XIII
“ĐẾN NHƯ CHÍNH CON MỘT,
THIÊN CHÚA CŨNG CHẲNG TIẾC”
Lời
Chúa là một quà tặng ban cho chúng ta chiều nay: một quà tặng quá lớn đến nỗi
tôi đã phải buồn bã khi nghĩ mình có thể làm nó hư hại, hoặc thậm chí sẽ không
thể tránh làm cho nó hư hại. Vì vậy, tôi muốn dự phòng cho tôi khi trao lại tức
khắc và toàn bộ món quà này. Tôi muốn xướng tên nó, đặt nó an toàn trong tâm hồn
anh chị em, trước khi tình trạng đầy đủ của nó bị phân tán do tôi cố diễn dịch
bằng những từ khác. Chúa Cha, Cha của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô!
Tôi
muốn hô lên tiếng đó bắng tấm lòng tinh tuyền và yêu mến, danh xưng “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất”
(Ep 3,14-15). Chỉ mình Đức Giêsu có thể nói về Chúa Cha. Khi Ngài nói về
Chúa Cha, mắt của các Tông Đồ mở to ra, họ như rất nhớ về Người và Philipphê đã
nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!” (Ga 14,8)
Nhưng
sao lại nói về Chúa Cha trong ngày hôm nay là ngày Đức Kitô chịu chết? Thánh
Phaolô viết: “Đức Kitô đã chết vì chúng
ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa
yêu thương chúng ta.” (Rm 5,8) Ngài còn viết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp
vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). Một lời quả quyết gây ngạc nhiên. Theo như
con người nghĩ, việc Đức Giêsu chết trên thập giá không cho thấy tình yêu của
Chúa Cha, nhưng đúng hơn là sự ác độc của Người, hoặc ít nhất sự công bình khắt
khe của Người. Thực tế sự hiểu biết về Chúa Cha như còn bị che giấu, ngay cả
nơi những tín hữu, bởi vô vàn những thiên kiến của con người. Đức Giêsu hẳn còn
có lý do để lặp lại ngày hôm nay: “Lạy
Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha!” (Ga 17,25)
Khó
khăn của việc dung hòa giữa sự tốt lành của Chúa Cha với cái chết của Đức Kitô
là do hai loạt sự kiện. Một loạt thuộc lãnh vực thần học và chính chúng ta, những
nhà thần học, những nhà giảng thuyết chịu trách nhiệm, nói rõ ra là như vậy.
Trong quá khứ, đôi khi chúng ta đưa ra một hình ảnh về mầu nhiệm Cứu Chuộc được
quan niệm ít nhiều bằng những từ như sau. Do tội lỗi, con người tích lũy một
món nợ vô hạn đối với Thiên Chúa và Ngài đòi chúng ta phải trả. Thế là Đức Kitô
Con Thiên Chúa làm người, vào cuộc, giải quyết món nợ to lớn này bằng cách đổ
máu mình ra. Rồi một khi “được đền bồi” (một thuật ngữ nguy hiểm!), “được nguôi
giận” (một thuật ngữ nguy hiểm khác), Chúa Cha tha thứ. Nhưng rõ ràng là những
hình ảnh đậm chất pháp lý lạnh lùng ấy, với thời gian, chỉ có thể làm phát sinh
một tình cảm ghê tởm thầm kín đối với Chúa Cha, Đấng ngự trên trời thản nhiên
chờ đợi cái giá trả cho mình là máu của Con mình.
Loạt
khó khăn thứ hai thuộc lãnh vực văn hóa, điển hình của thời đại chúng ta, Khoa
tâm lý học có điều kiện thuận lợi đưa ra ánh sáng tất cả những lệch lạc tác động
đến hình ảnh của người cha trong lãnh vực nhân văn: ý niệm xiển dương nam tính,
ý niệm độc đoán, ý niệm cha chú, v.v. Người ta khẳng định nơi tâm hồn mọi con
trai đều ẩn giấu một ước muốn âm thầm giết cha. Sự hoài nghi liên hệ tới người
cha dưới đất cũng tác động đến Cha trên trời. Chính như vậy mà một trào lưu văn
hóa hiện đại nghĩ là phải nhiệt tình đứng về phía Đức Giêsu chống lại Chúa Cha,
đến độ phát minh ra cái gọi là “thần học về cái chết của Thiên Chúa”. Rốt cuộc,
có thể nói nhân loại đã thực hiện được ước muốn thầm kín giết chết Chúa Cha.
