XX
“NGƯỜI ĐÃ BAN CON MÌNH
ĐỂ CỨU VỚT TÔI TỚ CỦA NGƯỜI”
Trong
năm đi liền ngay trước Năm Thánh 2000 này, thể theo ý Đức Thánh Cha, chúng ta
suy niệm về Chúa Cha. Vậy chính về Ngôi này mà chúng ta muốn nói.
Có
mối liên hệ nào giữa Ngôi Cha và phụng vụ Thứ Sáu Thánh? Thứ Sáu Thánh đúng hơn
lại không phải là chứng cớ buộc tội Chúa Cha, một biến cố mà người ta nên im tiếng
khi nói về Người sao? Chúng ta phải thừa nhận rằng mặc dù đây không phải là ý định
của phụng vụ, thì trong quá khứ, ngày hôm nay rất thường góp phần làm lu mờ
hình ảnh của Thiên Chúa Cha. Để nhấn mạnh những đau khổ của Đức Giêsu trên thập
giá, người ta đã trình bầy một hình ảnh về Chúa Cha chỉ có thể gợi ra điều ghê
sợ.
Thứ
Sáu Thánh năm 1662, trong một bài giảng ở triều đình vua nước Pháp, J.B.
Bossuet, một trong những nhà giảng thuyết đại tài nhất của lịch sử, đã nói với
Đức Giêsu như sau: “Bị con người hành hạ lần cuối, Chúa nhờ vòng tay của Chúa Cha
che chở; và Chúa thấy mình bị đẩy ra, thấy rằng chính Chúa Cha bức hại Chúa, chính
Chúa Cha bỏ rơi Chúa, chính Chúa Cha đã đè lên Chúa gánh nặng không chịu nổi của
việc Người báo thù[1]."
Phụng
vụ hôm nay là dịp thuận tiện để chấm dứt tình trạng thực tế này và để phá tan mọi
điều nghi ngờ đã là lý do gây nên tình trạng ấy.
***
Cho
tới thời gian gần đây, người ta thường coi Chúa Thánh Thần là Đấng ít được biết
đến nhất trong Ba Ngôi. Ngày nay chúng ta không thể nói như vậy nữa. Trong suốt
thế kỷ vừa qua, Chúa Thánh Thần buộc Giáo Hội phải chú ý đến Người. Khoa Thánh
Thần học được canh tân, nhất là lễ Ngũ Tuần, dựa vào kinh nghiệm của hàng trăm
triệu tín hữu trong các Giáo Hội Kitô. Chúng ta phải nói rằng ngày nay Ngôi ít
được biết đến nhất là Chúa Cha. Không những không được biết đến mà còn bị người
ta chối từ!
Những
lý do khiến bộ mặt của Thiên Chúa Cha lu mờ đi trong văn hóa hiện đại thì có
nhiều. Tự nền tảng, con người đòi hỏi một sự tự trị tuyệt đối. Vì Thiên Chúa
Cha được coi là nguyên lý và nguồn mạch mọi quyền bính, thì chỉ còn việc là từ
chối Người, và người ta đã làm như vậy. Marx nói: “Cội rễ của con người là
chính con người[2]”.
Tiếp theo là Sartre: “Nếu Thiên Chúa hiện hữu, con người không là gì cả[3].”
Đó chỉ là một vài tiếng nói gióng lên trong thế giới Tây phương của chúng ta
trong hai thế kỷ vừa qua.
Freud
nghĩ là có thể đưa ra một lời biện minh tâm lý học cho sự khước từ này. Theo
ông, việc tôn kính cha trên trời chỉ là một sự phóng chiếu mặc cảm về người cha
đưa đứa con đến chỗ lý tưởng hóa cha mình ở dưới đất sau khi đã muốn giết ông.
Nhân
nói về thời kỳ trước mạc khải Phúc Âm, một tác giả ở thế kỷ thứ hai đã viết:
“Vô tri về Chúa Cha là lý do khiến người ta lo âu và sợ hãi[4].”
