XVI
“MẦU NHIỆM THẬP GIÁ TỎA SÁNG”
Trọng
tâm của phụng vụ mà chúng ta đang cử hành là thờ lậy thánh giá bắt đầu từ nghi
thức mở khăn. Đức Thánh Cha nhận từ tay thầy phó tế thánh giá phủ khăn tím, rồi
mồi lần mở một phần khăn, mở ba lần cho tới khi thánh giá được mở hoàn toàn. Có
những lời hát long trọng đi kèm với nghi thức mở khăn này: “Ecce lignum crucis in quo salus mundi
pependit - Đây là cây gỗ thánh giá nơi treo Đấng cứu độ trần gian.”
Tôi
thấy mạc khải tiệm tiến của mầu nhiệm thánh giá qua các thế kỷ được tượng trưng
trong nghi thức cổ kính này. Mỗi lần trong ba lần mở khăn biểu thị cho một thời
kỳ hay một giai đoạn của lịch sử cứu độ: lần mở thứ nhất biểu thị cho thập giá
được tiên trưng trong Cựu Ước; lần mở thứ hai biểu thị cho thập giá được thực
hiện trong cuộc đời Đức Giêsu, “thập giá của lịch sử”; lần mở thứ ba biểu thị
cho thập giá được cử hành trong thời kỳ Giáo Hội, “thập giá của đức tin”.
Như
ta thấy, thập giá trải qua tất cả lịch sử cứu độ. Thập giá hiện diện trong Cựu
Ước như hình bóng, hiện diện trong
Tân Ước như biến cố và hiện diện
trong thời kỳ Giáo Hội như bí tích hoặc
như mầu nhiệm.
***
Gỗ
hay cây trong Cựu Ước biểu thị cái gì? Nó là cây sự sống trồng giữa vườn, cây
biết lành biết dữ, chung quanh nó hoàn tất cuộc phản loạn, con người tự phụ
chính mình quyết định về điều tốt, điều xấu. Trong sách Đệ nhị luật, gỗ tái xuất
hiện gắn liền với lời chúc dữ: “Người bị
treo lên cây là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa!” (Đnl 21,23). Nhưng người ta
cũng loan báo một vai trò tích cực cho gỗ trong những đoạn mà, dưới ánh sáng của
sự hoàn tất tương lai, sẽ được coi là những lời tiên tri về thập giá. Chính bằng
gỗ mà người ta đóng con tầu trong đó nhân loại được cứu thoát khỏi trận hồng thủy;
chính gỗ của gậy chống được ông Môsê giơ trên Biển Đỏ làm cho nước rẽ ra (x. Xh
12,11); chính nhờ một khúc gỗ mà ông làm cho nước đắng ở Mara thành nước ngọt
(x. Xh 15,23 tt).
Cây
gỗ thập giá trong cuộc đời Đức Giêsu, tức không còn phải là hình bóng, nhưng là
trong thực tại lịch sử, biểu thị điều gì? Biểu thị dụng cụ để lên án, để phá hủy
hoàn toàn con người với tư cách là con người, điểm thấp nhất của sự tự hủy. Cây
gỗ – xulon – (người ta thường gọi thập
giá như thế) là khổ hình ô nhục nhất, dành cho những nô lệ phạm những tội nặng
hơn. Cicéro nói rằng ngay cả tên của chúng cũng không được đến tai công dân
Rôma. Tất cả được trù liệu để cho khổ hình này làm mất phẩm giá phạm nhân ngần
nào có thể. Người bị kết án trước tiên phải bị đánh đòn, bị điệu tới nơi hành
hình, phải vác trên vai nếu không cả cây thập giá thì ít nhất cũng là thanh
ngang, bị lột trần và đóng đinh vào thập giá, ở đó hắn hấp hối trong những cơn
co giật và đau đớn ghê gớm, cả thân xác nặng nề của hắn đè nặng trên các vết
thương.
