3
KHI CON TÌM KIẾM CHÚA,
CHÍNH LÀ HẠNH PHÚC CON KIẾM TÌM
Chúng ta tiến thêm một
bước mới trong tiểu luận của chúng ta, và cố gắng, nếu không muốn "định
nghĩa", thì ít nhất cũng "mở ra" một vài cái nhìn bao quát về thực
tại Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã nói: "Thiên Chúa là tình yêu”, thì cũng
phải nói thêm rằng: Thiên Chúa là hạnh phúc! Ngài là "Thiên Chúa hạnh phúc, Đấng ban hạnh phúc", như thánh
Augustinô nói[1].
Được hạnh phúc và làm cho người khác hạnh phúc là nét riêng của Ngài, cũng như
chiếu sáng và làm cho mọi vật có màu sắc là thuộc về ánh sáng. Hạnh phúc thuộc
về chính mầu nhiệm hữu thể của Ngài. Vì Ngài là Sự Thiện tối cao, nên cũng là hạnh
phúc vô biên và tối cao. Thánh Phanxicô đã ca lên trong “Ca ngợi Thiên Chúa tối cao” rằng: "Chúa là niềm vui, là nỗi
hân hoan vui sướng". Trước câu hỏi: “Thiên Chúa là gì?”, giáo lý viên hẳn
có thể dạy cho học sinh của mình trả lời rất đúng rằng: “Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn hạnh phúc, Đấng tạo dựng trời
đất. Sẽ đúng không kém khi nói về hữu thể “tuyệt đối hoàn hảo” và chắc chắn trẻ
em sẽ dễ hiểu hơn, vì chúng liên kết hạnh phúc với trò chơi cách tự nhiên và có
lý.
Làm sao chúng ta biết
Thiên Chúa là hạnh phúc? Ngài là hạnh phúc với cùng một lý do như Ngài là ba
ngôi: vì Ngài là tình yêu. Thực tế, và kinh nghiệm cho thấy, hạnh phúc chính là
yêu và được yêu. Chắc hẳn, cả sự thật lẫn kiến thức cũng làm cho con người hạnh phúc, nhưng với điều kiện phải
có tình yêu đi kèm. Thế mà từ đời đời, Chúa Cha yêu Chúa Con bằng tình yêu vô
biên, bù lại Chúa Con cũng yêu Chúa Cha bằng một tình yêu vô biên không kém.
Nơi Ngài, Chúa Cha tìm lại được "tất cả tình yêu của mình", và do đó
hạnh phúc của mình. Thánh Augustinô viết: “Sự ôm ấp khôn tả của Chúa Cha và của
Hình Ảnh không suôn sẻ nếu không có vui sướng, không có bác ái, không có hoan lạc.
Sự yêu quý này, lạc thú này, sung sướng này, chúng ta hãy nói hạnh phúc này, nếu
có hạn từ nào của con người có thể diễn tả một cách phù hợp..., thì chính là
Chúa Thánh Thần trong Ba Ngôi. Người không được sinh ra, là sự êm dịu của đấng
sinh ra và đấng được sinh ra, Người làm cho mọi loài thụ tạo được chan chứa sự
tự do của mình, sự phong phú bao la của mình, tùy theo khả năng của chúng[2]."
Khi Chúa Thánh Thần tuôn
đổ tình yêu của Thiên Chúa vào lòng con người (Rm 5,5), thì đồng thời Người cũng
đổ xuống trên họ hạnh phúc của Thiên Chúa. Vì lẽ đó, niềm vui là một trong những
hoa trái đầu mùa của việc Người đến trong tâm hồn (x. Gl 5,22). Chính vì tình
yêu, tự bản tính, có khuynh hướng lan tỏa mà Thiên Chúa "đã tạo ra thế giới
để muôn loài được đầy tràn ơn phúc và vui hưởng ánh sáng huy hoàng của Ngài[3]".
Hạnh phúc của Thiên Chúa giống như "dòng sông tràn bờ và cánh tay của Đấng
làm vui mừng thành đô của Thiên Chúa" là toàn thể thế giới. "Thiên Chúa, nguồn vui hoan lạc của tôi":
đây là danh hiệu được gán cho Thiên Chúa trong một Thánh vịnh (Tv 43,4).
Nếu Thiên Chúa là hạnh
phúc, bất cứ điều gì Ngài làm là lấy lòng vui mà làm; Ngài lấy lòng vui mà tạo
dựng “khi các vì sao ban sáng đang hòa tấu
nhịp nhàng và hết mọi con cái Thiên Chúa cùng rập tiếng tung hô” (G 38,7).
