XXV
“VICTOR QUI VICTIMA –
CHIẾN THẮNG VÌ LÀ TẾ VẬT”
Chúng
ta sắp suy niệm bài ca thứ tư về người Tôi Trung của Thiên Chúa (Is
52,13-53,12), dưới ánh sáng của bản văn Tin Mừng về cuộc Khổ Nạn theo Thánh Gioan.
Đoạn văn mở đầu bằng lời tự ngôn của Thiên Chúa; tiếp theo là lời độc thoại của
một đám đông, giống như dàn hợp xướng trong một bi kịch Hy lạp, suy niệm về các
sự kiện và đưa ra kết luận riêng của mình; kết thúc bằng cách trở lại với lời
Thiên Chúa đưa ra phán quyết cuối cùng.
Biến
cố là như vậy đến độ người ta chỉ có thể hiểu rõ về nó nếu bắt đầu từ câu cuối;
vì vậy Thiên Chúa cho biết trước kết cục ngay từ đầu trình thuật: “Người Tôi Trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn
cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng.” Người ta đến với một chuyện gì
đó mới lạ, với những dân tộc đang sững sờ, với các vua chúa đang câm miệng:
chân trời mở rộng đến một sự tuyệt đối và phổ quát mà không có câu chuyện lịch
sử nào, ngay cả câu chuyện Phúc Âm, có thể tập hợp, vì được xác định trong thời
gian và không gian. Chính sức mạnh của lời tiên tri làm cho nó trở nên quý giá
và cần thiết đối với chúng ta, ngay cả sau khi chúng ta đã thấy nó được hoàn tất.
***
Đám
đông lên tiếng. Trước hết, như để bào chữa cho sự mù quáng của mình, họ giải
thích vì sao không thể nhận ra người Tôi Trung. Người “chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong, đáng cho chúng ta ngắm nhìn”.
Làm sao chúng ta có thể nhận ra “bàn tay của Thiên Chúa” trong những gì chúng
ta thấy? “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt
không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.” (Is 52,3)
Nhưng
rồi đây là suy tư, là “mạc khải”, là hành vi tin trong “tình trạng phát sinh” của
nó: “Chính người đã mang lấy những bệnh tật
của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại
tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người
đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, người đã bị
sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa
lành.” (Is 52,4-5)
Để
hiểu điều gì đã xẩy ra cho đám đông vào lúc đó, chúng ta hãy nghĩ lại về những
gì đã xẩy ra khi lời tiên tri thành hiện thực. Trong một thời gian ngắn, sau
cái chết của Đức Kitô, điều chắc chắn duy nhất liên quan đến Ngài là Ngài đã chết
và chết trên thập giá; là Ngài đã bị "Thiên Chúa nguyền rủa" theo những
gì đã được viết trong sách Luật: “Đáng bị
Thiên Chúa nguyền rủa người bị treo trên
cây gỗ” (Đnl 21,23; Gl 3,13). Tiếp đến là Chúa Thánh Thần, Đấng “cho thế gian thấy về tội lỗi” và rồi đức
tin vượt qua của Giáo Hội nẩy nở: “Đức
Kitô đã bị trao nộp vì tội ta” (x. Rm 4,25); “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây
thập giá.” (1Pr 2,24)
Không
ai có thể ở bên cạnh Đức Giêsu; Ngài ở một bên còn bên kia là tất cả những người
khác. “Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên
cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi
của tất cả chúng ta.” (Is 53,6)
Nhà
tiên tri đặt mình vào trong số “chúng ta”. Chúng ta không thể nghĩ ông nói về
mình hay về một nhân vật nào đó trong quá khứ, mà không làm cho cả bài ca trở
thành những lời phóng đại đạo đức. Và làm sao tin được rằng người Tôi Trung biểu
thị cho một tập thể hoặc tất cả một dân, nếu chính vì tội lỗi của dân “mình” mà
Ngài bị đánh phạt tới chết (x. Is 53,8)? Thánh Tông Đồ sẽ quét sạch mọi nghi ngờ
về điểm này: “Mọi người, Do Thái cũng như
Hy Lạp, đều bị tội lỗi thống trị […] không
có khác biệt: mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa.”