***
Lý
do chính của mọi nỗi oán hận này là sự đau khổ của con người, sự kiện con người
chịu khổ còn Thiên Chúa thì không.. Một số người cho rằng người ta không thể chấp
nhận một Thiên Chúa để cho bao nhiêu trẻ em vô tội phải khổ. Và nếu người ta cố
cho họ thấy là chính Đức Giêsu cũng đã chịu khổ, họ phản bác: “Chính Ngài là bằng
chứng lớn nhất của chúng ta! Chắc chắn Ngài vô tội, tại sao Ngài đã phải chịu
khổ?” Như vậy người ta đi tới tột đỉnh lầm lạc là đặt chính Đức Giêsu chống lại Cha Ngài, như một
loại bằng chứng tố cáo trách nhiệm của Chúa Cha.
Chúng
ta phải phản ứng như một người con rất thương cha sẽ phản ứng khi thấy cha bị
xúc phạm. Chúng ta phải tái khám phá khuôn mặt thực của Chúa Cha, khuôn mặt yên
lặng và bị che phủ, và không có lúc nào đẹp hơn ngày Thứ Sáu thánh để làm việc
đó. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng: “Đến
như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy
chúng ta” (Rm 8,32). Trong Chúa nhật II mùa Chay năm B, phụng vụ của Giáo Hội
đọc đoạn này sau đoạn sách Sáng thế chương 22 nói về việc hiến tế Isaac, và có
lẽ chính thánh Tông Đồ đã có ý định đặt gần nhau hai đoạn văn trên. Nhưng đoạn
văn này nói về ai? Nói về Abraham. Quả thực Thiên Chúa đã nói với Abraham: “Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc
con của người, con một của ngươi, Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi […] Nơi ngươi mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được
chúc phúc.” (x. St 22,16-18)
Vậy
ông già Abraham lầm lũi đi sau con trai mình là Isaac, hướng về núi Moria, là
hình bóng và biểu tượng của một người cha khác. Ông là biểu tượng của Thiên
Chúa Cha đồng hành với Đức Giêsu lên đồi Canvê. Lúc ra khỏi nhà Tiệc ly, Đức
Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em để Thầy
cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy.” (Ga
16,32)
Ai
có thể tả lại được những tình cảm của Abraham khi dẫn con lên đồi nơi con sắp bị
sát tế? Origen nói rằng thời khắc nguy kịch nhất cho Abraham là lúc đang đi đường,
vì không biết mọi sự đã được chuẩn bị, Isaac thưa với cha: “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?” (St
22,7). Nó không biết lễ toàn thiêu là chính nó. Theo Origen, những tiếng “cha”,
“thưa cha” chắc chắn là những tiếng thử thách cho Abraham. Và ông đã phải mạnh
mẽ cầm mình như thế nào để không bị lộ và tháo lui! Cũng vậy khi ở vườn Ghếtsêmani
Đức Giêsu kêu lên: “Abba, Cha ơi, Cha làm
được mọi sự, xin cất chén này xa con” (Mc 14,36), ai có thể nói điều gì đã
xẩy ra trong lòng Chúa Cha? Chắc chắn Abraham muốn chết cả ngàn lần thay cho
con hơn là giết con.
Vậy
Cha trên trời và Con mình là Đức Giêsu luôn ở bên nhau trong cuộc Khổ nạn và
trên thập giá. Không chỉ bị đóng đinh vào cánh tay gỗ thập giá, Đức Giêsu còn bị
đóng đinh vào cánh tay của Chúa Cha, tức là vào ý muốn của Người. Và cũng như
trong vĩnh cửu, từ sự ôm hôn khôn tả và hồng phúc của Chúa Cha và Chúa Con mà
phát xuất Chúa Thánh Thần, là quà tặng của tình yêu hỗ tương giữa hai ngôi,
cũng vậy, hiện tại trong thời gian, từ sự ôm hôn đau buồn của Chúa Cha và Chúa
Con trên thập giá mà phát xuất Chúa Thánh Thần, là quà tặng của Chúa Cha và
Chúa Con cho ta. Gục đầu xuống, Đức Giêsu “trao
Thần Khí” (Ga 18,30).