“Bị
đóng đinh!”: từ thời các Tông đồ, người ta không thể nghe từ này mà không thấy
toàn thân run sợ. Đối với một người Do Thái, thêm vào tất cả những chuyện đó
còn có lời chúc dữ của Thiên Chúa, bởi vì Kinh Thánh nói: “Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ!” (x. Gl 3,13)
Nhưng
thập giá biểu thị cái gì dưới ánh sáng sự phục sinh, theo mạc khải của Chúa
Thánh Thần, nhờ trung gian của các Tông đồ, vào
thời Giáo Hội? Thập giá là nơi mà “mầu
nhiệm đạo thánh được hoàn tất” (x. 1Tm 3,16), nơi mà Ađam mới đã thưa lời
xin vâng với Thiên Chúa, nhân danh mọi người cho đến mãi muôn đời; nơi mà Môsê
đích thực, nhờ cây gỗ, đã mở ra một Biển Đỏ mới và, nhờ vâng phục, đã làm cho
nước đắng của phản loạn trở thành nước ngọt của ân sủng và phép Rửa; nơi Đức
Kitô “đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền
rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta, chính Người đã trở nên đồ bị nguyền rủa”
(Gl 3,13). Thập giá là “sức mạnh và sự
khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Đó là cây mới “được trồng ở giữa quảng trường của thành” (x. Kh 22,2).
Điều
gì đã xẩy ra mang tính quyết định như thế trên thập giá biện minh cho những quả
quyết này? Xẩy ra ở đây là Thiên Chúa đã
vĩnh viễn chiến thắng sự dữ mà không cùng lúc phá hủy sự tự do gây ra sự dữ đó.
Ngài đã không phá hủy nó bằng cách dùng sự toàn năng của mình mà đánh bại nó,
cũng không bằng cách đẩy nó trở lại biên giới vương quốc của nó, nhưng bằng
cách tự mình gánh lấy những kết quả của nó trong Đức Kitô, và bằng cách dùng sự
thiện chiến thắng sự dữ, điều đó có nghĩa là: dùng tình yêu chiến thắng hận
thù, dùng vâng phục chiến thắng nổi loạn, dùng hiền lành chiến thắng bạo lực,
dùng sự thật chiến thắng dối trá. Trên thập giá, Đức Giêsu “đã thiết lập hòa bình, đã tiêu diệt nơi mình
sự thù ghét” (x. Ep 2,14-15). Đức Giêsu đã tiêu diệt sự thù ghét chứ không
phải kẻ thù; Ngài đã tiêu diệt “nơi Ngài” chứ không nơi người khác.
***
Nói
tắt, đó là mạc khải về mầu nhiệm thập giá, theo các tác phẩm của các Tông đồ. Mạc
khải còn tiếp tục dưới hình thức khác – không còn phải là Kinh Thánh, nhưng là
Truyền Thống – trong đời sống Giáo Hội. Trong một bài giảng ở thế kỷ II của một
cử hành phụng vụ như phụng vụ chúng ta, để tôn kính cuộc Khổ Nạn, một giám mục
đã dâng lên thập giá, cây sự sống mới, bài ca thần cảm sau đây:
Cây
này đối với con là một cây cứu độ vĩnh cửu;
Nhờ
cây này, con được nuôi dưỡng, được thỏa thích.
Nhờ
rễ của nó, con đâm rễ,
Và
nhờ cành của nó, con vươn ra,
Nhờ
sương của nó, con được rửa sạch,
Nhờ
Thần Khí của nó, như trước cơn gió, con được vun trồng tuyệt vời…
Cây
này là lương thực cho cơn đói của con,
Một
mạch nước cho cơn khát của con,
Một
chiếc áo cho sự trần truồng của con…
Nó
là sự bảo vệ của con khi con kính sợ Thiên Chúa,
Nó
giữ con khi con lảo đảo,
Nó
là vòng nguyệt quế khi con thắng trận.