Ngày nay cũng giống như vậy: vô tri về Chúa Cha luôn là nguồn gốc của lo âu và
sợ hãi. Nếu ngươi cha lo về tinh thần và vật chất trên mọi bình diện, “gốc rễ
cuối cùng của hữu thể”, thì không có ông, chúng ta chỉ có thể cảm thấy mình “bị
bật rễ”.
***
Vậy
đưa ra ánh sáng lại khuôn mặt thật của Thiên Chúa Cha là việc cấp thiết. Không
nên mất nhiều thời gian về điều này, trong khi phải mất hàng năm để xóa đi lớp
hoen ố phủ trên hình ảnh của Chúa Cha trong nhà nguyện Sistine. Chỉ cần một ngọn
đèn, một sự soi sáng bên trong tâm hồn, một mạc khải của Thần Khí, là đủ. Bởi
vì khuôn mặt thật của Chúa Cha mãi mãi được ghi lại trong Kinh Thánh. Khuôn mặt
ấy chứa đựng trong lời này: “Thiên Chúa là Tình Yêu!” Danh xưng “Thiên Chúa”,
khi không có xác định gì thêm, trong Tân Ước luôn có nghĩa là Thiên Chúa Cha. Vậy
Thiên Chúa Cha là tình yêu. “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), có nghĩa là: Thiên Chúa Cha yêu thế gian.
“Tại
sao Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta?” Nhờ học giáo lý, chúng ta biết cách
trả lời: “Để nhận biết Người, phục vụ Người và yêu mến Người trong cuộc đời này
và một ngày kia vui hưởng với Người trên thiên đàng”. Đó là một câu trả lời
hoàn hảo, nhưng nếu xét kỹ, ta thấy nó chỉ đáp lại câu hỏi: “Với mục đích nào,
vì ý định nào Người đã dựng nên ta?” (Để phục vụ Người, yêu mến Người, vui hưởng
với Người), nhưng không đáp lại câu hỏi: “Vì lý do nào Người đã dựng nên ta, điều
gì đã thúc đẩy Người dựng nên ta?” Chúng ta không thể và không được trả lời: “Để
chúng ta yêu Người” nhưng: “Vì Người đã yêu chúng ta”. Một trong những Kinh
Nguyện Thánh Thể nói: “Người đã lấy thượng trí và tình thương mà sáng tạo muôn
loài[5].”
Chính
ở đó mà có sự khác biệt giữa Thiên Chúa của các triết gia và Thiên Chúa của
Phúc Âm. Thiên Chúa của các triết gia là Đấng người ta có thể yêu, người ta phải
yêu, nhưng là Đấng không yêu, không thể yêu con người, vì nếu Người làm thế, Người
không còn là Thiên Chúa. Aristot viết: “Thiên Chúa vận hành thế giới với tư
cách Đấng được yêu”, chứ không với tư cách Đấng yêu. Điều đó quả là ngược lại với
những gì chúng ta thấy trong mạc khải: “Không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta. […]
Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương,
vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.” (1Ga 4,10.19)
Chính
đó là bộ mặt thực của Kitô giáo. Clive Staples Lewis, một văn sĩ Kitô giáo
trong số những người nổi bật nhất trong thế giới anglo-saxon, đã viết một cuốn tiểu thuyết tựa đề “Chiến thuật của quỷ[6]”,
có cốt truyện hơi đặc biệt. Một tên quỷ trẻ (Wormwood) được sai đến trần gian để
cám dỗ một thanh niên tốt lành mới trở lại đạo. Nhưng vì ít kinh nghiệm, nó phải
tìm đến một tên quỷ già (Screwtape) là chú nó, ông này cho nó những chỉ dẫn để
có thể cám dỗ người thanh niên kia. (Đây là một khảo luận vô cùng tinh tế về
các tật xấu và nhân đức, nếu người ta biết cách đọc ngược lại). Tác giả đưa ta
xuống hỏa ngục, và cho chúng ta nghe những diễn từ ở đó. Điều làm cho quỷ tức
điên lên, chúng không hiểu và sẽ không bao giờ hiểu được, chính là tình yêu của
Thiên Chúa đối với các thụ tạo lầm than là con người. Chúng nói với nhau: trên
trần gian người ta tin rằng Thiên Chúa Ba Ngôi, và những điều khác thuộc cùng
loại đó, là những mầu nhiệm vĩ đại nhất; những tên ngu xuẩn ấy không hiểu rằng
chính đó là mầu nhiệm không cắt nghĩa được. Phần tôi, tôi nghĩ rằng các tên quỷ
được một lần có lý.
