XV
“ĐỨC KITÔ ĐÃ YÊU THƯƠNG HỘI THÁNH,
VÀ HIẾN MÌNH VÌ HỘI THÁNH”
“Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn
Người, tức thì máu cùng nước chảy ra.” (Ga 19,34). Suy nghĩ về những lời
trên đây, có một lúc Giáo Hội như bị một mạc khải làm cho choáng váng. Thánh
Gioan Kim Khẩu kêu lên:
“Bạn thân mến, đừng vội
đi bên rìa mầu nhiệm này, vì tôi có một cách giải thích thần bí để trình bầy
cho bạn. Máu và nước này là biểu tượng của phép rửa tội và phép Thánh Thể, từ
đó Giáo Hội đã được sinh ra. Chính từ cạnh sườn của Đức Kitô mà Giáo Hội được
hình thành, như Evà đã được hình thành từ cạnh sườn Ađam… Và cũng như Evà được
lấy ra từ cạnh sườn Ađam lúc ông đang ngủ, cũng vậy Đức Kitô đã ban máu và nước
sau khi chết. Như vậy cái chết lúc này là giấc ngủ khi ấy. Bạn hãy xem Đức Kitô
đã gắn bó với hiền thê của mình như thế nào?[1]”
Bên
Tây phương, thánh Augustinô cũng làm vọng lại những lời trên đây:
“Người đàn bà đầu tiên
hình thành từ cạnh sườn của người đàn ông đang ngủ, và bà đã được gọi là sự sống
và là mẹ của các người sống. Ở đây, Ađam thứ hai, khi gục đầu xuống, ngủ trên
thập giá, để như thế hiền thê của mình hình thành từ máu và nước vọt ra từ cạnh
sườn của mình[2].”
Tất
cả những điều đó giúp cho chúng ta thấy trong một ánh sáng mới mẻ phụng vụ
chúng ta đang cử hành. Thoạt nhìn, người ta hẳn có thể nghĩ là phụng vụ ngày Thứ
Sáu Thánh thuộc loại các thrènes, tức
những bài thán ca đọc lên khi có người
chết hoặc dựa vào một người chết; hoặc thuộc loại épinicte, qua đó người ta mừng một cuộc chiến thắng. Có điều gì đó
đúng trong cả hai cách giải thích: chúng ta khóc thương một cái chết và cử hành
một cuộc chiến thắng, vì trên thập giá, “Sư
tử xuất thân từ chi tộc Giuđa đã chiến thắng (enikèsen)” (Kh 5,5).
Tuy
vậy phụng vụ Thứ Sáu Thánh đặc biệt là một épithalame,
một bài ca hôn lễ. Trong Kinh Thánh, có một thánh vịnh mang tựa đề “Bài ca mừng
hôn lễ Quân Vương”, được sáng tác cho hôn lễ của hoàng tử và hoàng hậu, mà truyền
thống áp dụng cho Đức Kitô và Giáo Hội. Thánh vịnh mở đầu như sau: “Lòng trào dâng những lời cẩm tú, miệng ngâm thơ mừng chúc thánh quân.” (Tv 45,2) Có
lời chép về quân vương: “Giữa thế nhân,
ngài vô song tuyệt mỹ” (Tv 45,3), về hoàng hậu: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân
tộc quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời Quân Vương sủng ái” (Tv
45,11-12). Trong cả bài ca này, người ta nói về vẻ đẹp.