Đối
với con nó là
“Lối hẹp và đường chật” (x. Mt 7,13-14)
Nó
là chiếc thang Giacóp
Là
con đường lên xuống của các thiên thần,
“Chúa đứng” thật bên trên (x. St 28,13)[1]”
Trước
mắt Giáo Hội, thập giá có chiều kích vũ trụ. Nó không còn là một giai đoạn của
linh sử nữa, nhưng là một biến cố làm thay đổ bộ mặt trái đất. Cũng bài ca trên
còn tiếp:
“Với những chiều kích
tuyệt vời, cây này vươn từ đất lên tới trời…Nó giữ cho mọi sự vững vàng, làm
cho mọi sự được chắn chắn. Nó là sự nâng đỡ cho vũ trụ, là dây vũ trụ bảo đảm
cho dự dính kết của yếu tính nhân loại hay thay đổi, khi gắn chặt nó lại với
nhau nhờ những chiếc đinh của Thần Khí, để một khi gắn bó với thần tính, nó
không tách khỏi thần tính nữa[2].”
Trong
Sách Nguyện, một đoạn trích từ Tử Đạo Lục thuật lại rằng trước khi giang tay
trên thập giá, thánh Anrê kính chào thập giá như sau: “Ôi thập giá, dụng cụ cứu
độ của Đấng Tối Cao! Ôi thập giá, vòng nguyệt quế của Đức Kitô chiến thắng kẻ
thù! Ôi thập giá trồng trên trái đất và sinh hoa quả trên trời! Ôi danh hiệu thập
giá tràn đầy mọi sự! Con biết mầu nhiệm của thập giá[3]!”
Nghệ thuật Kitô giáo đã góp phần vào cử hành mầu
nhiệm thập giá. Trong một số tranh khảm hậu cung, như tại Saint-Apollinaire ở
Ravenna, nổi bật lên trên nền trời đầy sao, trên tất cả bề mặt, là một cây thập
giá lớn trang hoàng bằng đá quý, với hàng chữ ở bên dưới: Salus mundi – Ơn cứu độ của thế giới.
***
Năm
569 công nguyên, hoàng đế byzantin Giustinô II gửi làm quà cho hoàng hậu
Cunégonde ở Orléans một thánh tích thập giá. Nhân dịp này, một thi sĩ Kitô
giáo, Venance Fortunat, đã sáng tác hai thánh thi trong đó ông diễn tả bằng tiếng
hát tất cả sự hiểu biết về mầu nhiệm thập giá đi theo phụng vụ của chúng ta hôm
nay. Từ ngày ấy, chúng được sử dụng liên tục qua các thế hệ Kitô hữu, để diễn tả
lòng biết ơn xúc động và nhiệt tình của họ dành cho thập giá. Nhờ sự hiệp thông
các thánh, những thánh thi này đến với chúng ta, thấm nhuần tất cả sự phong phú
của đức tin và lòng đạo đức này. Chính như thế mà Thiên Chúa lắng nghe, với phần
đệm mênh mông này, như một ca đoàn độc nhất xuyên suốt các thế kỷ.
“Vexilla regis prodeunt, fulget crucis
mysterium – cờ Vua tiến lên, mầu nhiệm rạng rỡ.” “O Crux, ave, spes unica –
Kính chào, ôi Thánh giá, nguồn hy vọng độc nhất!”
Chủ
đề thập giá, cây sự sống, trải dài từ đầu tới cuối bài thánh thánh thi thứ hai:
“Ôi
thánh giá trung thành, cây cao quý nhất trong các cây, không rừng nào sản xuất
được cây giống như thế về lá, hoa và quả.”
“Dulce lignum, dulces clavos, dulce pindus
sustinet – cây gỗ êm dịu, những chiếc đinh êm dịu nâng đỡ một sức nặng êm dịu!”
Chủ đề thập giá vũ trụ cũng không bị bỏ quên, vì thánh thi hát tiếp: “Terra, pontus, astra, mundus: quo lavantur flumine – Đất, biển,
tinh tú, thế giới, chúng được rửa sạch bởi dòng sông nào!”
Có
lúc thi sĩ nói với thập giá như với một thụ tạo sống, trong đoạn xúc động này:
“Fleste ramos arbor alta, tensa laxa
viscera… – Hãy uốn cong những cành của ngươi, hỡi cây cao, hãy làm giãn ra
các sợi của ngươi. Hãy làm cho mềm sự cứng tự nhiên của ngươi và hãy nâng đỡ
các chi thể của Vua chúng ta bằng những rầm mềm!”