***
Giờ
đây chúng ta hãy xem vấn nạn đang mạnh hơn lên như cơn bão, khi người ta nói về
tình yêu của Chúa Cha. “Thế còn sự đau khổ của thế giới thì sao? Máu và nước mắt
chảy thành sông trong Lịch sử thì sao?”
Vấn
nạn này mang một giọng điệu mới, sau Thế chiến vừa qua và sau Auschwitz. Cả một
văn chương phát sinh mà người ta có thể định nghĩa như là “những tiến trình của
Thiên Chúa”. Thiên Chúa ở đâu vào lúc đó? Biết bao nhiêu lần người ta nghe thấy
câu hỏi này trong tiểu thuyết và kịch nghệ, trong khoảng năm mươi năm vừa qua.
Hình
thức phủ nhận Thiên Chúa trong chủ thuyết duy thực nghiệm ngôn ngữ của thế kỷ
này phát xuất từ đó. Nếu người ta không cáo giác câu “Thiên Chúa là tình yêu”
khi người ta nhận thấy sự đau khổ ghê gớm trên thế giới này, điều đó muốn nói
lên rằng sự đau khổ đó không có ý nghĩa nào và người ta phải giữ im lặng. Để
xem xét tính xác thực của một khẳng định, phải có khả năng "làm sai lệch"
nó, ít nhất về nguyên tắc, nghĩa là khả năng chứng minh sự thật hay sự dối trá của
nó, bằng một quan sát thực nghiệm, là điều không có ở đây[7].
Nhưng
đây không phải là tiếng nói phản đối gióng lên từ triết học hay văn chương, hoặc
nhân dịp có những đại họa. Chính là tất cả nhân loại ở mọi nơi trên thế giới
lên tiếng mỗi ngày về sự đau khổ của mình. Mới đây tôi được đọc chứng từ của một
thiếu phụ trẻ. Cô nói: “Lạy Chúa, tại sao Ngài lên án con phải chết? (Người ta
vừa khám phá ra cô mắc căn bệnh chết người). Con có chồng, sau mười năm kết hôn
vẫn yêu thương con, nói cho con biết điều đó, và con còn có hai đứa con tuyệt vời.
Tại sao con không được trông thấy chúng lớn lên?” Vì là một phụ nữ có đức tin,
cô lập tức nghĩ lại và nói thêm một câu bằng một giọng khác: “Lạy Chúa, con biết
rằng không phải chúng con có thể quyết định sống chết theo ý chúng con, rằng
người ta không đánh giá sự thành công của cuộc đời bằng tháng năm sống. Nhưng nếu
Chúa muốn tất cả điều đó đi từ đầu tới trái tim, khi ấy chính Chúa phải tự làm
lấy. Chúng con sẽ không làm đâu.”
***
Đức
tin trên ghế bị cáo sẽ trả lời ra sao cho điều đó? Tôi cho rằng trước đau khổ,
người tín hữu chúng ta phải tiên vàn có một thái độ khiêm nhường. Đừng bắt chước
những người bạn của Gióp, cuối cùng, bị chính Thiên Chúa lên án, trong khi họ
đã coi mình là người bảo vệ ông. Chúng ta không phổ biến những cách giải thích
khôn ngoan như thể sự đau khổ không che giấu mầu nhiệm nào đối với chúng ta.
Chúng ta phải nói về đau khổ như Augustinô đã nói về chính Thiên Chúa: “Nếu bạn
nghĩ là đã hiểu Ngài, khi ấy bạn hãy tự nhủ rằng không phải Ngài mà bạn đã hiểu[8].”