(Rm 3,9.22-23
***
Lời
Chúa nói tiếp: “Nhờ nỗi thống khổ của
minh, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ,
người công chính tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ
gánh lấy tội lỗi của họ.” (Is 53,11)
Điều
gây ngạc nhiên nhất trong tất cả bài ca không phải là người Tôi Trung ở đó giống
như một con chiên hiền lành, đòi Thiên Chúa thực hiện công lý hay trả thù, như
Gióp, Giêrêmia và những vịnh gia khác, trong những hoàn cảnh tương tự. Điều mới
lạ to lớn nhất là Thiên Chúa thậm chí không có ý định trả thù cho người Tôi
Trung cũng không trả lại công lý cho ông. Đúng hơn, công lý Ngài làm cho người
Tôi Trung không ở chỗ trừng phạt những kẻ bách hại ông, nhưng là cứu họ, làm
cho họ nên công chính!
Đó
là những gì tông đồ Phaolô thấy được thực hiện nơi Đức Kitô và ngài tuyên bố
cách đắc thắng trong thư gửi tín hữu Rôma: “Mọi
người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên
công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không nhờ công trình cứu chuộc thực hiện
trong Đức Kitô Giêsu: Thiên Chúa đã đặt Người làm hy tế xá tội.” (Rm
3,23-25)
Điều
"chưa từng nghe thấy" cho đến nay vừa mới xảy ra. Những đám đông kinh
ngạc và hoán cải, những vua chúa vẫn câm miệng (x. Rm 3,19): điều đó đã qua hai
mươi thế kỷ, và còn kéo dài trước mắt mọi người. Hàng tỷ người đã nói về Đức
Kitô, không chút do dự; và chính tôi nhắc lại ngày hôm nay: "Ngài là sự cứu
rỗi của tôi! Nhờ những vết thương của Ngài, tôi đã được chữa lành!"
Đúng
là vẫn còn một bóng tối trong hành động của Thiên Chúa đối với người Tôi Trung
của mình: “Đức Chúa dã muốn người phải bị
nghiền nát vì đau khổ.” (Is 53.10) Chúng ta rùng mình sợ hãi khi nghĩ về một
Thiên Chúa "muốn" làm cho Con mình phải khổ và, nói chung, bất kỳ
sinh vật nào. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi liệu Ngài có thực sự "muốn"
không và chính xác Ngài "muốn" điều gì? Dĩ nhiên không phải là phương
tiện, nhưng là mục đích! Không phải sự đau khổ của người Tôi Trung, nhưng là ơn
cứu rỗi của muôn muôn người. Thánh Bênađô giải thích: “Non mors placuit sed voluntas sponte morientis.[1]”;
không phải cái chết làm hài lòng, nhưng là ý muốn sẵn sàng chết.
Điều
thực sự làm hài lòng Thiên Chúa, điều người Tôi Trung đã hoàn tất với niềm vui
lớn lao chính là: “Ta sẽ ban cho người
muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, người sẽ được
chia chiến lợi phẩm, bởi vì người đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội
nhân, nhưng thật ra, người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.” (Is 53,12)
***
Cuộc
Khổ Nạn của Đức Kitô, được Đệ nhị Isaia mô tả trên bình diện tiên tri và được
Phúc Âm mô tả trên bình diện lịch sử, mang lại một sứ điệp đặc biệt cho thời đại
chúng ta đang sống. Sứ điệp này là: nói không với bạo lực. Người Tôi Trung đã
không có bất kỳ hành động tàn bạo nào; ngược lại, mọi bạo lực trên thế giới đều
đổ dồn vào ông: bị đánh, bị đâm, bị ngược đãi, bị đòn vọt, bị kết án và cuối
cùng bị ném vào một ngôi mộ tập thể (“ông
bị chôn cất giữa bọn ác ôn”). Trong tất cả những điều đó, ông không mở miệng
kêu ca, xử sự như con chiên bị đem đi làm thịt, ông không đe dọa ai, đã hiến
thân làm lễ vật đền tội và cầu bầu cho những ai giết mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc
họ làm.” (Lc 23.33) (Chính như thế mà chúng ta biết rằng những người đóng
đinh Đức Kitô đã được cứu và được ở với Ngài trên Thiên đàng, ít nhất là những
người đã thực sự hành động mà không biết, vì rõ ràng là Chúa Cha, Đấng đã luôn
lắng nghe Ngài, không thể không đáp lại lời cầu xin cuối cùng của Ngài!) Chính
như thế mà Đức Kitô đã chiến thắng bạo lực. Ngài chiến thắng không phải bằng bạo
lực lớn hơn, nhưng bằng cách chịu đựng nó, cho thấy thất cả sự bất công và hão
huyền của nó. Qua đó Ngài đã khai mào một hình thức chiến thắng mới mà thánh
Augustinô gói gọn trong ba từ: “Victor
quia victima – Ngài chiến thắng vì là
tế vật[2]”.