Tuy
vậy, trong Tân Ước cũng có một bài ca hôn lễ, cố ý viết cho tân hôn của Đức
Kitô và Giáo Hội. Đó là thư gửi tín hữu Ephêsô. Chúng ta đọc thấy như sau:
“Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh, để thánh hóa Hội
Thánh [..] để trước mặt Người có một
Hội Thánh xinh đẹp, lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết
điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền [..] Có ai ghét thân xác mình bao giờ, trái lại, người ta nuôi nấng và chăm
sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh [..] Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà
gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật
là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.” (Ep 5,25-27.29.31-32)
***
Trong
thư Ephêsô có một sự tiến triển đầy ý nghĩa khi nói về Giáo Hội, một loại nỗ lực
vào sâu hơn trong mầu nhiệm Giáo Hội. Trước hết, Giáo Hội được trình bầy như một
công trình xây dựng, như “nhà của Thiên
Chúa” có “đá tảng góc tường là chính
Đức Kitô” (Ep 2,20). Tương quan giữa Đức Giêsu và Giáo Hội được đồng hóa với
tương quan giữa nền móng và ngôi nhà được xây dựng trên đó. Trước đó trong cũng lá thư, Giáo Hội được trình bầy như Thân
Thể Đức Kitô. Người ta thấy trong đó Thiên Chúa đặt kẻ này làm tông đồ, người nọ
làm tiên tri, “để xây dựng Thân Thể Đức
Kitô” (Ep 4,11-12). Ở đây, tương quan giữa hai bên được đồng hóa với tương
quan giữa đầu và thân thể: “Chúng ta sẽ lớn
lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu.” (Ep 4,15)
Tuy
nhiên, thánh Tông Đồ dương như chưa hài lòng với những hình ảnh tòa nhà và thân
thể; ngài còn cho chúng ta một hình ảnh khác: hình ảnh hiền thê. Khi Ađam trông thấy Evà, ông đã kêu lên: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thị bởi
thịt tôi!” (St 2,23). Đó chính là điều giờ đây Đức Kitô nói về Giáo Hội của
Ngài.
Khác
nhau ở chỗ nào? Tòa nhà không phải là một “đối tác”, một người đương đối để đối
thoại. Ngay cả thân thể của chúng ta cũng không phải là một nhân vị đối diện với
tôi cách tự do, người tôi có thể yêu và có thể yêu lại tôi. Nhưng hiền thê,
chính nàng, là tất cả những cái đó. Ađam mới cũng tìm kiếm “một người đương đối” với Ngài, và đã tìm
thấy!
***
Nhưng tới giai đoạn này, để làm thành của tôi
những lời vị Giáo Phụ xưa mà tôi đã nhắc đến ở trên, tôi phải nói lại rằng: “Bạn
thân mến, đừng đi qua nhanh quá, vì tôi còn có một nhận xét khác để đề nghị với
bạn”. Quả quyết của thánh Tông Đồ “Đức
Kitô đã yêu thương Hội Thánh” hàm ý một câu hỏi; quả quyết ấy làm cho câu hỏi
này vang dội trên không, nếu có thể nói được như thế. Đức Kitô đã yêu thương
Giáo Hội: vậy bạn, bạn có yêu thương Giáo Hội không?
“Không
ai ghét thân xác mình”, nghĩa là hiền thê của mình. Đức Kitô lại càng không. Vậy
thưa bạn, sao bạn lại nói: “Yêu mến Thiên Chúa thì được, nhưng yêu thương Giáo
Hội thì không?” Tại sao bạn dễ dàng chỉ ngón tay tố cáo mẹ mình khi nói: “Chỗ
này Giáo Hội lầm, chỗ kia Giáo Hội lầm; lẽ ra Giáo Hội nên nói, lẽ ra Giáo Hội
nên làm…?” Chúa nói: “Ngươi là ai mà dám tố cáo hiền thê Ta yêu”. “Đâu là tờ ly hôn mà Ta đã viết để rẫy mẹ các
ngươi?” (Is 50,1) Thiết nghĩ lời trên đây cũng là nói cho nhiều người Kitô
hữu hôm nay: “Ở đâu nói rằng Ta đã rẫy mẹ các ngươi, rằng bà ấy không còn phải
là hiền thê của Ta nữa?”
Giáo
Hội cũng là “phiến đá thợ xây nhà loại bỏ”
(Cv 4,11 và Tv 118,22), những người thợ xây đắp văn minh trần thế hiện đại.
Giáo Hội là “hiền thê bị rẫy”, nhưng là bị con người rẫy chứ không phải Thiên
Chúa: “Thiên Chúa thì trung tín” (1Cr
1,9; 10,13; 2Cr 1,18). Có một kiểu nói tiếng Anh thích hợp để chỉ loại người
tín hữu này: unchurched Christians,
những Kitô hữu không Giáo Hội. Họ không nhận ra rằng, bằng cách này, họ không
những mất đi Giáo Hội mà còn mất đi cả Đức Kitô (trừ khi họ lấy lý do không biết
hoặc vì ý ngay). Những gì Đức Giêsu nói về hôn nhân càng có giá trị cho Đức
Kitô và Giáo Hội: “Sự gì Thiên Chúa đã phối
hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Ai
không yêu mến Giáo Hội (ít nhất một khi đã biết Giáo Hội) thì cũng không yêu mến
Đức Kitô. Thánh Cyprianô nói: “Không thể có Thiên Chúa là Cha người nào không có Giáo Hội là mẹ[3].”
