta cảm thấy thẹn thùng về điều đó. Nhưng người ta không có quyền
che giấu xúc động của mình trước người là đối tượng. Xúc động này thuộc về người
đó, là của người đó, chính người đó đã gây ra, chính cho người đó mà nó được
dành cho. Đức Giêsu đã không che giấu xúc động trước bà góa ở Naim (x. Lc
7,13), trước các chị của Ladarô, thậm chí Ngài còn “khóc” (Ga 11,35). Chẳng lẽ chúng ta lại xấu hổ khi bày tỏ xúc cảm
của mình đối với Ngài sao?
Xúc
động để làm gì? Nó quý giá, vì giống như nhát cuốc phá vỡ lớp đất cứng, và như
vậy cho phép hạt giống chìm sâu dưới đất. Xúc động thường khởi đầu cho một sự
hoán cải đích thực và một đời sống mới. Phải chăng chính chúng ta đã không bao
giờ khóc – hoặc ít nhất muốn khóc – về cuộc Khổ nạn của Đức Kitô? Một số các
thánh đã khóc đến mù mắt vì cuộc Khổ nạn này. Có ai hỏi Phanxicô Assisi vì sao
ngài khóc nhiều, thì ngài trả lời: “Tôi khóc cho cuộc Khổ nạn của Chúa tôi”.
Kinh Thánh viết: “Chúng sẽ nhìn lên Đấng chúng đã đâm thâu […] Chúng sẽ thương tiếc như người ta tiếc con đầu
lòng” (Dc 12,10; x. Ga 19,37). Đó không chỉ là một lời tiên tri, mà còn là
một lời mời gọi, một lệnh truyền của Thiên Chúa.
Quá
đủ nước mắt khóc cho chúng ta, những giọt nước mắt giả dối khóc thương chúng
ta. Đã đến lúc đổ những giọt lệ khác. Những giọt lệ ngạc nhiên, vui mừng, biết
ơn. Những giọt lệ xúc động hơn là những giọt lệ thống hối. Đó cũng là “tái sinh bởi nước” (x. Ga 3,3.5). Khi
nghe nhắc lại cuộc Khổ nạn hoặc chính mình sửa soạn đọc bài Thương khó, thử hỏi
được bao nhiêu lần tôi đã nhớ lại câu thơ nổi tiếng của Dante, và lặp lại nó,
lòng như giận dữ về chính tôi: “Nếu tôi không khóc, trái đất khóc về cái gì[6]
?”
Phụng
vụ của Giáo Hội nêu gương cho ta. Trong Đêm Vọng Phục sinh, Giáo Hội diễn tả sự
xúc động của mình trong bài ca Exsultet:
“Ôi lòng Chúa thương chúng ta thật lạ lùng!
Ôi lòng Chúa thương yêu không thể đo lường được! Ôi tội hồng phúc, vì
cho chúng ta đáng được Đấng Cứu Chuộc thật vĩ đại”. Chiều nay, chúng ta cũng lặp
lại những lời trên đây, sau khi đã nhắc lại tiếng kêu của Đức Kitô sinh thì
trên thập giá: “Ôi tội hồng phúc, vì cho chúng ta đáng được Đấng Cứu Chuộc thật
vĩ đại”.
(Raniero Cantalamessa, Nous prêchons un Christ crucifié, EdB,
2018, pp. 129-140)
Lm
Micae Trần Đình Quảng
[1]
Basiliô Cả, Traité du Saint-Esprit,
16
[2]
x. Augustino, La Cité de Dieu,
XIV, 28.
[3]
Augustino, Confessions, X, 27.
[4] Angela Foligno
[5]
B. Pascal, Pensées, 806
[6] Dante Alighieri, L’enfer, XXXIII, 42.