XXII
“GIỜ ĐÂY THỦ LÃNH THẾ GIAN NÀY
SẮP BỊ TỐNG RA NGOÀI”
Thánh
sử Luca kết thúc trình thuật về việc Đức Giêsu bị cám dỗ như sau: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ
bỏ đi, chờ đợi thời cơ.” (Lc 4,13) Thời cơ này là lúc nào, thì chính Đức
Kitô đã cho ta thấy khi Ngài nói vào lúc sắp xẩy ra cuộc Khổ Nạn: “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian
này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài.” (Ga 12,31)
Đó
là cách giải thích nhất trí của các tác giả Tân Ước về cái chết của Đức Kitô.
Thư Do thái nói Đức Kitô “nhờ cái chết của
Người, đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ.” (Dt 2,14)
Chắc
chắn cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô không thu gọn vào việc chiến thắng Satan. Nó có
ý nghĩa rộng hơn nhiều và tích cực; Ngài phải chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga
11,52). Tuy vậy, người ta khiến cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô trở thành tầm thường
nếu làm mất đi khía cạnh chiến thắng ma quỷ, ngoài chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Cuộc
chiến đấu này còn tiếp tục sau Đức Kitô, trong thân thể Ngài. Sách Khải huyền
nói rằng, sau khi bị Đức Kitô đánh bại, con Mãng Xà “nổi giận với người Phụ Nữ, đi giao chiến với những người còn lại trong
dòng dõi bà” (Kh 12,17). Vì vậy Tông Đồ Phêrô khuyên các tín hữu: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma
quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thé, rảo quanh tìm mồi cắn xé.”
(1Pr 5,8)
Tất
cả những điều trên đây làm cho cuộc sống của người Kitô hữu, xưa cũng như nay,
có tính chất của một cuộc chiến đấu nguy hiểm, một cuộc chiến đấu “không phải với phàm nhân, nhưng với những
quyền lực thần thiêng…, những thần linh
quái ác chốn trời cao” (Ep 6,12). Nghi thức rửa tội phản ánh rõ điều này
qua những câu hỏi trước nghi thức để triệt để lựa chọn chiến tuyến: “Con có từ bỏ Satan không?” “Con có tin Đức
Kitô không?”
Vậy
chẳng lẽ không có gì thay đổi với cái chết của Đức Kitô sao? Tất cả đều như trước
sao? Hoàn toàn ngược lại! Quyền lực của Satan không còn có thể tự do hoạt động
theo chiều hướng nó mong muốn. Nó nghĩ là hành động theo một mục tiêu rõ ràng,
nhưng chính xác chỉ có được điều ngược lại; nó không chủ tâm phục vụ cho sự
nghiệp của Đức Kitô và các thánh của Ngài. Nó là thứ “quyền lực luôn muốn điều
xấu nhưng lại làm điều tốt[1].”
Thiên
Chúa dùng hành động của ma quỷ để giúp cho các người Chúa chọn được thanh tẩy
và khiêm tốn. “Và để tôi khỏi tự cao tư đại
vì những mạc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm
đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi.” (2Cr 12,7). Một bài
thánh ca của ngươi da đen (negro spiritual) diễn tả điều này bằng một giọng điệu
nhẹ nhàng nhưng đúng về phương diện thần học: “Tên Satan ngày xưa đã bị đánh bại,
nó ở trong tình trạng ốm yếu. Nó đã bắn tôi để giết linh hồn tôi. Nhưng nó đã
nhầm mục tiêu và đánh trúng tội lỗi của tôi.”
***
Tuy
nhiên kể từ đây mọi sự nói trên đã chấm dứt. Sự im lặng đã xuống trên Satan ;
cuộc tranh đấu không còn đối tượng là “máu và thịt” nữa, tức là những sự dữ ở
trong tầm tay của con người. Người sáng tạo ra thuyết giải thần thiêng hóa đã
viết: “Người ta không thể sử dụng ánh sáng điện và máy thu thanh, người ta
không thể sử dụng nại tới các phương tiện y tế và lâm sàng trong trường hợp bị
bệnh, mà đồng thời còn tin vào thế giới các thần linh[2].”