Đức
Giêsu đã đưa ra nhiều cách giải thích về đề tài hơn chúng ta, Ngài đã khóc trước
bà góa thành Naim cũng như trước đau khổ của các chị Ladarô. Sau khi khóc rồi,
Ngài còn thêm: “Thầy là sự sống lại và là
sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống.” (Ga 11,25)
Chúng
ta cũng phải vậy, sau khi khóc rồi, hoặc trong nước mắt, chúng ta có thể nói
lên một vài điều về đau khổ. Chẳng hạn điều gì? Điều không đúng là khi con người
đau khổ thì Thiên Chúa không đau khổ, mà chỉ nhìn. Thiên Chúa cũng khổ như ta.
Không phải chúng ta vừa tìm ra câu quả quyết khác thường ấy, chỉ để có điều gì
đó trả lời cho con người thời nay. Điều đó đã được ghi chép trong Kinh Thánh, từ
đầu tới cuối. “Ta đã nuôi nấng đàn con,
cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta.” (Is 1,2) Các
người cha trong thế gian từng có kinh nghiệm đau đớn bị con cái ruồng bỏ và
khinh chê đều hiểu được nỗi khổ chất chứa trong những lời ấy của Thiên Chúa.
Chúng ta sắp còn được nghe nhiều lần trong phụng vụ chiều nay: “Dân Ta hỡi, Ta đã làm gì ngươi? Ta đã làm
chi khiến ngươi phiền lòng? Hãy trả lời cho Ta.” (Mk 6,3) Những lời trên
cũng diễn tả một nỗi đau khổ.
Thiên
Chúa không đau buồn vì những điều xúc phạm đến Ngài (ai có thể thực sự làm điều
xấu cho Ngài?) cho bằng những điều xúc phạm con người làm cho mình hay cho người
khác. Không phải sự kiêu hãnh của Ngài bị tổn thương cho bằng tình yêu của
Ngài. Kinh Thánh viết: “Thiên Chúa không
làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong.” (Kn 1,13) Không những
Ngài “không vui” mà còn đau khổ vì
sinh mạng tiêu vong. Nếu khẳng định Thiên Chúa đau khổ dường như chúng ta chưa
từng nghe thấy và vẫn khiến một số người hơi sợ hãi, thì đó là vì trong nhiều
thế kỷ, ý tưởng về Thiên Chúa thường thấy trong thực tế đã chuyển sang ý tưởng
của triết học về một Thiên Chúa vô cảm ở bên trên và bên ngoài những thay đổi
và thử thách của con người.
Thế
nhưng Thiên Chúa của người Kitô hữu không thể “vô cảm” theo nghĩa như các triết
gia hiểu. Ngài không thể như thế vì Ngài là tình yêu. Như chúng ta biết, tình
yêu là điều dễ bị tổn thương nhất. Nó bị tổn thương vì sự tự do nó dành cho người
được yêu. “Người ta không thể yêu mà không đau khổ” : câu châm ngôn này có giá
trị cho cả Thiên Chúa lẫn con người. Origen nói: “Chúa Cha chịu một cuộc khổ nạn
vì yêu[9].”
Sự
đau khổ này của Thiên Chúa, mà những nhà thần học lớn của thế kỷ này đã chấp nhận
và chính Đức Giáo Hoàng, trong thông điệp Dominum
et vivificantem, đã coi là của mình, với những sắc thái cần thiết, chính là
một sự tái khám phá. Đức Giáo Hoàng nói về “sự đau đớn khôn dò và khôn tả của
Chúa Cha”, Đấng đã khai sinh ra nhiệm cục
tình yêu cứu độ trong Đức Giêsu Kitô[10].”
Hiển nhiên là sự đau khổ của Thiên Chúa không giống như sự đau khổ của chúng
ta. Đó là sự đau khổ hoàn toàn tự do, không đi ngược với những hoàn hảo của
Ngài, trái lại, tôn dương những hoàn hảo ấy. Theo một Giáo Phụ, đó là “cuộc khổ
nạn của người không phải khổ[11]”.
Đó thuần túy là “đồng khổ”.
Trong
tất cả phụng vụ vượt qua, hình ảnh Chúa Cha gần gũi nhất với kiểu mẫu này là
hình ảnh của bài Exultet trong đêm Vọng Phục Sinh: “Ôi! Ân tình Cha thật kỳ diệu!