Vấn
đề bạo lực tấn công chúng ta, gây tai tiếng cho chúng ta, đặc biệt ngày nay khi
nó phát minh ra những hình thức tàn ác và ngu ngốc mới mẻ đáng sợ và đã xâm chiếm
chính những lãnh vực phải là phương dược chống lại bạo lực: thể thao, nghệ thuật,
tình yêu. Người Kitô hữu chúng ta phản ứng kinh hoàng khi nghĩ rằng chúng ta có
thể dùng bạo lực và giết chết nhân danh Thiên Chúa. Một số người có thể nêu vấn
nạn: không phải chính Kinh Thánh chứa đầy những câu chuyện về bạo lực đó sao?
Thiên Chúa không được gọi là: “Thiên Chúa
các đạo binh” đó sao? Không phải Ngài ra lệnh hủy diệt toàn bộ những thành
phố sao? Không phải trong Luật Môsê Ngài luôn quy định nhiều trường hợp án tử
hình sao?
Nếu
người ta nêu ra vấn nạn tương tự với Đức Giêsu trong cuộc đời của Ngài, chắc chắn
Ngài sẽ lặp lại những lời Ngài nói về vấn đề ly dị: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ
thuở ban đầu không có thế đâu.” (Mt 19,8) Tương tự như vậy là về vấn đề bạo
lực: “thuở ban đầu không có thế đâu.”
Chương đầu tiên của sách Sáng thế ký cho ta thấy một thế giới trong đó bạo lực
là chuyện không tưởng, cả giữa con người với nhau cũng như giữa con người và
thú vật. Ngay cả để báo thù cho cái chết của Abel, cũng không được phép giết
người (x. St 4,15).
Tư
tưởng của Thiên Chúa ngay từ đầu được thể hiện trong giới răn "Ngươi không được giết người", hơn là
trong những trường hợp ngoại lệ trong Luật, là những trường hợp nhượng bộ cho
"sự cứng lòng" và phong tục
của con người. Từ đây bạo lực là một phần của cuộc sống và Kinh Thánh phản ánh
cuộc sống, thông qua pháp chế và án tử hình, ít nhất tìm cách truyền tải và
ngăn chặn bạo lực để nó không bị thoái hóa thành sự tùy tiện cá nhân và để nó không xâu xé nhau[3].
Phaolô
nói về một thời đặc trưng của sự khoan dung của Thiên Chúa (Rm 3,25). Thiên
Chúa khoan dung cho bạo lực cũng như khoan dung cho sự đa thê, ly dị và những
thứ khác, nhưng Ngài dậy dỗ dân mình để họ đạt tới ngày trong đó kế hoạch ban đầu
của Ngài sẽ được “thâu họp” và được ca ngợi, như cho một sáng tạo mới. Thời gian
này đến khi Đức Giêsu công bố trên núi: “Anh
em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Con Thầy, Thầy bảo anh
em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu ai bị vả má bên phải, thì hãy giơ cả
má bên trái ra nữa […] Anh em đã nghe
Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghé kẻ thù. Con Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện
cho kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5,38-39.43-44)
Nói
"không" với bạo lực như Đức Kitô tuyên bố có tính chất chung cuộc, dứt
khoát. Ngài không chỉ đối lập nó với bất bạo động, mà hơn thế nữa, còn với sự
tha thứ, hiền lành và dịu dàng: “Hãy học
với Tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29) Bài giảng thật
sự trên núi không phải là bài Ngài tuyên bố trên một ngọn đồi ở Galilê; đó là bài
mà giờ đây Ngài tuyên bố trên Núi Calvê, trong yên lặng, qua những sự kiện.