Và có Giáo Hội là mẹ không chỉ có nghĩa là đã được rửa tội trong Giáo Hội, mà
còn là quý mến, kính trọng, yêu thương Giáo Hội như một người mẹ, cảm thấy liên
đới với Giáo Hội trong điều tốt nhất cũng như trong điều tệ nhất.
Từ
ngoài đường, nếu nhìn vào cửa sổ kính mầu ở các đại thánh đường cổ, người ta chỉ
thấy những ô kính mầu tối được các que chì đen gắn lại với nhau. Nhưng nếu vượt
qua ngưỡng của nhìn từ trong ra, đối diện với ánh sáng, chúng ta sẽ thấy một
khung cảnh đầy mầu sắc với những hình thể làm chúng ta phải sửng sốt. Đó chính
xác là những gì đang xẩy ra cho Giáo Hội. Bất cứ ai lấy con mắt thế gian nhìn từ
bên ngoài, thì chỉ thấy những góc cạnh tăm tối và những chuyện khó chịu, nhưng
ai lấy mắt đức tin nhìn từ bên trong và coi mình như thuộc thành phần của Giáo
Hội, sẽ thấy điều thánh Phaolô đã thấy: một tòa nhà tuyệt vời, một thân thể có
thể tạng tốt, một người vợ không tỳ ố, một “mầu nhiệm lớn”! Bất cứ ai đứng bên
ngoài nhà thờ này nhìn vào cửa sổ kính mầu nhỏ trước mắt sẽ không thấy gì đặc
biệt, mà chỉ thấy một cửa kính mờ tối; nhưng chúng ta là những người đang ở
đây, chúng ta thấy rõ ở đó một con chim bồ câu sáng láng: Chúa Thánh Thần.
***
Có
lẽ bạn sẽ nói: “Coi, Giáo Hội lộn xộn, rời rạc, có những gương mù mà ngay cả một
số Giáo Hoàng cũng đã gây ra, không phải sao?” Chắc chắn bạn nói điều đó vì bạn
suy luận theo con người, một con người xác thịt, và bạn không thể chấp nhận điều
này là Thiên Chúa bày tỏ quyền năng và tình yêu của Ngài qua sự yếu đuối. Chính
bạn không thể đạt tới chỗ vô tội, và bạn đòi hỏi điều đó nơi Giáo Hội, trong
khi Thiên Chúa đã quyết định bày tỏ vinh quang và sự toàn năng của mình qua sự
yếu đuối này và qua sự bất toàn kinh khủng này của con người, kể cả những “người
của Giáo Hội”, và chính Giáo Hội này mà Ngài đã chọn làm hiền thê, một hiền thê
tuyệt vời ở chỗ làm sáng lên nơi mình lòng thương xót của Ngài. Con Thiên Chúa
đã đến thế gian này, được Giuse dậy cho thành một thợ mộc giỏi, thu thập những
mảnh ván nhỏ có thể dùng được nhất, lỗ chỗ nhiều mắt nhất mà Ngài có thể tìm thấy,
từ đó Ngài làm ra chiếc thuyền có thể đi biển từ hai ngàn năm nay!
Tội
lỗi của Giáo Hội! Bạn có tin rằng Đức Giêsu biết rõ hơn bạn chăng? Ngài không
biết Ngài chết cho ai, cũng không biết các môn đệ lúc ấy ở đâu sao? Tuy vậy
Ngài đã yêu Giáo Hội thực tế này, không phải một Giáo Hội tưởng tượng hay lý tưởng
nào.. Ngài đã chết “để làm cho Giáo Hội
được thánh thiện và tinh tuyền”, và không phải vì Giáo Hội đã thánh thiện và
tinh tuyền. Đức Kitô đã yêu thương Giáo Hội “trong hy vọng” (x. Rm 8,24): không chỉ vì điều mà Giáo Hội “là”,
nhưng còn vì điều mà Giáo Hội “sẽ là”: đó là Giêrusalem trên trời “sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân
lang” (Kh 21,2).
Nhưng
chung quy, tại sao Giáo Hội của chúng ta lại quá nghèo nàn và chậm chạp đến vậy?