Ôi! Ân phúc Cha thật khôn lường. Để cứu dân lầm than nô lệ, Cha đã thí Con Một
quý yêu!”
Vậy
trước câu hỏi: “Chúa Cha ở đâu trên đồi Canvê, khi Chúa Con hấp hối?” phải trả
lời: Người vẫn ở bên Con trên thập giá. Lòng đạo đức bình dân và nghệ thuật đã
tìm thấy câu trả lời từ lâu trước các nhà thần học. Từ thời Trung cổ đến nay, từ
các nơi trong thế giới Tây phương, cách diễn đạt cổ điển về Ba Ngôi là như sau:
Thiên Chúa Cha giang tay đỡ thập giá của Chúa Con, hoặc đón nhận Chúa Con trong
lòng với một sự trìu mến vô biên ngay khi Con được tháo khỏi thập giá, và giữa
hai vị là bồ câu của Chúa Thánh Thần. Trong thế giới byzantin, Ba Ngôi chính là ba thiên thần vây quanh chiếc bàn; trong
thế giới latinh, là ba ngôi vị trên đồi Canvê. Có vô số cách diễn đạt thuộc loại
hình này, từ đơn giản nhất đến phổ biến nhất, bao gồm cả những kiệt tác vĩ đại
như "Ba Ngôi" của Massaccio trong bích họa ở nhà thờ Santa Maria Novella ở Firenze.
Nhưng
ở điểm này, một vấn nạn nổi lên, nguy hiểm hơn, dưới một hình thức khác. Khi
đó, ngay cả Thiên Chúa cũng bất lực khi đương đầu với sự dữ sao? Chúng ta tuyên
xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha”, nhưng dừng lại ở
đó, không thêm những chữ “toàn năng”. Chính sự dữ là toàn năng, chứ không phải
Thiên Chúa. Chúng ta trở lại với niềm
tin ngoại đạo cổ thời là, bên trên thiên tính đó, còn có Định Mệnh cai trị, tức
Anankè nghiệt ngã, tính tất yếu của mọi
sự. Đó là điều Satan muốn cho người ta tin, nhưng lại là điều dối trá.
Luận
chứng rất thường được thời Thượng cổ đưa ra cho tới hôm nay là: “Hoặc Thiên Chúa
có thể chiến thắng sự dữ, nhưng Ngài
không muốn, như vậy Ngài không phải
là cha; hoặc Thiên Chúa muốn chiến thắng
sự dữ, nhưng Ngài không thể, như vậy
Ngài không toàn năng. Chúng ta trả lời như sau: Thiên Chúa muốn chiến thắng sự
dữ, Ngài có thể chiến thắng, Ngài sẽ chiến thắng. Sự dữ thể lý cũng như sự dữ
luân lý. Nhưng Ngài làm điều đó theo một cách chúng ta không bao giờ hình dung
nổi. (Hãy dành thời giờ để hiểu cho rõ, bởi vì tôi cho rằng đó thực sự là lời
khẳng định nhờ đó chúng ta sẽ tiếp cận nhất với khẳng định mà người ta có thể gọi
là câu Kitô giáo trả lời cho vấn nạn về sự dữ). Thiên Chúa đã chọn cách chiến
thắng, không phải bằng cách tránh né nó hoặc dùng sự toàn năng của mình đánh
tan nó và đẩy nó ra khỏi biên giới Vương quốc của mình, nhưng bằng cách mang nó
trên mình và biến nó từ bên trong thành điều lành; biến hận thù thành tình yêu,
biến bạo lực thành hiền hòa, biến bất công thành công bình, biến lo âu thành hy
vọng. Người đã làm điều Người truyền chúng ta làm, khi Người nói trong Kinh Thánh:
“Đừng để cho sự ác thắng được mình, những
hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rm 12,29)
Đó
là điều đã xẩy ra trên thập giá. Các Giáo Phụ đã dùng một biểu tượng tuyệt vời
để diễn tả tất cả những điều đó: Môsê đã biến nước đắng ở Mara thành nước ngọt
(x. Is 15,23 tt). Đức Giêsu đã uống nước đắng của phản loạn và biến nó thành nước
ngọt của ân sủng, tượng trưng bằng nước vọt ra từ cạnh sườn Ngài. Ngài đã mang
trên mình chữ “Không” vĩ đại của thế gian đối với Thiên Chúa, biến nó thành chữ
“Có” của con cái.