Sẽ không ai hài lòng như ma quỷ bị giải thần thiêng hóa, nếu đúng là – như người
ta thường nói – "mánh khóe lớn nhất của nó là làm cho người ta tin rằng nó
không hiện hữu".
Con
người hiện nay thực sự dị ứng với luận chứng này. Cuối cùng họ đã chấp nhận một
lời giải thích trấn an. Ma quỷ ư? Đó là toàn bộ những sự dữ luân lý của con người.
Ma quỷ chỉ là sự hóa thân tượng trưng, một huyền thoại, một con bù nhìn dọa
chim. Là sự vô thức tập thể hoặc vong thân tập thể.
Khi
Đức Phaolô VI đã dám nhắc lại cho các Kitô hữu “chân lý công giáo” là có ma quỷ
(có lần ngài nói sự dữ không chỉ là một sự sự thiếu hụt, mà còn là một hiệu quả,
một sinh vật sống, thiêng liêng, biến thái và làm cho người ta biến thái. Một
thực tại đáng sợ, mầu nhiệm, làm cho người ta phải kinh hãi[3]”),
một bộ phận văn hóa đã phản ứng, cảm thấy bị vấp phạm, vò đầu bứt tóc.
Câu
chuyện tương tự xẩy ra mới đây khi một Giám mục lại kêu gọi người ta chú ý đến
điểm này của đức tin Kitô giáo. “Phải chăng chúng ta đã quên rằng trong quá khứ
người ta đã dùng ma quỷ để bách hại các mụ phù thủy, những người lạc giáo và những
người khác tương tự như vậy?” Không, chúng ta đã không quên chuyện đó; nhưng nhằm
mục đích này hay những mục đích khác cùng loại, người ta đã sử dụng – thật
không may là ngay cả ngày hôm nay – Thiên Chúa thậm chí còn hơn cả ma quỷ. Phải
chăng vì vậy mà chúng ta gạt bỏ Ngài?
Thậm
chí nhiều tín hữu và một số thần học gia cảm thấy e ngại: Vâng, nhưng có lẽ thực
sự là giả thuyết tượng trưng, giải thích thần bí hoặc phân tích là đủ…”. Có người
nghĩ rằng chính Giáo Hội đã từ chối sự tin tưởng này, vì Giáo Hội ngày càng ít
nói về nó.
Kết
quả của sự im lặng này như thế nào? Một chuyện cực kỳ lạ lùng. Satan bị tống ra
khỏi cửa ra vào, thì lại qua cửa sổ mà vào lại; bị đức tin xua đuổi, nó trở lại
bằng mê tín. Thế giới hiện đại, kỹ thuật và công nghiệp hóa, nhung nhúc những
pháp sư, những người thông linh, người
đoán số tử vi, làm bán bùa chú và bùa hộ mệnh, những giáo phái Satan thuần túy
và cứng rắn.
Tình
hình hiện nay không quá khác với tình hình của các thế kỷ XIV-XVI, nổi tiếng chẳng
hay ho gì với tầm quan trọng được gán cho những hiện tượng ma quỷ. Người ta
không còn đưa lên giàn hỏa những người bị quỷ ám, không còn các cuộc săn lùng
phù thủy hay giống như vậy. Các thực hành tập trung vào ma quỷ, cũng như các nạn
nhân về thể chất hoặc đạo đức của các thực hành này, không kém thường xuyên hơn
khi ấy và không chỉ thấy trong các tầng lớp nghèo khổ và dân chúng. Tất cả điều
này đã trở thành một hiện tượng xã hội – và thương mại! – có phạm vi rộng lớn.
Một
tuần báo ở Mỹ phổ biến khắp thế giới cách đây không lâu đã dành hẳn một hồ sơ về
hiện tượng tin vào ma quỷ ngày nay. Tôi ngạc nhiên về kết luận rút ra từ một
trong những nhà trí thức được phỏng vấn. Theo ông, sự lãng quên về ma quỷ không
làm cho cuộc sống của con người trên trái đất được bình an và hợp lý hơn, trái
lại chỉ làm cho chúng ta trì độn hơn và quen với những điều ghê rợn của sự dữ.