Ngài lấy lòng vui mà cứu vớt, thậm chí lấy lòng vui mà chịu khổ (vì đúng là
Thiên Chúa “chịu khổ” với con người và cho con người, chừng nào con người có
nguy cơ đánh mất chính mình). Julienne Norwich viết: "Tôi thấy rằng Thiên
Chúa vui mừng vì được làm Cha của chúng ta, vui mừng vì được làm Mẹ của chúng
ta, vui mừng vì trở thành Phu Quân thật sự của chúng ta, và vui mừng vì được
linh hồn của chúng ta làm hiền thê[4]."
Thiên Chúa hạnh phúc! Thiên Chúa hạnh phúc! Đây là một lời khẳng định mới về
Thiên Chúa chứ không phải một lời khuôn sáo, thậm chí còn tốt hơn rất nhiều diễn
từ, để giúp chúng ta nhận thức được rằng Thiên Chúa đúng là "Thiên Chúa hằng
sống".
Sự thật này là cốt yếu
trong bước đi của chúng ta hướng tới mục tiêu mà chúng ta đã tự đặt ra cho cuộc
hành trình của mình : con đường đến với Thiên Chúa hằng sống cũng là con đường
đến với hạnh phúc. Thánh Augustinô viết[5]:
“Lạy Chúa, khi con tìm kiếm Chúa, chính là cuộc sống hạnh phúc mà con kiếm
tìm”. Đỉnh cao mà chúng ta đã quyết định leo lên là đỉnh cao mà mọi người cũng
đang hướng tới. Than ôi, họ rất hay chọn sườn dốc khó leo. Mọi người đều muốn
được hạnh phúc. Chỉ với từ hạnh phúc, mọi người đứng thẳng dậy và nhìn vào bàn
tay bạn để xem liệu bạn có thể tình cờ cho họ thứ gì đó để làm dịu cơn khát hạnh
phúc của họ. Khát vọng này là chung cho tất cả mọi người, tốt hay xấu, không trừ
ai, vì không ai xấu nếu nhờ khao khát mà hy vọng tìm thấy hạnh phúc. Nếu chúng
ta có thể hình dung ra cảnh tượng toàn thể nhân loại trong hoạt động sâu sắc nhất
của mình, chúng ta sẽ thấy giống như một đám đông rất nhiều người xung quanh một
cây ăn trái: tất cả đều kiễng chân và tuyệt vọng vươn tay cố gắng hái một trái
mà thực tế không ai hái được. Theo Dante, hạnh phúc là "trái cây dịu ngọt
đến nỗi, trong số bao nhiêu cành, nó đi cầu xin sự quan tâm của con người[6]."
Chúng ta đã biết hạnh
phúc ở đâu và khi nào, để mang trong mình một khao khát mãnh liệt về nó từ khi
mới sinh ra? Ở kiếp trước chăng? Nhưng điều đó sẽ chỉ đưa vấn đề trở lại kiếp
trước, mà không giải quyết được. Chúng ta mang trong mình niềm khao khát được sống
hạnh phúc, vì Thiên Chúa đã tạo ra chúng ta "theo hình ảnh Ngài và giống Ngài": Ngài chính là Đấng hạnh
phúc hoàn hảo, đã tạo ra chúng ta để được hạnh phúc. Chúng ta được nhào nặn với
khát vọng hạnh phúc.
Một câu hỏi được đặt ra:
tại sao rất ít người thật sự hạnh phúc? Và những người như vậy, tại sao họ lại
như vậy theo cách thức như trốn chạy? Tôi nhắc lại: chúng ta đang leo lầm sườn
dốc, chọn một sườn dốc không thể dẫn chúng ta đến đỉnh núi. Một số bản vẽ, bức
tranh hoặc ảnh chụp của thế kỷ trước và đầu thế kỷ này trình bầy những tai nạn
nổi tiếng và khủng khiếp xảy ra tại Cervin: toàn bộ dây của những người leo núi
tuột móc và rơi xuống đáy thung lũng. Như thể ngọn núi giận dữ hất ra khỏi sườn
nó những người khinh suất để loại bỏ họ. Chúng ta lại không thể thấy ở đây một
hình ảnh của số phận dành cho bất cứ ai cố gắng leo lên tới hạnh phúc sao?