Nếu
bạo lực vẫn còn, nó sẽ không bao giờ có thể, ngay cả từ xa, viện dẫn Thiên Chúa
hoặc yêu sách dựa vào uy thế của mình. Làm như vậy có nghĩa là làm cho ý tưởng
của Thiên Chúa thoái lui về một giai đoạn nguyên thủy và thô thiển, bởi lương
tâm tôn giáo và dân sự của nhân loại. Bạo lực cũng sẽ không thể còn được biện
minh nhân danh tiến bộ. Có người nói: "Bạo lực là bà đỡ của lịch sử"
(Marx va Engels). Điều này đúng một phần. Đúng là các mệnh lệnh xã hội mới
chính đáng nhất đôi khi phát sinh sau các cuộc cách mạng và chiến tranh, giống
như điều ngược lại cũng hoàn toàn đúng: những bất công và tai họa tồi tệ là kết
quả của cách mạng và chiến tranh.
Nhưng
điều này cho thấy chính xác tình trạng rối loạn mà thế giới đang đổ dồn vào đó:
sự kiện phải sử dụng bạo lực để diệt trừ cái ác, và người ta chỉ có thể có được
điều thiện bằng cách làm điều ác. Ngay cả những người một thời gian vẫn tin rằng
bạo lực là bà đỡ của lịch sử thì đã thay đổi ý kiến và nay đang diễu hành biểu dương hòa bình.
Suy
gẫm về các biến cố năm 1989 đã làm sụp đổ những chế độ toàn trị ở Trung Âu mà
không đổ máu, Đức Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Centesimus annus, đã thấy trong đó kết quả hành động của những con người
nam nữ đã biết làm chứng cho chân lý mà không dùng đến bạo lực. Ngài kết luận bằng
cách mong muốn rằng, mười lăm năm sau, lời sau đây vang lên cấp bách hơn bao giờ
hết: "Ước mong con người có thể học cách đấu tranh cho một công lý không
có bạo lực[4]".
Giờ đây chúng ta muốn bày tỏ mong ước này bằng một lời cầu nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu Kitô, chúng con không xin Chúa tiêu diệt những kẻ bạo động và những
kẻ tìm cách gieo rắc khủng bố, nhưng xin thay đổi trái tim của họ và hoán cải
lòng họ. Xin giúp chúng con cùng với Chúa thưa lên: "Lạy Chúa, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm." Xin phá
vỡ sự điên cuồng chết chóc này, cũng như chuỗi bạo lực và trả thù khiến cả thế
giới hồi hộp. Chúa đã tạo dựng trái đất trong hài hòa và bình an; xin cho nó không
còn là nơi chúng con lấn quyền khiến chúng con trở nên tàn bạo[5]".
Trên
thế giới có vô số người, giống như Chúa trong cuộc Khổ Nạn, "chẳng còn dáng vẻ chẳng còn oai phong, ai thấy
cũng che mặt không nhìn, bị đời khinh khi ruồng rẫy." (x. Is 53,3) Xin
dạy chúng con không che mặt khi thấy họ, không chạy trốn họ, nhưng mang trên
chúng con nỗi đau buồn và cô đơn của họ.
Lạy
Mẹ Maria, "khi cùng đau khổ với Con mình trên thập giá, Mẹ đã cộng tác
cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức
tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt[6]":
xin gợi hứng cho những con người nam nữ của thời đại chúng con những suy nghĩ về
bình an, dịu hiền và tha thứ. Amen.
(Raniero
Cantalamessa, Nous prêchons un Christ
crucifié, EdB, 2018, pp. 283-291)
Lm
Micae Trần Đình Quảng
[1]
Thánh Bênađô, Contre les erreurs
d’Abélard, 8, 21 (PL 182, 1070).
[2]
Thánh Augustinô, Confessions,
X, 43.
[3]
x. R. Girard, Des choses cachées
depuis la fondation du monde, Lgf Poche, Paris, 1983.
[4]
ĐGH Gioan Phaolô II, Lettre Encyclique Centesimus Annus, III, 23.
[5]
Dante Alghieri, Le Paradis,
XXII, 151.
[6]
Lumen Gentium, n. 61.