***
Thế
nhưng chúng ta tự hỏi: có được phép nói như vậy về Chúa Cha không? Phải chăng Thiên
Chúa không phải là không thay đổi, không thể tiếp cận với đau khổ và vĩnh cửu
sao? Các Kitô hữu sơ khai dễ dàng nói về những “khổ nạn” và đau khổ nơi Thiên
Chúa. Họ bảo: “Nếu Chúa Con chịu khổ, Chúa Cha cũng cùng chịu khổ. Làm sao Chúa
Con có thể chịu khổ nếu Chúa Cha không cùng chịu khổ[1]”
“Chính Chúa Cha, Thiên Chúa của vũ trụ, giầu lòng bao dung, thương xót và nhân
từ, lại không chịu khổ một cách nào sao? Hoặc có lẽ Người không biết rằng khi
lo cho những việc của con người, Người phải chịu một cuộc khổ nạn thuộc con người?
Người chịu một khổ nạn tình yêu[2].”
Thế mà chúng ta biết rằng Origen là một trong những Giáo phụ nhiệt thành nhất
trong việc bảo vệ những đặc quyền của Thiên Chúa và sự siêu việt của Ngài.
Cuộc
Khổ nạn của Đức Kitô là sự bầy tỏ trong lịch sử và như một loại thần hiện của
cuộc Khổ nạn mầu nhiệm trong tâm hồn của Thiên Chúa. Chính cuộc Khổ nạn này đã
làm cho Người phải kêu lên trong Cựu Ước qua những kiểu nói mà bài ca “Than
trách” chúng ta cần lặp lại trong số những bài ca khác: “Dân Ta hỡi, Ta đã làm gì ngươi? Ta đã làm chi khiến ngươi phải phiền
lòng? Hãy trả lời cho Ta!” (Mk 6,3) Đáp lại câu hỏi: “Tại sao Thiên Chúa chịu
khổ?”, Người dùng những lời khởi đầu sách tiên tri Isaia trả lời cho chúng ta: “Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn
lớn, nhưng chúng phản nghịch cùng Ta.” (Is 1,2)
Chắc
chắn sự đau khổ của Thiên Chúa khác hẳn sự đau khổ của chúng ta, vì sự đau khổ
của chúng ta, trong một mức độ nào đó, mãi mãi là sự đau khổ phải chịu, bắt chịu,
trong khi sự đau khổ của Thiên Chúa là hoàn toàn tự do, không đặt lại vấn đề về
sự không thể biến chất và sự không thể thay đổi của Người. Đó là “cuộc Khổ nạn
của Đấng không phải khổ”, như định nghĩa của một Giáo phụ xưa[3].
Thiên
Chúa của Kinh Thánh là tình yêu và “trong tình yêu người ta không sống mà lại
không phải khổ[4]”.
Tuy
vậy, một lạc giáo mau chóng xuất hiện, thực tế làm sai lệch giáo thuyết về sự đồng
khổ của Thiên Chúa. Nó phủ nhận mọi phân biệt giữa Cha và Con nơi Thiên Chúa;
nói cách khác, phủ nhận Ba Ngôi. Theo những người lạc giáo này, Chúa Cha và
Chúa Con là những danh xưng khác nhau của cùng một ngôi. Vì vậy họ được gọi là
những người theo Khổ phụ thuyết, nghĩa
là những người gán cho Thiên Chúa khả năng chịu khổ. Đó là một quan niệm hoàn
toàn khác với chính thuyết, theo đó, Chúa Cha, tuy vẫn là Cha tức một ngôi
riêng biệt, tham dự vào sự đau khổ của Chúa Con, vẫn là ngôi Con. Để khỏi là lý
do gây ra sai lạc, người ta không muốn nói về sự đau khổ của Thiên Chúa nữa, vì
lẽ văn hóa mới mà trong đó Giáo Hội được mời gọi loan báo Phúc Âm, tức văn hóa
Hy lạp, không công nhận một Thiên Chúa phải chịu khổ và tiếp xúc với lịch sử.