Không gì làm chúng ta rùng mình hơn.
***
Những
người cho rằng không có ma quỷ, nói đúng ra, là có lý do. Điều họ biết về đề
tài này – trường hợp quỷ ám, câu chuyện và phim ảnh trừ quỷ – hầu như luôn có lời
giải thích liên quan tới bệnh lý, dễ nhận ra. Điều họ sai lầm là dừng lại ở đó,
không biết đến một mức khác trong đó sự giải thích thuộc bệnh lý học là không đủ.
Người
ta thấy sự mập mờ được lặp lại mà Freud và nhiều người khác sau ông đã từng rơi
vào trong đó: càng xem xét trường hợp bệnh thần kinh tôn giáo (vì trong trường
hợp này, người ta nại đến nó) thì cuối cùng đi đến chỗ tin rằng tôn giáo tự
thân chỉ là một bệnh thần kinh. Như thể một người nào đó đã có thể xác định một
mức độ sức khỏe tinh thần của một thành phố sau khi đi thăm một bệnh viện tâm
thần!
Chúng
ta tìm ra bằng chứng mạnh nhất về sự hiện hữu của Satan không phải nơi tội
nhân, cũng không phải nơi người bị quỷ ám, nhưng nơi các thánh. Đúng là quỷ có
mặt và hoạt động trong một số hình thức sự dữ cực độ và “vô nhân đạo”, trên
bình diện cá nhân hay tập thể, nhưng đó là nó ở tại nhà nó và có thể ẩn núp sau
hàng ngàn người giống hệt và đóng thế. Với Satan, cũng như với một số côn
trùng, chiến thuật của nó là đổi mầu cho giống với những vật chung quanh.
Trái
lại, trong cuộc đời các vị thánh, quỷ buộc phải lộ diện, phải chịu sấp bóng
(contre-jour), hành động của nó như điểm đen nổi lên trên nền trắng. Ngay cả
trong Phúc Âm, người ta tìm thấy bằng chứng tốt nhất về sự hiện hữu của quỷ
(đôi khi khó chứng tỏ người thời ấy tin thế nào về nguồn gốc của một số bệnh) không
phải trong những trình thuật về việc chữa những người bị quỷ ám, nhưng trong
câu chuyện Đức Giêsu bị quỷ cám dỗ.
Ít
nhiều các vị thánh và các tín hữu lớn (trong đó có người như thánh Gioan Thánh
Giá, thuộc vào số những trí thức hàng đầu) đều làm chứng về cuộc tranh đấu của
các ngài chống lại quyền lực tối tăm này. Một hôm thánh Phanxicô Assisi tâm sự
với người bạn thân tín của mình: “Nếu anh em biết những đau khổ và thử thách ma
quỷ đã gây ra cho tôi như thế nào, hẳn không còn ai trong số họ mà không động
lòng trắc ẩn và thương hại tôi[4].”
Phanxicô
sáng tác Bài Ca Vạn Vật sáng chói cũng chính là Phanxicô đã phải đấu tranh chống
lại ma quỷ. Catarina Sienna đã có ảnh hưởng lớn trên lịch sử thậm chí chính trị
đương thời cũng chính là Catarina đã bị ma quỷ “hành hạ”, theo lời cha giải tội
của ngài[5].
Padre Pio lo toan xây dựng “Ngôi nhà an ủi người sầu khổ” cũng chính là người
đêm ngày chiến đấu cật lực với ma quỷ. Chúng ta không thể làm một cuộc giải phẫu
tư cách của các ngài, và chỉ giữ lại một phần. Sự lương thiện và một khoa tâm
lý lành mạnh hẳn không cho phép làm việc này. Những vị đó đã không đánh nhau với
những cối xay gió. Điều thánh Gioan Thánh Giá diễn tả khi ngài kể lại đêm tối của
linh hồn, không phải là một cái gì đó vu vơ.