Không khó để tìm ra sai lầm
nằm ở chỗ nào. Mạc khải nói: "Thiên Chúa là tình yêu." Và con người
đã nghĩ có thể đảo ngược mệnh đề bằng cách tuyên bố : "Tình yêu là chúa tể!"
Khi mạc khải dạy: "Thiên Chúa là hạnh phúc", con người lại đảo ngược
mệnh lệnh để quả quyết: "Hạnh phúc là chúa tể!" Điều đó đưa chúng ta
tới đâu? Con người không biết hạnh phúc thuần khiết, tuyệt đối, vĩnh cửu, siêu
việt, cũng không biết tình yêu tuyệt đối. Họ chỉ biết những mẩu hạnh phúc, thường
chỉ là những cơn say thoáng qua của giác quan. Những lúc vui mong manh như pha
lê, trong chốc lát làm lóa mắt bằng vẻ lộng lẫy của chúng, nhưng lại mang trong
mình nỗi lo có thể biến thành mảnh vụn bất cứ lúc nào. Như thế, con người thần
hóa kinh nghiệm của mình. Họ gọi công việc của đôi tay hay khối óc của mình là
"chúa tể". Người xưa công khai biến hạnh phúc thành một nữ thần có
tên là Felicitas (thần hạnh phúc). Về
căn bản, đó cũng là niềm vui được Beethoven ca lên ở cuối Bản Giao hưởng số 9:
"Niềm vui, tia sáng tuyệt đẹp của các vị thần! Con gái của Elysée." Một
niềm vui mà không phải ai cũng có được, vì nó chỉ dành riêng cho những người
"mà số phận đã cho làm bạn của một người bạn,... chinh phục một người vợ
quyền quý", như được hát trong phần tiếp theo của bài ca.
Ở đây chúng ta tìm thấy
lời giải thích: ai tìm kiếm Thiên Chúa luôn tìm thấy niềm vui, nhưng ai tìm kiếm
niềm vui không phải lúc nào cũng tìm thấy Thiên Chúa. Tìm kiếm hạnh phúc trước
khi tìm kiếm Thiên Chúa, hoặc tìm kiếm hạnh phúc ngoài Thiên Chúa, chỉ là tìm
thấy ảo ảnh của nó, "một vú nuôi khô cằn", "những hồ nước nứt rạn, không giữ được nước" (Gr 2,13). Con người
giảm khát khao hạnh phúc xuống mức định lượng: họ theo đuổi những thú vui và cảm
xúc ngày càng mãnh liệt hơn, thêm hết thú vui này vào thú vui khác. Và kinh
nghiệm dạy cho họ biết rằng "Mắt có
nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới”
(Gv 1,8). Trong suốt cuộc đời của mình, bác sĩ Faust đã tìm kiếm khoảnh khắc
tuyệt vời này khiến ông phải kêu lên: "Dừng lại, ngươi thật đẹp!" Ông
đã không bao giờ tìm thấy nó. Cuối cùng điều sẽ cứu ông chính là: "Không
có khoái cảm nào làm ông thỏa mãn, không có hạnh phúc nào là đủ cho ông",
kẻ thù của linh hồn ông bực mình mà lưu ý như vậy[7].
Do đó, để đi vào niềm
vui, phải vượt từ số lượng sang phẩm chất. Chỉ mình Thiên Chúa là hạnh phúc và
làm cho con người hạnh phúc. Một Thánh vịnh khuyên bảo theo nghĩa này: “Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ
cho được phỉ chí toại lòng” (Tv 37,4). Với Ngài, ngay cả những niềm vui
trong cuộc sống hiện tại vẫn giữ được hương vị ngọt ngào và không biến thành nỗi
âu lo. Chỉ mình Ngài đã có thể khiến một vị thánh phải kêu lên: "Đủ rồi, lạy
Chúa, đủ vui rồi! Trái tim con không thể nhận
thêm được nữa!" Để mô tả cuộc sống vĩnh cửu, Kinh Thánh sử dụng những
hình ảnh lễ lạc, tiệc cưới, hát ca và múa nhảy, bao nhiêu biểu tượng gợi lên bầu
không khí hạnh phúc. Đi vào cuộc sống vĩnh cửu là dứt khoát đi vào niềm vui: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”
(Mt 25,21).
