XXI
“THẾ LÀ ĐÃ HOÀN TẤT”
Một
tin tức chúng ta vừa mới biết: một nhóm nhà nghiên cứu khoa học người Mỹ đã thiết
lập xong bản đồ gen của con người. Họ đã tập hợp tất cả các đoạn DNA cấu thành
nền tảng di truyền của con người, nghĩa là hai tỷ chữ cái – được gọi là bộ gen –
tạo nên bảng chữ cái hóa học viết về lịch sử của mỗi con người đi vào thế giới.
Những
nhà nghiên cứu này viết: "Khoa học đã khám phá ra chương trình nền tảng của
cuộc sống con người, mã số trên hết, Chén Thánh (Saint Graal)[*], mô hình cơ bản
của homo sapiens. Cuối cùng chúng ta sẽ biết con người có ý nghĩa gì.” Và họ
viết tiếp: “Sau hàng triệu đô la chi phí và hàng triệu giờ làm việc, bức màn được
vén lên cho thấy những gì con cái chúng ta, khi nhìn lại, sẽ chỉ định là thế kỷ
của bộ gen[1]."
Tin
tức trên trúng vào một lãnh vực đã được chờ đợi quá lâu, được quan tâm quá mức
đối với những tin tức được nhắc đi nhắc lại trong lĩnh vực đạo đức sinh học và
làm tăng cảm giác lan tỏa rằng người ta đang ở vào một bước ngoặt trong quá
trình tiến hóa của loài người, trong đường thẳng cuối cùng trước khi xuất hiện những
cột mốc mới không ngờ.
Chính
trong bối cảnh này mà chúng ta cử hành trong năm nay cuộc Khổ Nạn của Chúa, cuộc
Vượt Qua của Đại Năm Thánh, cuộc Vượt Qua đầu tiên của thiên niên kỷ. Từ 2000
năm nay, cử hành này đương đầu với những biến cố và tình hình của giai đoạn. Nó
đã không bao giờ từ chối đương đầu. Lần này nó cũng không từ chối. Một thi sĩ
tín hữu đã viết:
“Đức Giêsu đã không để lại
cho chúng ta những lời chết mà chúng ta cất giấu trong những chiếc hộp nhỏ (hay
lớn), mà chúng ta phải bảo quản trong dầu hôi. […] Những lời hằng sống chỉ có
thể được giữ cho sống. […] Chính chúng ta, những người yếu nhược, có nhiệm vụ
làm cho sống, nuôi dưỡng và giữ cho sống động trong thời gian những lời đã được
nói ra này. […] Chúng ta được kêu gọi nuôi dưỡng lời của Con Thiên Chúa. Làm
cho lời đó được nghe qua các thế kỷ là nhiệm vụ của chúng ta, tùy thuộc vào
chúng ta[2].”
Những
nghi thức và bản văn của Thứ Sáu Thánh lặp đi lặp lại không thay đổi từ năm này
qua năm khác, nhưng chúng sẽ không bao giờ giống như “đóng hộp”, vì chúng là
môi trường sinh sống trong đó lời Thiên Chúa được giữ cho sống động.
***
Trong
tình hình chúng ta vừa gợi ra, Mầu Nhiệm chúng ta cử hành nói lên điều gì cho
ta? Để khám phá ra nó, chúng ta hãy trở lại với lời đã nghe. “Nhắp giấm xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã
hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.” (Ga 19,30)
“Thế là đã hoàn tất!” Lời này đủ làm sáng
tỏ tất cả mầu nhiệm trên đồi Canvê. Điều gì đã được hoàn tất? Trước hết là cuộc
đời trần gian của Đức Giêsu, công trình mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài thực
hiện (x. Ga 4,34; 5,36; 17,4). “Người vẫn
yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến
cùng.” (Ga 13,1) “Đến cùng”, tiếng hylạp là teleos, là từ được Đức Giêsu lặp lại khi Ngài kêu lơn tiếng: Teletestai, “Thế là đã hoàn tất”. Bằng chứng cuối cùng của tình Ngài yêu thương
đi tới chỗ chấm dứt.