Người
ta thấy câu chuyện của Gióp được lặp lại (G 1,6 tt). Thiên Chúa “phó” vào tay
Satan những bạn hữu thân thiết nhất của Ngài, để cho họ có cơ hội làm chứng mình
không chỉ phục vụ Thiên Chúa vì những ơn lành đang được hưởng và để có thể tự đắc
trước kẻ thù. Ngài cho Satan được quyền
trên thân xác họ. nhưng đôi khi, một cách mầu nhiệm, cũng được quyền trên linh
hồn họ, hoặc ít nhất một phần thuộc linh hồn họ. Năm 1983, Maria Giêsu chịu
Đóng Đinh, được gọi là “người Ả rập nhỏ bé”, vì thuộc dân tộc Palestin, được
phong thánh. Trong suốt cuộc đời, khi đã tiến xa trên con đường nên thánh, chị
đã sống hai thời kỳ bị quỷ ám thật sự và xác thực, được kể lại trong án phong
thánh[6].
Trường hợp của chị không phải là ngoại lệ…
***
Vậy
tại sao ngay cả trong số các tín hữu, có một số người dường như không để ý tới
cuộc chiến ngầm này trong Giáo Hội? Tại sao có quá ít người nghe thấy những tiếng
gầm hung dữ của sư tử đang rảo quanh tìm mồi cắn xé? Đơn giản thôi! Những người
đó tìm kiếm ma quỷ trong sách vở, trong khi sách vở không làm cho nó hứng thú, nhưng là các linh hồn. Người ta
không bao giờ bắt gặp nó lui tới các trường đại học, các thư viện, nhưng là các
linh hồn.
Một
sự mập mờ khác đôi khi có nơi các tín hữu. Những người này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của những con người thuộc văn hóa “thế tục” nghĩ về sự hiện hữu của ma quỷ, như
thể đã có một cơ sở đối thoại chung với họ. Những tín hữu ấy không để ý đến việc
một văn hóa tuyên bố mình vô thần không thể tin vào sự hiện hữu của ma quỷ. Khi
không tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì sẽ là bi đát khi tin vào sự hiện hữu
của ma quỷ. Trong trường hợp ấy, hẳn có gì đó để tuyệt vọng. Người chưa bao giờ
tiếp xúc với Satan, nhưng chỉ biết qua ý tưởng, cách trình bầy và những truyền
thống dân tộc học nói về nó, thì có thể biết gì về nó? Những người xem xét các
hiện tượng mà báo chí coi là thuộc ma quỷ (bị quỷ ám, giao ước với ma quỷ, săn
phù thủy ...) để từ đó hãnh tiến kết luận rằng tất cả chỉ là mê tín và rằng ma
quỷ không tồn tại, những người đó giống như phi hành gia xô viết, người đã kết
luận rằng Thiên Chúa không hiện hữu vì anh ta bay ngang dọc trên bầu trời và không
gặp Ngài ở chỗ nào cả. Trong cả hai trường hợp, người ta đã tìm không đúng chỗ.
***
Nói
như trên rồi, chúng ta có thể và phải đưa ma quỷ về với những phạm vi chính
đáng, Hơn ai hết, người tín hữu sẵn sàng làm việc này. Trong Kitô giáo, Satan
không có một tầm quan trọng giống hệt và trái ngược với tầm quan trọng của Đức
Kitô. Thiên Chúa và ma quỷ không phải là những nguyên lý song song, vĩnh cửu và
độc lập với nhau, như quan niệm của một số tôn giáo nhị nguyên. Theo Kinh
Thánh, ma quỷ chỉ là một thụ tạo của Thiên Chúa “đã đi sai đường”; những gì tích
cực nơi nó đều do Thiên Chúa, chỉ là nó làm băng hoại, trệch hướng, dùng điều ấy
để chống lại Thiên Chúa. Qua đó chúng ta đã cắt nghĩa hết chưa? Chưa đâu. Sự hiện
hữu của ma quỷ vẫn còn là một mầu nhiệm, cũng như sự dữ nói chung vẫm còn là một
mầu nhiệm, nhưng đó không phải là mầu nhiệm duy nhất của đời sống…
Nói
rằng chúng ta tin “vào” ma quỷ cũng không đúng nữa. Chúng ta tin “vào” Thiên Chúa, “vào” Đức Giêsu Kitô,
nhưng chúng ta không tin “vào” ma quỷ, nếu tin có nghĩa là tin tưởng vào một ai
đó. Chúng ta tin có ma quỷ nhưng không tin “vào” ma quỷ; đó là một đối tượng,
hơn nữa lại là đối tượng tiêu cực của đức tin chúng ta, nó không phải là động lực,
cũng không phải là cùng đích của đức tin ấy.