Ngay
cả như vậy, câu trả lời của chúng ta cũng không đầy đủ, nó còn thiếu chữ sống lại!
Nếu Thiên Chúa Cha “chịu đựng” tất cả những đau khổ này, chính vì Ngài biết
mình sẽ làm gì “ngày thứ ba”. Trên thập giá, Chúa Cha nóng lòng với việc con
người hoàn tất phần của họ, để bắt đầu phần của mình: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm
Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2,36) “Chính
vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn
ngàn danh hiệu.” (Pl 2,9)
Thay
vì là một bằng chứng truy tố, Thứ Sáu Thánh là nơi mặc khải trọn vẹn Chúa Cha,
Khuôn mặt thực của Chúa Cha, hoặc chúng ta hiểu biết ngày hôm nay, hoặc sẽ
không bao giờ hiếu biết được.
Điều
này không có nghĩa là chúng ta rao giảng một sự nhẫn nhục thụ động trước sự dữ
trên thế giới, hoặc rút lui khỏi cuộc chiến đấu. Mang trên mình sự dữ của thế
giới đôi khi có thể có nghĩa là mang trên mình cuộc chiến đầu chống lại sự dữ của
thế giới và mất mạng sống mình như Đức Giêsu. Một trong những nhiệm vụ của Năm
Thánh 2000 là tưởng nhớ đến các vị tử đạo mới. Họ chính là bằng chứng cho thấy
có thể chiến thắng sự dữ bằng sự lành và, ngay cả ngày hôm nay, cho thấy đó là
sự chiến thắng đích thực.
***
Chúng
ta học được gì nơi những điều rút ra từ bài suy niệm về Chúa Cha trong ngày Thứ
Sáu Thánh? Bài suy niệm này gắn trực tiếp với Năm Thánh sắp tới. Năm thánh phải
là một cơ hội lớn hòa giải nhân loại với Chúa Cha. Khởi thủy, một năm thánh là
dịp trả đất đai về cho chủ nhân hợp pháp của nó (x. Lv 25,13). Hôm nay, chúng
ta hãy biến năm thánh này thành dịp trả thụ tạo về cho Đấng tạo ra nó.
Năm
nay chúng ta không rao giảng một Thiên Chúa giận dữ và đánh phạt thế gian không
biết bằng hình phạt nào nữa. Có thừa những hình ảnh dễ tranh cãi về Đức Mẹ đang
cố gắng vô ích giữ lại cánh tay của Thiên Chúa đang nổi giận! Dù không muốn,
chúng cũng góp phần làm mờ đi hình ảnh của Chúa Cha và làm thiệt hại cho Đức
Trinh Nữ, Đấng mà, trong kinh Magnificat,
đã là người đầu tiên ca ngợi lòng nhân từ của Thiên Chúa. Có thừa những lạm dụng
nhân danh “bí mật thứ ba của Fatima” do những tâm trí cuồng nhiệt làm cho những
người chất phác phải sợ hãi. Không ai biết bí mật này, nhưng ai cũng làm như
mình biết rõ điều bí mật chứa đựng.
Có
một thời để rao giảng hình phạt, và một thời để rao giảng lòng thương xót. Năm
Thánh là thời để rao giảng lòng thương xót. Như điều Đức Giêsu công bố, nó phải
là “một năm hồng ân của Thiên Chúa”
(Lc 4,19). Như Đức Thánh Cha nói với các linh mục trong Lễ Dầu, “Năm Thánh mời
gọi mọi người chúng ta, những thừa tác viên thánh, hoàn toàn sẵn sàng cho quà tặng
lòng thương xót mà Chúa Cha muốn ban phát dồi dào cho hết thảy mọi người[12].”
***
Năm
kính Chúa Cha cũng có thể có một trận mưa hồng phúc trên bình diện con người.