Nhưng
với thời gian, mọi sự đang thay đổi, nhất là theo sau những kinh nghiệm mới mẻ
và đáng sợ mà nhân loại đã trái qua về sự đau khổ. Những vị chăm chút nhất
trong số các nhà thần học, nhất trí với Kinh Thánh và với các Giáo phụ xa xưa
nhất, lại bắt đầu nói về sự đau khổ của Thiên Chúa. Một trong số các ngài viết
về vấn đề này như sau: “Thế giới phải biết rằng: mạc khải của Thiên Chúa-Tình Yêu
làm đảo lộn tất cả những gì đã hình dung về thiên tính[5].”
Trong thông điệp của Đức Gioan Phaolô II về Chúa Thánh Thần[6],
người ta đọc thấy theo cùng một ý nghĩa là “trong nhân tính của Đức Giêsu Cứu
Thế, sự “đau khổ” của Thiên Chúa được thực hiện”.
***
Nhưng
đâu là lý do cuối cùng của đau khổ này? Chúng ta có nên tưởng tượng, như một số
triết gia Hy lạp, là có một Tất Yếu, một Định Mệnh mà mọi người mọi vật phải phục
tùng, ở trên chúng ta và trên ngay cả Thiên Chúa chăng? Không bao giờ! Thiên
Chúa là Thiên Chúa, không có ai cũng không có gì ở trên Ngài. Vậy lý do là từ
đâu? Có hai yêu tố cho ta biết điều đó: tình yêu của Thiên Chúa và sự tự do của
con người. Cha mẹ trần gian đã chịu đựng những lầm lỗi và vô ơn của con cái
(ngày nay điều này xẩy ra quá nhiều!) biết việc con cái khinh dể cha mẹ nói lên
điều gì. Thiên Chúa đã dự kiến cho con người một ý định lạ lùng về ân sủng.
Nhưng rồi xẩy ra tội lỗi; con người khước từ Thiên Chúa khi nói “Non serviam”, “tôi không làm tôi cho
Ngài!” Tất cả rời bỏ nhà cha, như bao nhiêu đứa con hoang. Nhưng thực tế còn đẹp
hơn trong dụ ngôn. Quả thực, trong trường hợp hiện nay, Con cả không ở yên
trong nhà cha. “Con Một trong cung lòng
Chúa Cha” (x. Ga 1,18) đã có khát vọng nồng cháy tìm thấy lại những người
con tản mác của mình, và không đợi có lệnh như: “Con hãy đi và chết cho các anh
em con”, nhưng hướng về Cha mà nói: “Chúa
đã không ưa hy lễ và hiến tế…Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10.5-7). Ý của Thiên Chúa là muốn cho mọi
người được cứu độ (x. 1Tm 2,4).
Sự
vâng phục hoàn hảo nhất là sự vâng phục đi trước lệnh truyền và vâng theo ước
muốn nhỏ mọn nhất. Sự vâng phục của Đức Kitô là như thế. Thánh Tôma viết: Thiên
Chúa đã trao nộp Con mình cho sự chết qua việc “gợi lên ý muốn chịu khổ vì
chúng ta bằng việc truyền vào đó tình yêu[7]”.
Thánh Bênađô nói: “Thiên Chúa Cha không đòi hỏi máu của Con mình, nhưng Ngài chấp
nhận lễ dâng của con – Non requisivit
Pater sanguinem Filii, sed accepit oblatum[8]”.
Chính
từ đây vọt ra mầu nhiệm mà chúng ta cử hành chiều nay, từ giữa lòng Ba Ngôi; mầu
nhiệm phát sinh từ tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta, và từ tình yêu của
Chúa Con đối với Cha của Ngài. Lúc sắp ra khỏi nhà Tiệc ly, Đức Giêsu nói: “Để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa
Cha, nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây” (x. Ga 14,31). Cho nên chúng ta có lý do
mà kêu lên qua lời của bài ca Exsultet:
“Ôi Ân tình Cha thật kỳ diệu! Ôi Ân phúc Cha thật khôn lường! Để cứu dân lầm
than nô lệ, Cha đã thí Con Một quý yêu.”