Có bao giờ chúng ta tra vấn điều đó chưa? Ông Primo Mazzorali, người không tiếc
lời khen Giáo Hội thể chế, đã viết: “Lậy Chúa, con là xác thịt ốm yếu của Chúa.
Con đè lên Chúa như thập giá nặng nề, như vai không chống lại. Vì không muốn để
con nằm dưới đất, Chúa vác đỡ gánh nặng của con và bước đi như Chúa có thể.
Trong số những người Chúa mang đỡ, luôn có người trách móc Chúa không đi theo
quy tắc và tố cáo Giáo Hội của Chúa là chậm chạp, không nhớ rằng vì chứa đầy những
chất xỉ của con người mà Giáo Hội không thể cũng không muốn vất chúng xuống biển
(đó là những con cái của mình!), mang đỡ có giá trị hơn là đến nơi.”
Chắc
chắn là Giáo Hội chậm chạp. Giáo Hội chậm chạp trong việc Phúc Âm hóa, trong
cách đáp lại những dấu chỉ thời đại, trong việc bênh vực người nghèo và vô số
chuyện khác. Nhưng bạn biết vì sao Giáo Hội chậm trễ không? Vì Giáo Hội mang
chúng ta trên vai, mà chúng ta lại đầy gánh nặng tội lỗi. Con cái tố cáo mẹ
chúng đầy nếp nhăn, nhưng những nếp nhăn này, như trường hợp thực tế của con
người, chính vì con cái mà bà phải chịu. Đức Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã
nộp mình, để Giáo Hội được “không tỳ ố” và Giáo Hội sẽ không tì ố nếu chính
chúng ta không tỳ ố. Giáo Hội hẳn sẽ ít nếp nhăn hơn nếu chúng ta đã phạm ít tội
hơn. Một hôm Érasme ở Rotterdam đã trả lời cho một trong những nhà Cải Cách
trách ông vẫn ở lại trong Giáo Hội công giáo, dù nó hư hỏng: “Tôi chịu đựng
Giáo Hội này, mong nó trở nên tốt hơn, vì Giáo Hội này cũng buộc phải chịu đựng
tôi, mong cho tôi trở nên tốt hơn.”
***
Tất
cả chúng ta đều phải xin Đức Kitô tha thứ vì bao nhiêu phán đoán khinh suất và
bao nhiêu xúc phạm đối với hiền thê của Ngài và do đó với chính Ngài. Hãy thử
nói với một người thực sự đang yêu là vợ anh xấu dáng hoặc một “người chả ra
gì”, bạn sẽ thấy bạn có thể xúc phạm anh ta nặng nề hơn chăng và bạn có thể phải
đương đầu với cơn giận của anh ta chăng.
Mọi
người chúng ta phải đặt ra cho mình một cách thức mới mẻ và ý thức hơn khi nói
Giáo Hội là gì. Nói về quê hương mình trong thời kỳ đen tối của lịch sử của nó,
Saint-Exupéry đã viết:
“Vì tôi thuộc về họ, tôi
sẽ không bao giờ chối bỏ những người của tôi, dù họ làm gì đi nữa. Tôi sẽ không
bao giờ nói chống lại họ trước mặt người khác. Nếu có thể bảo vệ họ, tôi sẽ bảo
vệ. Nếu họ làm cho tôi xấu hổ, tôi sẽ giữ chặt sự xấu hổ này trong thâm tâm và
tôi sẽ im lặng. Dù tôi có nghĩ thế nào về họ sau đó, tôi sẽ không bao giờ làm
nhân chứng truy tố. Một người chồng không đi từ nhà này sang nhà khác kể cho
hàng xóm biết vợ mình tham ăn. Anh sẽ không lấy tiếng theo kiểu đó, bởi vì vợ
anh thuộc về nhà của anh. Anh không thể nâng cao phẩm giá mình bằng cách chê
trách nàng. Một khi trở về nhà anh mới có quyền bày tỏ sự giận dữ của mình[4].”
Có
nguy cơ là người nào đó làm đúng điều bị lên án ở đây. Khi đoạn tuyệt với Giáo
Hội, ông đi từ đại học này tới đại học khác, từ báo này tới báo khác, từ hội
nghị này tới hội nghị khác, lặp lại những lời tố cáo gay gắt của mình chống lại
Giáo Hội “thể chế”, như thể Giáo Hội hoàn toàn khác với lý tưởng về Giáo Hội
ông nuôi dưỡng trong trí, tưởng rằng chống lại Giáo Hội như thế, ông cứu vãn được
danh dự của mình. Chúng ta biết thế giới biếu nhiều tiền cho những ai làm cho
Giáo Hội phải khuất phục. “Thực dễ thành công khi người ta chuyển qua phía quân
thù!” Tertullianô nói như thế về những người từ bỏ Giáo Hội để gia nhập một lạc
giáo, những người thấy mình lập tức được trao cho những chức vụ và vinh dự[5].