Nó có thể giúp “đưa tâm hồn cha ông trở lại
với con cháu, và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3,24; x. Lc
1,17) như trường hợp xẩy ra trong mùa vọng đầu tiên, qua sự trung gian của
Gioan Tẩy Giả. Nếu Thiên Chúa Cha, Đấng “là
nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3.14), thì khi đó những người
cha ở trần gian có thể học với Ngài nghề làm cha đầy khó khăn: nhẫn nại, tôn trọng
sự tự do của con cái, hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vui mừng với một thành công
nhỏ nhất.
Khi
một người được biết đứa con đầu lòng của mình được sinh ra, ông vui mừng báo tin
cho bạn bè: “Tôi làm cha rồi đó!” Người ta chỉ có thể nói những lời trên trong
ý nghĩa sâu sắc nhất sau này trong đời sống, khi cho thấy mình đã phải lo lắng
nhiều, nhẫn nại nhiều, quảng đại nhiều, sau khi đã tập chịu đau khổ vì các con.
Đúng vậy, chỉ khi đó người ta mới có thể có lý mà nói: “Tôi làm cha rồi đó!”.
Thiên Chúa đã trở thành trọn vẹn là Cha của chúng ta trên thập giá.
Điều
này càng đúng đối với những người cha thiêng liêng. Nhiều linh mục thích sống
giữa dân mình “như một người anh em giữa các người anh em”. Đơn giản hơn nhưng
lại ít dấn thân hơn. Người dân cần những người cha, họ tìm kiếm mà tuyệt vọng.
Và khi tìm được một người như thế, họ tạ ơn Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nói trong
bài giảng tôi trích dẫn ở trên: “Trong năm dành kính Chúa Cha, tư cách làm cha
của mọi linh mục phải hiển nhiên.”
Chúng
ta kết thúc bắng lời kinh.
Lạy
Cha giầu lòng thương xót và là Chúa mọi niềm an ủi, chúng con nài xin Cha: Cha
là Đấng đã đỡ cánh tay Đức Kitô của Cha trên thập giá, đã đón nhận Ngài khi
Ngài được tháo đinh, đã cho Ngài sống lại ngày thứ ba, xin ở gần bên tất cả những
ai đang đau khổ. Xin đón nhận những nạn nhân chiến cuộc trong bình an của Cha,
xin nâng đỡ hy vọng của những ai đang sống sót, xin canh tân sức mạnh của những
người cứu giúp họ và sự bền bỉ của những người trung gian, xin đừng để chúng
con thua điều ác, những giúp chúng con biết thắng điều ác bằng điều lành. Nhờ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
(Raniero
Cantalamessa, Nous prêchons un Christ
crucifié, EdB, 2018, pp. 227-239)
Lm
Micae Trần Đình Quảng
[1]
x. J.B. Bossuet, Oeuvres complètes, IV, Paris 1836, p.365.
[2]
K. Marx, Critique de la
philosophie du droit de Hégel, Aubier Montaigne, Paris 1992.
[3] J.P. Sartre, Le Diable et le bon Dieu, X, 4, Folio Paris 2000.
[4]
Evangelium veritatis 17, 10.
[5]
Kinh Nguyện Thánh Thể IV
[6]
C.S. Lewis, Le tactique du diable,
Empreinte Temps Présent, Paris, 2007, titre original: The Screwtape Letters.
[7]
X. A. Flew, Theology and
Falsification (1949) in Reason and Responsibility, Belmont, CA, Dickenson
Publishing Company, 1968, p. 48-49.
[8]
Augustinô, Sermo 52, “si cepisti, non est Deus quod comprehendere
potuisti”.
[9]
Origen, Homélie sur Ezéchiel,
6, 6.
[10] Gioan Phaolô II, Lettre Encyclique Dominum et vivificantem, n. 39.
[11] Grêgoriô Thaumaturge, À Théopompe, in Pitra, Analecta sacra,
IV, 1883, p. 363.
[12] Gioan-Phaolô II, Homélie de la Messe Chrismale, trong “Osservatore Romano”, 2 tháng
4, 1999, tr. 1.