***
Sự
“khám phá” ra mầu nhiệm thập giá là như thế trải qua lịch sử cứu độ. Nhưng nó phải
được đổi mới ở mỗi thời kỳ. Ngay cả ngày hôm nay, mầu nhiệm thập giá cũng phải
tỏa sáng trước mắt thế hệ chúng ta. Sự khám phá trong nghi thức cũng phải có sự
khám phá trong cuộc sống đi kèm, là sự khám phá được thực hiện trong đời sống
và tâm hồn mỗi người. Nơi cây sự sống trồng ở giữa Giêrusalem mới, người ta thấy
nó “sinh trái mười hai lần, mỗi tháng một
lần” (x. Kh 22,2). Thập giá có một mùa gặt dự trữ và một mùa hoa quả cả cho
mùa màng hiện nay của lịch sử và chúng ta phải cố gắng thu hoạch.
Tuy
vậy làm thế nào để giúp cho một xã hội như xã hội của chúng ta, một xã hội đối
lập lạc thú với thập giá ở mọi cấp độ, hiểu được mầu nhiệm thập giá; một xã hội
nghĩ rằng đã dứt khoát chuộc lại được lạc thú, đã làm cho nó thoát khỏi sự ngờ vực
không chính đáng và thoát khỏi việc lên án đè nặng lên nó; một xã hội dành những
thánh thi cho lạc thú, như trước đây đã có những thánh thi dành cho thập giá; một
văn hóa rút ra trực tiếp từ tiếng Hy Lạp hedonè
(thú vui) tên gọi là "văn hóa khoái lạc", và, than ôi!, tất cả chúng
ta đều thuộc về văn hóa đó với các mức độ khác nhau, ít nhất trong thực tế,
ngay cả khi chúng ta dùng lời lẽ lên án nó?
Chính
từ đó mà phát xuất nhiều vấn đề và sự thiếu hiểu biết giữa Giáo Hội và cái gọi
là văn hóa thế tục hôm nay. Ít nhất chúng ta thử xác định mấu chốt thực sự của
vấn đề là ở chỗ nào, để thấy nó có lẽ cấu thành một điểm xuất phát cho một cuộc
đối thoại khách quan. Điểm chung là ai nấy đều nhận thấy trong cuộc đời này,
vui thú và đau khổ nối tiếp nhau đều đặn giống như một cơn sóng vỗ trên biển nối
tiếp một sự rút ra lôi về phía sau một người đắm tầu đang cố gắng bơi vào bờ.
Vui thú và đau khổ đan xen nhau, không gỡ ra được.
Con
người tìm cách tách anh em sinh đôi người Xiêm, tách lạc thú với đau khổ một
cách tuyệt vọng. Đôi lúc họ tưởng đạt được điều ấy và trong lúc vui vẻ tột
cùng, họ quên đi mọi sự và ăn mừng chiến thắng của nó. Nhưng chỉ một lúc chóng
vánh thôi. Đau khổ vẫn còn đó, như một chất uống làm cho say, chất biến thành
thuốc độc khi bị oxy hóa. Đây không phải là một sự đau buồn khác, không lệ thuộc
hay lệ thuộc vào một lý do khác, nhưng là đau khổ phát xuất từ lạc thú. Chính lạc
thú vô trật tự biến thành đau khổ. Và điều đó, hoặc một lượt, cách bi thảm, hoặc
gần như đồng thời, vì nó không thể kéo dài và vì cái chết.
Đó
là một sự kiện mà con người tự mình có thể nhận thấy và được minh họa bằng cả
nghìn cách trong nghệ thuật và văn chương. Tính chất không thể tách biệt giữa
tình yêu và sự chết, eros và thanatos, đã từng được người ngoại giáo
Lucretius biết đến. Những “hoa đau khổ” – như thi sĩ cho chúng ta hay – vừa mới
chớm nở thì mùi của tan rã và sự chết đã tỏa bay.