Người ta đưa ra những lời tố cáo chống lại Giáo Hội và các bề trên, thường chỉ
là để che giấu việc mình mất đức tin.
Vậy
mọi người cũng như lúc nào cũng phải yên lặng trong Giáo Hội sao? Không phải, Một
khi “trở về nhà” sau khi đã cùng khóc
với Giáo Hội và phục mình dưới chân Giáo Hội, Thiên Chúa có thể truyền cho bạn,
như đã truyền cho những người khác trong quá khứ, lên tiếng chống lại “những vết
thương của Giáo Hội”. Nhưng không phải trước lúc này, và bạn phải chết một cách
nào đó trong sứ mệnh nguy hiểm này.
Các
thánh cũng đã áp dụng cho Giáo Hội lời ông Gióp nói về Thiên Chúa: “Cho dù Ngài giết tôi, tôi vẫn phó thác nơi
Ngài!” (x. G 13,15)
***
Một
lời mời gọi đặc biệt cho các linh hồn tận hiến phát xuất từ những gì chúng ta
đã chiêm ngắm trong Thứ Sáu Thánh này. Những linh hồn này đã nhiệt tình theo sự
nghiệp Nước Trời. Chỉ nhờ ân sủng, họ đã cảm thấy nhu cầu về một điều gì đó uy
nghi để yêu, và họ đã tìm thấy nơi Đức Kitô. Vì vậy họ được kêu gọi trở thành dấu
chỉ hữu hình nói lên tình yêu hôn thê của Giáo Hội dành cho Đức Kitô.
Ngày
nay, người ta nói nhiều về sự nhàm chán đang thịnh hành giữa lòng đời sống tu
dòng truyền thống, về một khủng hoảng chân tính. Đó là những điểm người ta cố gắng
làm sáng tỏ trong kỳ họp Thượng Hội Đồng Giám Mục sắp tới với đề tái “Đời sống
thánh hiến và sứ mệnh của nó trong Giáo Hội và trên thế giới”. Tôi nghĩ có nhiều
cách giải thích cho sự nhàm chán này, nhưng có một cách giải thích căn bản: nơi
nhiều người trong chúng ta, tình yêu đã nguội lạnh (x. Mt 24,12), tình yêu đối
với Đức Kitô là khởi điểm sự lựa chọn của chúng ta.
Sách
Khải huyền chứa đựng một lá thư có thể được gửi cho chúng ta, những tu sĩ khác;
đó là thư gửi Giáo Hội ở
Ephêsô.
Thư viết: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi
vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi […] Nhưng
Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để
mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối
cải!” (Kh 2,2.4-5) Chúng ta cũng luôn có “những việc làm, nỗi vất vả,
lòng kiên nhẫn” (tất cả những điều quý hóa này, đừng để mất), nhưng có lẽ điều cuối cùng còn thiếu sót, đó
là linh hồn của tất cả những việc đó: tình yêu hôn thê đối với Đức Kitô. Tình
yêu cần lời cầu nguyện để sống còn, như ngọn lửa cần ôxy để cháy. “Ai có tai thì hãy nghe điều Thần Khí nói với
các Hội Thánh” và với các cộng đồng tu sĩ (x. Kh 2,7, v.v)
***
Cuối
cùng, một lời mời gọi cũng dành cho các đôi vợ chồng Kitô hữu phát xuất từ những
gì chúng ta chiêm ngắm hôm nay. Chính thánh Tông Đồ đã viết: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng […]. Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính
Đức Kitô yêu thương Hội Thánh.” (Ep 5,22.25) (Ngày nay chúng ta hẳn sẽ nói
người vợ cũng phải yêu thương chồng, chính xác như chồng đối với mình). Những
người vợ đừng có cảm tưởng mình bị nhỏ đi, như thể, qua biểu tượng này, họ được
mời gọi biểu thị Giáo Hội, trong khi những người chồng biểu thị Đức Giêsu Kitô.