Đừng
quá sợ hãi nó. Một tác giả xưa đã viết: “Sau khi Đức Kitô đến thế gian, ma quỷ
bị cột lại, như con chó bị xích. Nó không thể cắn ai, trừ người nào coi thường
nguy hiểm mà đến gần nó…Nó có thể sủa, xúi giục, nhưng không thể cắn, trừ những
ai muốn chuyện đó. Quả thực, nóa làm hại ta không phải bằng cách cưỡng bách
nhưng bằng cách thuyết phục. Nó không ép ta thỏa thuận, nhưng xúi giục ta làm
như thế[7].”
Tin
có ma quỷ không làm sút giảm sự tự do của ta. Chỉ cần cẩn thận để không khiến nó
phải chịu trách nhiệm về mỗi lỗi lầm của ta hoặc về bất kỳ bất hạnh nào xảy ra cho
ta. Nhìn chỗ nào cũng thấy ma quỷ cũng nguy hiểm như không thấy nó ở đâu cả.
“Khi bị tố cáo thì ma quỷ chế giễu. Thực ra, nó muốn bạn tố cáo nó, nó vui lòng
đón nhận mọi tố cáo, nếu điều đó khiến bạn không thể xưng tội[8]!”
Chúng
ta kết thúc bằng cách trở lại với phụng vụ của chúng ta. Một Giáo Phụ mô tả những
gì xẩy ra ngày Thứ Sáu Thánh như sau: “Bạn hãy hình dung một cuộc chiến khốc liệt
ở thao trường. Một người dũng cảm chiến đấu chống lại một bạo chúa trong thành
phố, và với cái giá là những nỗ lực và đau khổ kinh hoàng, anh ta đã thắng. Bạn
ngồi trên khán đài, chỉ thuần túy làm khán giả; bạn không phải chiến đấu, không
phải mệt nhọc, không bị thương tích. Nhưng, nếu bạn ngưỡng mộ người chiến thắng,
nếu bạn vui mừng với cuộc chiến thắng của anh ta, nếu bạn kết cho anh ta một
vòng triều thiên, nếu bạn kích thích và đánh thức đám đông ủng hộ anh ta, nếu bạn
vui mừng nghiêng mình trước người đã chiến thắng, nếu bạn ôm hôn đầu anh ta và bắt
tay; nói tóm lại, nếu bạn cuồng nhiệt với anh, đến mức coi chiến thắng của anh
là của bạn, thì tôi sẽ nói với bạn rằng chắc chắn bạn sẽ chia sẻ cái giá của người
thắng trận[9].”
Chúng
ta hãy nhớ lại những lời này khi mà, ngay sau đây, Đấng chịu đóng đinh sẽ được
đưa lên cao giữa chúng ta, và chúng ta đến gần để hôn kính chân Ngài.
(Raniero
Cantalamessa, Nous prêchons un Christ
crucifié, EdB, 2018, pp. 253-261)
Lm
Micae Trần Đình Quảng
[1] W. Goethe, Faust, 1, “Le maitre et Marguerite” Ed, Flammarion.
[2]
R, Bultmann, Mythologie et
démythologisation, Ed. Seuil, Paris 1968
[3]
x. Đức Phaolô
VI, “Libère-nous du mal”, Audience du 15 novembre 1972.
[4]
Le Miroir de perfection, 99
(Documents, p. 1030).
[5]
Raymond de Capoue, Vie de sainte
Catherine, §128, 347, 417.
[6] X. P. Estrate, Mariam, sainte palestinienne ou la vie de Marie de Jésus Crucifié,
Ed. Téqui, Paris 1999.
[7]
Césaire d’Arles, Discours,
121,6.
[8]
Augustinô, Sermons, 20, 3.
[9]
x. Gioan Kim Khẩu, De coemeterio
(PG 49, 396) và Nicola Cabasilas, La vie
en Christ, I, 5 (PG 150, 517).