Kiểu
nói “Thiên Chúa đã không tiếc Con của mình” có nghĩa Ngài không dành riêng cho
mình người con ấy, không coi người con ấy như một kho tàng phải bo bo giữ lại.
Chúa Cha không chỉ là Đấng nhận lễ hy sinh của Con, nhưng cũng là Đấng hy sinh
ban cho chúng ta Con của mình! “Lậy Cha rất nhân từ, Cha đã yêu thương chúng
con dường nào, đã không tiếc Con Một của mình, nhưng đã trao nộp cho chúng con
là những người tội lỗi! Cha yêu thương chúng con biết bao[9]!”
Còn chúng ta, chúng ta lại tránh xa mặt Chúa, vì tưởng Chúa ghét chúng ta!
***
Nói
cho một em nhỏ biết rằng cha nó yêu nó, bạn sẽ làm cho nó thành một con người mạnh
mẽ, đầy tự tin, vui vẻ và tự do trong đời sống. Và đó chính là điều mà lời này
của Chúa muốn làm cho chúng ta: trả lại
cho ta sự tự tin này. Người ta chỉ có thể thắng nỗi cô đơn của con người trên thế
giới bằng niềm tin vào tình yêu của
Thiên Chúa là Cha. Một triết gia lớn đã viết: “Tình phụ tử củaThiên Chúa là
chuyện duy nhất không thể lay chuyển của cuộc đời, là giao điểm đòn bẩy của nó[10]”.
Hãy
quan sát một em nhỏ được cha nó dắt tay đi chơi hoặc cầm cổ tay nó mà xoay
vòng, bạn sẽ có hình ảnh của một sự hiên ngang, tự do và niềm vui. Tôi đã đọc ở
đâu đó một ngày kia một người nhào lộn đang thực tập: ông cúi xuống khoảng
không, từ lầu trên cùng của tòa nhà chọc trời, giữ thăng bằng trên gót chân, tay
ông giữ tay con ông. Khi cả hai rơi xuống đất rồi, có người hỏi đứa trẻ xem có
sợ không khi từ trên cao rơi vào khoảng không, và đứa trẻ ngạc nhiên về câu hỏi
đã trả lời: “Không, em không sợ, cha em đã nắm tay em mà”.
Tôi
lặp lại: chính như thế mà lời Chúa muốn cho chúng ta. Sau khi đã nhắc lại là
Thiên Chúa đã không tiếc chính Con Một vì ta, thánh Phaolô kêu lên một tiếng
kêu vui mừng và chiến thắng: “Có Thiên
Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Ai sẽ kết án chúng ta?
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là gian
truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử
thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta!” (x. Rm
8,31-37). Như vậy, hết còn sợ hãi, hết còn thất vọng, hết còn nhát gan! Chúa
Cha biết những điều ấy và Người yêu chúng ta, Đức Giêsu nói như thế! “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần
Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm
cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: ‘Abba! Cha ơi!” (Rm
8,15)
Trước
một tình yêu không hiểu nổi như thế, được một xung lực tự phát thúc đẩy, chúng
ta hướng về Đức Giêsu mà cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa là anh cả của chúng
con, xin hãy phán: chúng con có thể làm gì để xứng đáng, hoặc ít nhất nhận ra
biết bao nhiêu đau buồn, tình yêu hải hà?” Và từ trên thập giá, Ngài trả lời
cho chúng ta bằng hành vi chứ không bằng lời nói. Ngài bảo: “Có một điều các
con không thể làm, mà chính Ta cũng đã làm khiến cho Chúa Cha được hạnh phúc:
hãy phó thác nơi Người, hãy tin tưởng vào Người, ngược lại mọi sự, ngược lại mọi
người, ngược lại chính anh em! Khi các con sống trong tối tăm, khi các khó khăn
đe dọa bóp nghẹt các con, khiến các con sắp sửa đầu hàng, hãy trấn tĩnh lại và
kêu lên: lạy Cha, con không hiểu được Cha nữa, nhưng con tin tưởng vào Cha! Và
các con sẽ tìm lại được bình an.”