***
Giáo
Hội quả quyết có câu trả lời cho bi kịch thực sự cùa cuộc sống con người. Tại
sao lại từ chối cách cắt nghĩa của Giáo Hội, ngay cả trước khi đã thực sự nghe
cắt nghĩa đó?
Đây
là cách cắt nghĩa. Từ khởi thủy, đã có một sự chọn lựa tự nguyện của con người,
có thể làm được nhờ vào bản chất hỗn hợp của họ, đưa con người đến chỗ hoàn
toàn hướng khả năng vui mừng tới những sự vật hữu hình, khả năng mà anh ta được
ban cho, để khao khát có được Thiên Chúa.
Trước
thú vui chọn lựa chống lại Thiên Chúa và chống lại lý trí, Thiên Chúa đã liên kết
đau buồn và sự chết xuyên qua chính thiên nhiên (x. St 3,16 tt). Đây là phương
thuốc chữa hơn là hình phạt, để đừng xẩy ra là, khi chiều theo tính ích kỷ quá
đáng, con người hoàn toàn hủy diệt mình, cũng đừng để xẩy ra là mỗi người hủy
diệt người lân cận. Chính như vậy mà ta thấy từ đây sự đau khổ gắn liến với lạc
thú như hình với bóng. Thế nhưng lạc thú và đau khổ không bù đắp cho nhau. Đau
khổ này không chuộc lại lạc thú, vì chính nó là kết quả của lạc thú, một phần của
cùng một biện chứng của tội lỗi.
Thập
giá Đức Kitô cuối cùng đã phá vỡ dây liên kết này. Người là Đấng “đã khước từ niềm vui dành cho mình (niềm
vui được làm theo ý riêng), mà cam chịu
khổ hình thập giá” (proposito sibi
gaudio, sustinuit crucem) (x. Dt 12,2), Ngài đã làm trái với những gì Ađam
xưa đã làm và ngày nay mỗi người còn làm. Khi làm như vậy Ngài đã đưa vào thế
giới một phẩm chất đau khổ mới; thứ đau không phải là kết quả của lạc thú hay lỗi
lầm, thứ đau khổ thuần túy xẩy ra tức khắc, nhưng là thứ đau khổ vô tội và tự
nguyện. Thánh Maximô Người Tuyên Tín, một trong những nhà tư tưởng sâu sắc nhất
của Kitô giáo, đã viết:
“Khác với cái chết của
những người khác, cái chết của Chúa không phải là món nợ được trả để đổi lấy lạc
thú, mà đúng hơn là một điều gì đó chống lại chính lạc thú. Như vậy, qua cái chết
này, Ngài đã thay đổi vận mệnh xứng đáng của con người[4].”
Nhưng
mọi sự không chấm dứt ở đây. Thập giá
chìm nghỉm trong trong chiến thắng: Đức Kitô đã phục sinh. Ngài đã mở đầu
một niềm vui mới, một phẩm chất mới của lạc thú: lạc thú này không đi trước đau
khổ như là lý do của nó, nhưng đi sau đau khổ như là kết quả của nó; lạc thú
này bắt nguồn từ thập giá và tìm được hy vọng không chấm dứt, ngay cả với cái
chết, hy vọng đời sống vĩnh cửu. Và điều này không chỉ có giá trị cho lạc thú
thuần túy thiêng liêng, nhưng cho bất cứ niềm vui lương thiện nào, kể cả niềm
vui mà đàn ông và đàn bà cảm thấy khi hiến thân cho nhau, trong việc sinh ra một
sự sống, thấy con cái mình lớn lên; điều đó cũng có giá trị cho niềm vui nghệ
thuật hay sáng tạo, vẻ đẹp, bạn hữu, công việc cuối cùng đi tới thành công; cho
bất cứ niêm vui nào.