Đúng hơn, họ hãy cảm thấy mình được tôn trọng vì tất cả nhân loại được biểu thị
ở đây bởi một người nữ, bởi Evà là Giáo Hội. Trên thực tế, các người chồng ở
đây cũng không được biểu thị bằng Đức Kitô nữa; họ không phải là phu quân,
nhưng là hiền thê.
Chúng
ta đang ở trong Năm Quốc Tế về Gia Đình, và Giáo Hội đang hết sức bảo về các
quyền của gia đình và cổ võ các gia đình sống thánh. Nhưng gia đình sẽ không
thánh thiện nếu gốc rễ – tương quan vợ chồng – không được tốt. Chính ở điểm này
mà mọi sự được quyết định. Nếu tương quan này bị phá vỡ, thì cũng như dây thừng
bảo đảm cho người leo núi bị đứt: tất cả những ai đang bám vào dây này đều rơi
xuống khoảng không, và trước hết là con cái.
Một
đôi vợ chồng Kitô hữu có thể học được gì nơi kiểu mẫu Đức Kitô-Giáo Hội? Một điều
trên hết. Trên thế giới có hai mẫu tình yêu: một tình yêu đại lượng và một tình
yêu đau khổ. Tình yêu đại lượng ở chỗ tặng quà cho người mình yêu; tình yêu đau
khổ ở chỗ có khả năng chịu khổ cho người đó và vì người đó. Do việc tạo dựng,
Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu đại lượng, nhưng trên thập giá,
Ngài còn yêu chúng ta bằng một tình yêu đau khổ, đòi hỏi vô cùng.
Tuy
nhiên, để chúng ta không nghĩ rằng mọi sự chỉ luôn là đau khổ, đừng quên nghững
gì chính Đức Giêsu có ngày đã nói: “Cho
thì vui hơn là nhận” (x. Cv 20,35). Vui vì khám phá thấy mọi sự trong viễn
tượng mới về tình yêu, vui vì yêu như Thiên Chúa yêu, vì biết tình yêu là phần
thưởng và niềm vui cho chính mình.
***
Trong
sách Giêrêmia, chúng ta đọc thấy một lời tuyên sấm bí nhiệm: “Đức Chúa tạo ra điều mới lạ trên mặt đất: đó
là đàn bà bao quanh đàn ông” (Gr 31,22). Nhà tiên tri muốn nói rằng, cho đến
ngày ấy, chính người chồng là Thiên Chúa đi tìm ngươi vợ bất trung đã chạy theo
các tà thần, nhưng một ngày kia sẽ trở lại không còn như thế nữa. Chính người vợ,
tức cộng đồng của giao ước, sẽ tìm kiếm chồng mình và sẽ sát vào chồng.
Ngày
ấy đã đến. Giờ đây mọi sự đều hoàn tất. Không phải vì nhân loại sẽ đột nhiên trở
nên ngoan nguỳ và trung thành, nhưng vì đã đảm nhận nó và liên kết với nó trong
một giao ước mới và vĩnh cửu. Tất cả phụng vụ Thứ Sáu Thánh cho thấy lời tiên
tri trên được thực hiện. Lời ấy đã khởi sự ở Canvê với Đức Maria ôm lấy Con
mình và hôn mặt Con vừa được đưa xuống khỏi thập giá, và giờ đây còn tiếp tục
trong Giáo Hội mà Mẹ là hình bóng và ân huệ khởi đầu.
Giáo
Hội, đi đầu là đấng kế vị thánh Phêrô, giờ đây sẽ cởi giầy ra để hôn tượng Chúa
Chịu Nạn, là Người Vợ “sát vào chồng”, ôm lấy chồng, đầy lòng biết ơn và xúc động.
Chính nàng nói như người tình trong sách Diễm ca: “Tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu; tôi vội níu lấy chàng và chẳng chịu
buông ra!” (Dc 3,4)
(Raniero
Cantalamessa, Nous prêchons un Christ
crucifié, EdB, 2018, pp. 165-176)
Lm
Micae Trần Đình Quảng
[1]
Gioan Kim Khẩu, Catéchèses baptismales,
7,17-18.
[2]
Augustinô,
Traités sur l’Evangile de Jean,
120,2.
[3]
Cyprianô, De unitate Ecclesiae,
6.
[4]
A. de Saint-Exupéry, Pilote de
guerre, p.24
[5]
Tertullianô, De la prescription
contre les hérétiques, 41, 7.