Kinh
Thánh đã hoàn tất như thế. Kinh Thánh về Người Tôi Trung chịu đau khổ, về con
chiên vượt qua, về người vô tội bị đâm thâu, về đền thờ mới mà Edêkien đã thấy,
về bên phải đền thờ từ đó một dòng nước hằng sống chảy ra (x. Ed 47,1 tt).
Nhưng không chỉ có đoạn này đoạn kia của Kinh Thánh được hoàn tất, nhưng là tất
cả Cựu Ước, trong toàn bộ, được hoàn tất. Không theo cách phân tích, nhưng theo
cách tổng hợp, trong bản chất. Khi sinh thì, Con Chiên mở cuốn sách niêm bẩy ấn
(x. Kh 5,1 tt) và mạc khải ý nghĩa cuối cùng của chương trình của Thiên Chúa.
Đó là trang khi mở ra thì soi sáng mọi sự, giống như trang lớn có minh họa
trong Sách Lễ, ở đầu Lễ Quy. Đó là trang lấp lánh phủ mầu đỏ, trang lớn phân
chia hai Giao Ước. Mọi cửa đều đồng loạt mở ra, mọi đối kháng tan biến, mọi mâu
thuẫn được giải quyết[3].”
Để
đưa mọi sự đến chỗ hoàn tất, Đức Kitô làm một cuộc cải thiện, Ngài phải làm một
bước nhảy vể phẩm chất. Cũng xẩy ra như vậy trong việc truyền phép Thánh Thể: từ
giờ phút này, bánh không còn là bánh nữa, nhưng trở thành một sự gì đó khác.
Ngay cả khế ước cũ, từ lúc này của cái chết của Đức Kitô, đã trở nên “giao ước
mới và vĩnh cửu”; văn tự trở thành Thần Khí[4]”.
“Điều
mới thế cho điều cũ
Ân
sủng thế cho lề luật
Thực
tại thế cho hình ảnh
Con
Thiên Chúa thế cho con chiên
Thiên
Chúa thế cho con người[5].”
***
Thế
nhưng không chỉ có điều đó được hoàn tất. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô nằm
trong lịch sử Israel, nhưng vượt qua nó, mở rộng nó quá độ. Nó không chỉ làm thỏa
mãn những trông đợi của một dân tộc mà thôi, nhưng qua những trông đợi này, còn
làm thỏa mãn những trông đợi của mọi dân tộc và mọi người.
Khi
muốn mình không lệ thuộc vào Thiên Chúa, chính con người bị giam hãm trong thù
ghét và sự chết. Họ ở trong một tình huống mà tình yêu của Chúa Cha không thể
cư ngụ nơi họ. Chính vì muốn bắt gặp họ trong tình huống này mà Thiên Chúa đã
làm người. Ngài chịu những đau khổ ghê gớm và chết bằng một cái chết dữ dội, để
từ ngày hôm nay đau khổ và sự chết của mỗi người đểu có tình yêu của Chúa Cha ở
đó. Nhiều người đã chết trước và sau Đức Kitô, nhưng chưa ai làm cho cái chết của
mình gắn bó sâu xa với tình yêu của Chúa Cha bằng Ngài.