Nơi Thiên Chúa, con người
tìm thấy tất cả những gì mình quen diễn tả bằng từ hạnh phúc và thậm chí còn vô
hạn hơn thế nữa, vì “Điều mắt chẳng hề thấy,
tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (1Cr
2,9). Mục tiêu cuối cùng mà đức tin Kitô giáo đề ra cho con người không phải là
thuần túy chấm dứt mọi đau khổ hay dập tắt mọi ham muốn. Còn vô cùng hơn thế nữa:
thỏa mãn mọi ham muốn của mình. "Trước
thánh nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!"
(Tv 16,11).
Như đã nói, chúng ta
đang sống trong một thời kỳ khắc khoải. Khái niệm khắc khoải đã thay thế cho
suy tư của cổ nhân về hạnh phúc; nó đã tràn ngập triết học, tâm lý học, văn học.
Giả sử, trong tương lai, ai đó muốn biết cách sống của con người ở thế kỷ XX bằng
cách dựa vào một tác giả như Kafka chẳng hạn: anh ta sẽ giữ lại ấn tượng về một
nỗi lo âu chết người, thâm nhập vào mọi chỗ sâu kín của con người. Rất nhiều
trang viết về thân phận bất hạnh của con người đã bày tỏ ít nhất một sự thật
này: con người không cam chịu bất hạnh; đó là một thực tại xa lạ với con người
anh ta; không phải là tự nhiên đối với anh ta. Một cách đặc biệt, cuộc đấu
tranh chống lại sự lo âu minh chứng cho nhu cầu được sống hạnh phúc, một nhu cầu
không cưỡng lại được.
Vậy đã đến lúc bắt đầu
can đảm công bố "tin vui" này rằng: Thiên Chúa là hạnh phúc, hạnh
phúc sẽ thắng, chứ không phải đau khổ, thiếu thốn hay thập giá; rằng: đau khổ
đơn giản hữu ích cho việc loại bỏ những gì ngăn cản niềm vui, làm cho tâm hồn
giãn ra, để có thể nhận được niềm vui ấy ở mức lớn nhất có thể. Niềm vui đến từ
Thiên Chúa rất mạnh mẽ đến nỗi chiến thắng, cho dù chúng ta vẫn còn phải ở trên
thế gian đầy thử thách. Như ông Nêhêmi đã loan báo điều ấy cho dân chúng đang nức
nở: “Niềm vui của Đức Chúa là là thành
trì bảo vệ anh em” (Nkm 8,10).
Chớ gì việc loan báo niềm
vui này đánh dấu sự kết thúc của thiên niên kỷ thứ hai đầy sóng gió và chuẩn bị
chúng ta đón nhận điều mới! Chớ gì niềm vui sẽ là dấu hiệu đặc biệt của công cuộc
tân Phúc âm hóa! Là vì cuối cùng nhân loại xác tín rằng họ phải lựa chọn giữa
Thiên Chúa và hạnh phúc. Một cách vô thức, chúng ta đã làm cho Thiên Chúa trở
thành người cạnh tranh, thù nghịch với niềm vui của con người; một Thiên Chúa
“đố kỵ”, giống như vị thần của một số tác giả ngoại giáo. Đó là công trình tuyệt
vời của Satan, là vũ khí giúp cho nó rất thành công với Evà.
Vậy, chúng ta hãy tiếp tục
cuộc hành trình của mình với một sự chắc chắn đổi mới, có thể chắp cho chúng ta
đôi cánh: giúp chúng ta bay lên tới Thiên Chúa hằng sống, đồng thời cũng giúp
chúng ta bay lên tới hạnh phúc. Theo sườn thuận lợi của ngọn núi!
Chúng ta kết thúc bằng một
lời kinh của Giáo Hội:
"Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chúng con
nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong
điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng
thiết tha với cõi phúc chân thật[8]."
[1]
Thánh Augustinô, La Cité de Dieu,
IX, xv, 2; x. tr. Moreau, Paris, Seuil, 1994, p. 390.
[2]
Thánh Augustinô, La Trinité,
VI, x, 10; x. BA, t. 15, p. 499.
[3]
Sách Lễ Rôma, Kinh Nguyện Thánh Thể
IV.
[4] Julienne de Norwich, Révélations de l’Amour de Dieu, 52, Paris, Oudin 1910, p. 220.
[5]
Thánh Augustinô, Confessions,
X, xx, 2 9; x. BA t. 14, p. 19 3
[6]
Dante Alighieri, Purgatoire,
XXVII, v. 115.
[7]
J.W. Goeth, Faust, 2e
partie, V, 11581-11587.
[8]
Sách Lễ Rôma, Lời nguyện Chúa nhật
XXI Mùa Thường niên.