***
Trên
thế giới hôm nay có một tình trạng đau khổ đặc biệt mà lời loan báo về Chúa Cha
có thể làm giảm nhẹ. Khi mô tả sứ mệnh của Gioan, thiên thần báo tin cho
Dacaria, cha của vị Tẩy Giả, cho biết sứ mệnh của Gioan sẽ như thế nào, khi
thiên thần ám chỉ tới lời tiên tri Malaki: “Nó
sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với
cha ông” (Ml 3,24; Lc 1,17). Chúng ta cần làm mới lại việc hoán cải này. Kẻ
có tên là diabolos, kẻ phá rối, phá
ngang không chỉ làm cho dân này dân nọ chống lại nhau, giai cấp xã hội này chống
lại giai cấp xã hội nọ, phái tính này chống lại phái tính kia, đàn ông chống lại
đàn bà và đàn bà chống lại đàn ông; nó còn muốn phá rối thâm hơn nhiều: làm cho
cha mẹ chống lại con cái và con cái chống lại cha mẹ. Sự kiện này trên thế giới
gây ra đau khổ và buồn phiền biết mấy! Có bao nhiêu tội ác làm chúng ta không
nói nên lời!
Chiều
nay chúng ta tưởng niệm tình yêu thần linh của một người cha đối với một người
con và của một người con đối với một người cha! Ước gì mầu nhiệm này đem lại
cho Giáo Hội và thế giới một ơn chữa lành, lại đưa tâm hồn của những người cha
về với các người con và tâm hồn của những người con về với các người cha. Ước
gì tình yêu này làm mủi lòng những tâm hồn cứng cỏi. Tông đồ Gioan viết cho các
tín hữu thời ấy: “Hỡi các bậc phụ huynh,
tôi viết cho anh em, vì anh em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu […] Hỡi anh em là những người con thơ bé, tôi đã
viết cho anh em :anh em biết có Chúa Cha. Hỡi các bậc phụ huynh, tôi đã viết
cho anh em: anh em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.” 1Ga 2,13-14). Đến lượt
tôi lúc này, tôi nói với anh em là những người cha, tôi nói với anh em là những
người con. Phải trở về với Thiên Chúa để khỏi sa vào tay Ác thần, để tìm lại được
niềm vui là một người đàn ông, một người đàn bà, một người cha hay một người mẹ,
một con trai hay một con gái. Niềm vui hiện hữu ở đời, niềm vui được sống.
Kinh
Thánh viết là vào ngày thứ sáu của tuần lễ tạo dựng, Thiên Chúa ngắm nhìn những
gì Ngài đã làm ra và Ngài thấy “quả là rất
tốt đẹp” (St 1,31). Trong ngày Thứ Sáu thánh hôm nay là ngày thứ sáu của tuần
lễ tạo dựng mới, Thiên Chúa Cha nhìn tạo thành của Người, và thấy rằng, nhờ hy
tế của con mình, mọi sự lại “rất tốt đẹp”. Một lần nữa, “công trình của Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104,31).
Nếu
từ thế giới bệnh hoạn này vang lên tới trời bao nhiêu tiếng kêu phản loạn, bao
nhiêu lời báng bổ, bao nhiêu lời nguyền rủa, thì trong ngày rất thánh này trong
năm, chúng ta biến thành của chúng ta những lời của thánh Tông Đồ, và từ đáy
lòng, chúng ta nhân danh mọi người trên trái đất này mà thưa lên: “Chúa tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu
Kitô Chúa chúng ta” (Ep 1,3). Chúc tụng Thiên Chúa Cha! Chúc tụng Người!
(Raniero Cantalamessa, Nous prêchons un Christ crucifié, EdB,
2018, pp. 141-151)
Lm
Micae Trần Đình Quảng
[1]
Tertullianô, Adversus Praxeam,
29.
[2]
Origen, Homélie sur Ézéchiel,
6, 6.
[3]
Grêgôriô Người Làm Phép Lạ
[4]
Imitation de Jésus- Christ,
IV, VII, 33.
[5] H. de Lubac
[6]
Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Dominum
et vivificantem, số 39
[7] Tôma Aquinô, Somme Théologique, III, 47, 3.
[8]
Bênađô de Clairvaux, Contre les
erreurs d’Abélard, 8, 21.
[9] Augustinô, Confessions,
X, 43.
[10]
S.Kierkegaard, Journal, III A,
73.