Bằng
lễ dâng tình yêu hiếu thảo và ưng thuận dịu dàng này, Ngài đã biến ý nghĩa của
cái chết thành sự sống thực. Như vậy, lễ dâng ấy trở thành một nhịp cầu, không
còn có thể là một vực thẳm nữa. Khi sa vào trong tội và sự chết, con người vẫn tìm
thấy ở đó – ngay cả ở đó – Đấng đã tạo dựng ra mình ta chờ đợi mình. Khi đó
chúng ta hiểu bài thánh thi Phaolô ca ngợi tình yêu chiến thắng của Thiên Chúa:
“cho dầu là sự chét hay sự sống, thiên thần
hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bấ cứ sức mạnh nào, trời cao
hay vực thẳm, hay bất cứ một loại thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện
nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8,38-39)
Đức
Kitô đã thiết lập xong một “bản đồ” khác: bản đồ về số phận con người! Philatô
đã nói lên một sự thật quan trọng mà không biết, khi ông chỉ vào Đức Giêsu mà
nói: “Ecce homo!” (Đây là người).
Từ
số phận con người, Đức Giêsu đã không chỉ khám phá hai vực thẳm của tội lỗi và
sự chết, mà cả vực thẳm của thất bại, phá sản. Ngày Thứ Sáu của hoàn tất hôm
nay, Calvê trông giống như một chiếc bục trên đó người ta chia nhau hạ màn sau
một thất bại vang dội. Tiếng kèn shofar sắp
loan báo bắt đầu ngày nghỉ lễ. Dước cái nhìn của người mẹ, Giuse Arimathia và
các người của ông vội vã tháo đanh Đức Giêsu, xức dầu thơm thân thể Ngài, quấn
trong khăn liệm, đặt trong băng ca, biến đi trong đêm tối, có các phụ nữ khóc
lóc theo sau. Đồi núi trống trơn và lại trở nên yên lặng, như các bàn thờ của mọi
nhà thờ chiều nay cũng sẽ như vậy.
Phần
đầu của phụng vụ Thứ Sáu Thánh kết thúc như vậy. Thế nhưng kể từ ngày mà thất bại
lớn nhất của Lịch sử biến thành chiến thắng đẹp đẽ nhất, tinh tuyền nhất, được
mọi người biết đến nhất, chính dấu chỉ của thất bại đã thay đổi. Nó có thể là
nơi ưu đãi để người ta khám phá ra ý nghĩa đích thực của sự sống, sự cao cả
đích thực của con người và nhất là tình yêu của Chúa Cha dành cho những người
bé mọn và nghèo khó. Ngỏ lời với các người trẻ ở chân núi Bát Phúc trong cuộc
hành hương đến Thánh Địa, Đức Giáo Hoàng nói: “Đức Giêsu tôn dương những người
mà thế gian nói chung coi là yếu đuối. Ngài nói với họ: “Phúc cho anh em là những
người dường như thua vì anh em là những người thực sự thắng[6].”
***
Không
có mâu thuẫn nào giữa hai bản đồ, bản đồ của các nhà khoa học và bản đồ của Đức
Kitô. Cả hai đưa về hai tầng khác nhau của cùng một tòa nhà. Bản đồ này không
vô hiệu hóa bản đồ kia. Người tín hữu chỉ có thể vui mừng với mọi người về mọi
khám phá hứa hẹn một sự cải thiện điều kiện sống trên mặt đất. Đó là điều Thiên
Chúa muốn nói khi Ngài tuyên bố: “Hãy
sinh sôi nẩy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất.” (x. St
1,28) Hãy thống trị, hãy đào luyện thế giới và chính các ngươi. Ta là Đấng tự hữu,
là Hữu Thể tự tạo nên Ta, và Ta muốn các ngươi cũng tham dự vào địa vị của Ta,
đào luyện, hoàn thiện – với trí khôn Ta đã ban cho các ngươi – bản tính riêng của
các ngươi, trong sự kính trọng ý muốn của Ta và tôn kính danh Ta. Chính đó là ý
nghĩa của câu “theo hình ảnh Ta và giống
Ta”.