Chỉ mình Đức Kitô có thể thật sự chuộc lại lạc
thú và niềm vui nhân loại của sự lên án đã và đang đè nặng trên họ, không những
vì tội lỗi mà còn vì bản tính là thực tại hư nát, phải chết: “Luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Kitô
Giêsu, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết.” (Rm 8,2)
Thập
giá không buộc bạn phải chối bỏ lạc thú, nhưng bắt lạc thú lụy phục ý Thiên
Chúa, tìm kiếm và sống nó trong sự vâng phục Lời Ngài và lề luật Ngài đã ban,
không phải để phá rối thú vui của con người, nhưng để giữ cho nó khỏi đau khổ
và khỏi sự chết bao gồm trong đó. Để xuyên qua những niềm vui nho nhỏ mà con
người gặp thấy trên đường, họ khao khát niềm vui không bao giờ kết thúc.
***
Ý
muốn của Thiên Chúa là “thập giá” của lạc thú. Nhưng nếu bạn còn ngã, nếu bạn
không sẵn sàng đón nhận ngay mọi ý muốn của Thiên Chúa, hãy nhớ rằng thập giá
cũng là lời hứa tha thứ và thương xót cho người sa ngã. Bạn không bị buộc phải
hao mòn trong lầm lỗi.
Trong
thế kỷ chúng ta xuất hiện một cuốn tiểu thuyết nhan đề Vụ án. Trong đó có một nhân vật, một hôm bị bắt giữ mà không ai biết
tại sao, lúc anh đang sống bình thường và hoạt động trong nghề nghiệp của mình.
Khi đó, anh ta cố hết sức tìm hiểu lý do và điểm chính của các cáo buộc, tòa
án, các thủ tục tố tụng. Nhưng không ai có thể nói cho anh ta bất cứ điều gì,
ngoại trừ việc anh ta thực sự đang bị xét xử. Cho đến một ngày, người ta đến để
đưa anh ta đi xử tử. Chính là lịch sử của nhân loại tranh đấu tới chết, có cảm
tưởng về một lầm lỗi thầm kín mà không có thể thoát khỏi.
Trong
vụ việc này, người ta được biết anh bắt gặp ba tình huống có thể xẩy ra: thật sự
được tha bổng, bề ngoài được tha bổng và hoãn xét. Tuy nhiên, bề ngoài được tha
bổng và hoãn xét sẽ không giải quyết được gì; chúng sẽ chỉ khiến cho bị cáo phải
ở trong tình trạng bấp bênh chết người trong suốt cuộc đời. Ngược lại, trong trường
hợp được thực sự tha bổng, "các biên bản vụ kiện phải được hủy bỏ hoàn
toàn, chúng không còn tròng thủ tục tố tụng nữa, không chỉ lời cáo buộc, mà cả vụ
án và thậm chí bản án bị phá hủy, mọi thứ đều bị phá hủy[5].”
Tuy nhiên người ta không biết liệu việc tha bổng thật sự này, mà anh hằng mong
muốn, đã có ngày nào xẩy ra chưa; chỉ có những tiếng nói theo nghĩa này, không
gì khác hơn là “những chuyện hoang đường rất hay”. Cũng như tất cả các tiểu
thuyết khác của tác giả, tác phẩm kết thúc thế này: có một cái gì đó mà người
ta thoáng thấy từ xa, người ta mơ tưởng, nhưng không bao giờ đạt được.
Ngày
Thứ Sáu Thánh, chúng ta có thể kêu lên với hàng triệu người có tình trạng được
người bị cáo kia minh giải: có sự tha bổng thực sự, không chỉ là chuyện hoang
đường, một sự việc tuyệt vời nhưng ngoài tầm với. Không. Đức Giêsu đã xóa “sổ nợ của chúng ta; đã hủy bỏ nó đi bằng
cách đóng đinh nó vào thập giá” (x. Cl 2,14). Ngài đã phá hủy tất cả. “Những ai ở trong Đức Kitô Giêsu, thì không
còn bị lên án nữa” (Rm 8,1). Không còn án phạt nữa! Bất cứ loại nào! Cho những
ai tin vào Đức Kitô Giêsu!