Tuy
vậy, chúng ta không thể đắm chìm trong hưng phấn. Những khám phá mới đây trong
lãnh vực sự sống con người dường như hàm hồ, mở cửa cho những phát triển mâu
thuẫn. Chúng mở ra cho những khả thể mới để biết nguyên nhân của nhiều bệnh và
cảnh báo những bệnh này; nhưng đồng thời
chúng cũng đặt ra nhiều vấn nạn luân lý đáng lo ngại mà ngay cả những
tín đồ nhiệt thành nhất của khoa học cũng không thể giấu giếm. Con người sẽ
không từ bỏ dễ dàng coi mình như Thiên Chúa và tự mình quyết định mọi sự: ai được
quyền sinh ra và ai không được quyền sinh ra, mầu tóc của đứa bé tương lai,
chưa nói đến cái khác. Người ta đã chứng kiến trường hợp những người bị đuổi việc
hoặc bị từ chối gia hạn bảo hiểm nhân thọ vì người ta đã khám phá ra rằng,
trong gen của họ, có một gen có thể làm phát triển một bệnh nặng. Đó chỉ là những
triệu chứng đầu tiên của những gì sẽ có thể xẩy ra một ngày nào đó. Nếu chúng
ta bỏ qua những bất đồng của quá khứ, chúng ta cũng bỏ qua những nguy hiểm của
hiện tại. Chúng ta cho rằng lần này nhân loại có đủ khôn ngoan để quản lý tốt
các khám phá của mình. Con người biết những nguyên nhân của bệnh tật và cảnh
báo trước, họ biết những quy luật sinh vật học và biến chúng thành có lợi cho họ…Nhưng
rồi sao nữa? Tất cả những điều đó có đủ để được hạnh phúc không? Tại sao có bao
nhiêu vụ tự tử nơi những người có mọi sự, những người khỏe mạnh, đẹp đẽ, giầu
sang? Ai sẽ có thể ngăn cản hai bóng ma của “nhàm chán” và “nôn mửa”, mà những
người có văn hóa đều biết, ngày một đi vào nhiều hơn trong thế giới? Người xưa
ghi nhận một lời thật ngu ngốc: propter
vitam rationes perdere vivendi, nghĩa là vì yêu sự sống mà đánh mất lý do sống.
“Sống tốt có ích gì, nếu không được sống vĩnh cửu[7]?”
***
Bằng
cuộc đời, sự chết và sự sống lại, Đức Kitô đã khám phá ra ý nghĩa cuối cùng của
mọi cuộc sống con người. Ngài đã khám phá không phải trong phòng thí nghiệm hay
với những công thức của bàn giấy, nhưng bằng cách sống nó, thực hiện nó. Và đây
là ý nghĩa cuối cùng: đón nhận nơi mình tình yêu của Chúa Cha, như Đức Giêsu đã
đón nhận và làm cho tình yêu này lưu chuyển trên thế giới, khi hiến dâng mình
cho các anh em của mình.
Thưa
các cha, các anh, các chị: tôi muốn kêu lên với các anh chị em điều tôi đã kêu
lên trước hết cho chính tôi: những biện pháp nửa vời là quá đủ rồi! Đừng mất thời
gian nữa. Hãy kiên trì nhận rõ mục đích cái chết của Đức Kitô. Hãy sống sao cho
cuối cùng chính chúng ta cũng có thể nói: “Thế
là đã hoàn tất”. Hãy chấp nhận đau khổ. Đó là cửa duy nhất để vào trong thập
giá Đức Kitô và đừng đứng ở ngoài như khán giả. Những con đường khác – nghệ thuật,
thần học, lý trí, tình cảm – chỉ cho phép chúng ta quan sát từ của sổ tầu lặn
cuộc sống diễn ra dưới đáy biển. Điều ấy không liên hệ gì đến việc dìm mình vào
bên trong, dự phần vào…
Một
kết luận khác rút ra từ tất cả những điều đó: chúng ta không thể từ chối Đức
Kitô, không thể lấy đi khỏi Ngài bất cứ phần nào của nhân loại, quá khứ, hiện tại
hay tương lai. Chỉ là chúng ta không có quyền làm như thế. Chúng ta không thể
ngưng loan báo Tin Mừng cho mọi thụ tạo. “Đức
Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời!”
(Dt 13,8)
Điều
chúng ta phải từ bỏ, không phải là loan báo thập giá, nhưng có thể là một số
cách thức xấu mà quá khứ đã phải làm điều đó. Trình bầy bản thân cho thế giới như
những người chịu đóng đinh, chứ không phải như những khách qua đường. Không một
ai, ngay cả có một niềm tin khác, có thể cảm thấy mình bị Đức Giêsu đe dọa, khi
Ngài được loan báo như Gioan Phaolô II đã loan báo, dưới mắt toàn thể thế giới,
trong tuần lễ từ 20 đến 26 tháng 3 Năm Thánh, trên chính những nơi mà Ngài đã sống
và đã chết.
Đôi
khi không cần nói gì, chỉ cần hiện diện, đau khổ và yêu thương, rất tôn trọng
những người chưa tin. Hình thức chủ yếu tuyệt vời của việc Phúc Âm hóa là giúp
cho tình yêu mà Đức Kitô đã đem đến cho thế gian được lưu chuyển. Bằng hành vi
hơn là bằng lời nói.
Điều
này đúng trước hết đối với người Do Thái. Chúng ta đã đánh mất quyền được công
khai loan báo Phúc Âm cho họ. Chúng ta chỉ còn cách để cho Đức Kitô đi một mình
trong tâm hồn của dân tộc Ngài. Nhưng từ bỏ ngay cả mong ước dân Do Thái nhận
ra Đức Giêsu chính là “Vinh quang của
Israel dân Ngài”, và cầu nguyện cho điều đó, thì hẳn là chúng ta không yêu
mến cả Đức Giêsu lẫn người Do Thái.
***
Trong
những câu truyện ngắn của văn sĩ Franz Kafka, người Séc, có một câu truyện tựa
đề “Một sứ điệp của nhà vua”. Sứ điệp bắt đầu thế này: “Người ta nói, từ giường
chết, đức vua đã gửi một sứ điệp cho bạn, đặc biệt cho bạn, một thần dân đáng
thương ở một nơi heo hút nhất. Ông bảo người đưa tin quỳ xuống bên cạnh giường
và nói thầm sứ điệp vào tai anh ta; ông coi trọng nội dung sứ điệp đến độ ông bắt
anh lặp lại nó cho mình nghe. Sau đó, ông gật đầu xác nhận sứ điệp là chính
xác, rồi để người đưa tin ra đi.”
Phần
tiếp của câu truyện thật cay đắng và bi quan, giống như tất cả những gì người
ta thấy qua ngòi bút của văn sĩ này. Người đưa tin cố tìm đường ra khỏi pháo
đài nhưng vô ích, vì đông người chen chúc và rác rưởi ngổn ngang. Câu truyện kết
thúc bằng một suy nghĩ về người nhận tin nhắn vô danh. Ông ta từ xa vẫn “ngồi tựa
cửa sổ và mong tin trong lúc chiều buông[8]”.
Chờ đợi một sứ điệp, cuối cùng, là tất cả những gì còn lại của câu truyện.
Tôi
không thể đọc câu truyện này mà không thấy ở đó một biểu tượng mạnh mẽ cho mầu
nhiệm chúng ta đang cử hành. Đức Kitô là ông vua đang hấp hối, Phúc Âm là sứ điệp
của Ngài, các tông đồ là các người đưa tin, và người ngồi bên của sổ là nhân loại
đang mơ đến một sứ điệp như sứ điệp của Đức Giêsu Kitô.