***
Như
vậy, ngày hôm nay mầu nhiệm thập giá vẫn còn tỏa sáng. Fulget crucis mysterium! Mới đây, nhân cuộc khủng hoảng hiện nay về
sự thiêng thánh, một nhà xã hội học đã viết:
“Tâm hồn của Tây phương
đã trở nên cằn cỗi. Đó là một đền chư thần, mở rộng cho hết mọi thần linh,
nhưng nghèo nàn về thiêng thánh. Tôn giáo hình thức, tôn giáo xã hội, tôn giáo
của những việc thiện không nói cho hết mọi người. Trong chiều sâu của xã hội,
người ta cần một sự tiếp xúc với thần linh. Nó làm giãn nở tâm hồn và ban sức mạnh,
niềm vui, hy vọng và một nhận thức tự hào về cuộc sống[6]”.
Đó
chính là điều mà lời rao giảng về thập giá đã tiến hành trong những ngày đầu của
Kitô giáo. Giống như một làn sóng hy vọng và niềm vui không thể kiểm soát, nó
đã đổ dồn qua tất cả những gì con người của đế chế Rôma suy tàn tìm nơi ẩn náu:
các tôn giáo huyền bí, ma thuật, thần giáo, tôn giáo mới. Người ta đã có cảm
giác về “một mùa xuân mới của thế giới”.
Việc
rao giảng về thập giá Đức Kitô có thể làm như vậy ngày hôm nay, trong “giai đoạn
lo âu” của chúng ta, miễn là chúng ta mang lại cho nó hơi thở, sự nhiệt tình,
niềm tin khi đó. Một Giáo Hội quốc gia châu Âu mới đây đã nói với một đại lý quảng
cáo để biết xem có thể trình bầy sứ điệp Phúc Âm như thế nào, vào dịp lễ Phục
Sinh. Và lời khuyên người ta được nghe là trước tiên hủy bỏ biểu tượng thập
giá, bị coi là không hợp thời và quá buồn bã! Thật là một sự thiếu hiểu biết
kinh khủng!
Việc
cần làm là cũng phải “khám phá ra” thập giá trong tâm hồn người Kitô hữu, như
điều đó đã xẩy ra trong lịch sử và trong phụng vụ, Chờ gì chúng ta cũng phải đi
từ thập giá, dấu chỉ của hình phạt và chúc dữ, tới thập giá cứu độ và tha thứ,
“niềm hy vọng duy nhất”, thập giá là lý do để tự hào. Đến độ chúng ta cảm thấy
được thúc đẩy để vui mừng kêu lên như thánh Phaolô: “Ước gì tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô!”
(Gl 6,14)
Lát
nữa đây Đức Giáo Hoàng sẽ mở rộng thập giá bên trên đầu chúng ta, và cũng là
người, trong Năm Thánh 2000, sẽ vượt qua cửa thánh, mang thập giá Đức Kitô trước
ngài, là biểu tượng của Giáo Hội, một Giáo Hội hết năm này đến năm khác, hết thế
kỷ này đến thế kỷ khác, hết thiên niên kỷ này đến thiên niên kỷ khác, chuyển đạt
nguyên vẹn cho thế giới điều cao quý nhất mình nắm giữ: mầu nhiệm thập giá Đức
Giêsu Kitô. Quả vậy, trong ngày hôm nay mầu nhiệm thập giá tỏa sáng: Fulget crucis mysterium!
(Raniero
Cantalamessa, Nous prêchons un Christ
crucifié, EdB, 2018, pp. 177-189)
Lm Micae Trần Đình Quảng
[1]
Homélies pascales, 51, in Sources
chrétiennes, n0 27, p. 177-178.
[2]
Ibid.
[3]
Actes d’André, dans
Lipsius-Bonnet, Acta Apostolorum
Apocrypha, II, p. 54 tt.
[4]
Maximô Người Tuyên Tín, Capitoli vari, IV, cent. 39; in Philocalia, 2 Torino,
1983, p. 249.
[5]
F. Kafka, Le Procès
[6] F. Alberoni, trong Il Corriere della sera 27 mars 1996, tr.1.