Một
trong những người này đã ngồi bên của sổ từ 80 năm, mới đây đã cho người ta
nghe thấy tiếng kêu của mình: “Tôi đã luôn tìm kiếm Thiên Chúa mà không bao giờ
tìm thấy. Tôi đã luôn tìm kiếm vì tôi tin rằng đức tin có thể đem lại một sức mạnh
khác thường. Thế nhưng tôi không cảm thấy mình chịu trách nhiệm hay có lỗi vì
đã không có sức mạnh này. Và nếu tìm thấy Thiên Chúa, tôi sẽ hỏi Ngài: “Tại sao
Chúa đã không ban đức tin cho tôi?”[9].”
Tôi
muốn trả lời cho con người này cũng như cho biết bao nhiêu người khác có cùng
hoàn cảnh tương tự: có lẽ Thiên Chúa đã không ban đức tin cho ông để thanh tẩy
đức tin của người phải loan báo Ngài cho ông, và để người đó cảm thấy có trách
nhiệm và phải cấp bách làm điều đó. Tuy vậy ông biết những gì mà những người như
Augustinô và Pascal, những người đã đặt ra cùng một câu hỏi với Chúa, đã được
nghe trả lời: “Bạn sẽ không tìm tôi nếu bạn đã không tìm thấy tôi[10]".
“Nếu tôi đã không tìm thấy bạn!"
Mong muốn mà không tin có thể biểu lộ một đức tin thuần khiết hơn là tin mà
không mong muốn, coi mọi sự là đã thành.
Chớ
gì tiếng kêu mà chúng ta đã nghe chiều nay nối kết tất cả nhân loại đang chờ đợi
này, nhờ vào những trung gian mầu nhiệm mà
chỉ có Thần Khí biết: “Thế là đã
hoàn tất.” Tetelestai. Consummatum est.
(Raniero
Cantalamessa, Nous prêchons un Christ
crucifié, EdB, 2018, pp. 213-225)
Lm
Micae Trần Đình Quảng
------------------
[*Cuộc tìm kiếm Chén
Thánh (Saint Graal) thời Trung cổ có một ý nghĩa hiện đại cụ thể: mô tả một mục
tiêu khó đạt được, nhưng sẽ mang lại kiến thức mới cho thế giới hoặc cho phép một
ứng dụng gốc về chủ đề này. Do đó, trong vật lý, người ta coi lý thuyết thống
nhất vĩ đại (lý thuyết về mọi sự) là "Chén Thánh của các nhà vật lý".
Tương tự như vậy, hiểu được cơ chế qua đó các gen kiểm soát diện mạo các cơ
quan sẽ là “Chén Thánh của các nhà di truyền học” - Wikipedia francais].
[1]
S. Begley, Decoding the human body,
in “Newsweek” 10/4/2000.
[2]
C. Péguy, Le porche du mystère de
la deuxième vertu, in Oeuvres poétiques complètes, Paris 1975, tr. 588 tt.
[3]
P. Claudel, Le poète et la Bible,
Gallimard, Paris 1998, p. 729.
[4]
x. H. de Lubac, Exégèse médiéval,
I, I, Paris 1959, p. 318-328
[5] Mêlitô Sarđê, Sur la Paque, 7, in Sources chrétiennes 23, p, 64
[6] “L’Osservatore Romano”, 25.3.2000, p.5.
[7]
Augustinô, Traités sur l’Évangile
de Jean, 45, 2.
[8]
F, Kafka, Eine kaiserliche
Botschaft, trad. fr. In F. Kafka, Raconti, Feltrinelli, Milano 1972, p. 146
s. Le titre francais de l’article est “Un message de l’empereur”
[9] Interview de Indro Montanelli, in “Il
Gazzettino”, thứ bẩy
22.1.2000. p. 11
[10]
B. Pascal, Pensées, 553, ed.
Bruschwig ; x. Augustinô, Discours,
34, 2.5 (CCL 41, p. 424. 426) (“Quid
eligimus, nisi prius eligantur?”, “Non
potestis amare me, nisi habueritis me”); Bênađô de Claivaux, Traité de l’amour de Dieu, 22 (“Nemo
quaerere te valet, nisi qui prius invenerit”).