5
TA GHÉT CÁC CÔNG VIỆC NGƯƠI LÀM,
CÒN NGƯƠI, TA YÊU NGƯƠI
Đôi khi người ta nghĩ rằng,
trong Phúc Âm, Đức Giêsu đã trả lời dứt khoát cho sức căng giữa hai khía cạnh
thuộc thần tính này: Ngài chỉ nói về một Thiên Chúa tốt lành, dịu dàng, đầy
tình cha con mà thôi, không bao giờ giận dữ và không làm ai phải sợ. Một Thiên
Chúa chỉ là tình yêu vô hạn mà không đồng thời là quyền năng vô hạn. Marcion là
người đầu tiên đưa ra tuyên bố này. Thánh Irênê viết: "Marcion, người phân
chia Thiên Chúa thành hai và phân biệt một "Thiên Chúa tốt lành" với
một "Thiên Chúa xét xử", hủy bỏ Thiên Chúa ở cả hai phía. Quả thực, nếu
Thiên Chúa xét xử mà không đồng thời tốt lành, Ngài không phải là Thiên Chúa,
vì không có Thiên Chúa nào mà không tốt lành; ngược lại, nếu Thiên Chúa tốt
lành mà không đồng thời xét xử, Ngài sẽ chịu số phận như Đấng trước và sẽ mất
đi phẩm chất của Thiên Chúa[1]."
Luận điểm của Marcion đã được nhóm Cathares lấy lại thời Trung cổ, và trong thời
gian gần đây hơn, Simone Weil lặp lại, với những hạn từ tinh vi hơn. Như vậy,
người ta đi tới kết quả là tách rời Tân Ước khỏi Cựu Ước, như thể Tân Ước thuộc
về một Thiên Chúa khác, cho tới lúc đó không được biết đến.
Một cách nhìn như vậy
không đúng với cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Ý tưởng về một Thiên Chúa của Cựu Ước chỉ
có nghiêm khắc và công bình khơi dậy những phản ứng có cơ sở nơi người anh em
Do Thái của chúng ta, vì không để ý đến những kiểu nói thống thiết về sự dịu
dàng của người cha mà các tiên tri đặt vào miệng Thiên Chúa (x. Gr 31,20; Hs
11,8-9). Cũng thế, luận đề cho rằng Thiên Chúa của Phúc Âm chỉ tốt lành và nhân
từ, cũng không chính xác.
Đức Giêsu mời gọi chúng
ta kính sợ Thiên Chúa, Đấng có thể đưa người ta xuống địa ngục. Ngài loan báo một
cuộc phán xét mà chính Ngài sẽ là thẩm phán và sẽ tuyên bố điều khủng khiếp: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt
ta... " (Mt 25,41). Phaolô sẽ tiếp tục nói về cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa (x. Rm 1,18) và một chỗ khác của Tân Ước cảnh báo chúng ta: “Thật là khủng khiếp khi phải rơi vào tay
Thiên Chúa hằng sống” (Dt 10,31).
Sự mới mẻ do Đức Giêsu
mang lại thì khác. Nó dạy chúng ta biết rằng, Thiên Chúa, trong khi vẫn là như
Người là, tức Thiên Chúa rất thánh, tối cao, toàn năng, từ đây được ban cho
chúng ta theo một cách mới, như một người cha, hoặc đúng hơn, như một abba, (papa). Chúng ta không thấy ở đó một
ý tưởng phai nhòa hay nhạt nhẽo nào về Thiên Chúa. Kinh "Lạy Cha"
liên kết hai khuôn mặt này của Thiên Chúa. Những từ “Cha chúng con” bày tỏ sự hạ
cố, gần gũi, nhân hậu, tình phụ tử lớn nhất của Thiên Chúa. Người là
"cha" và là "của chúng ta". Ngược lại, các từ "ở trên
trời" duy trì sự xa cách, siêu việt, thánh thiện[2],
vì kiểu nói "ở trên trời" không chỉ một nơi chốn, nhưng một điều kiện
hiện hữu; hoặc, nói cách khác, Thiên Chúa là thần trí chứ không phải xác thịt,
vô phương đạt tới, tối cao, "xa chúng ta như trời xa đất" (x. Is
55,9).
Nét cao cả và mới mẻ này
trong lời dạy của Đức Giêsu về Thiên Chúa hằng sống có thể cô đọng trong một
câu ngắn gọn: "Chúng ta có một Thiên Chúa là cha! Chúng ta có một người
cha là Thiên Chúa!" Giáo Hội đã trung thành giữ lại hình ảnh tương phản
này về Thiên Chúa: đầu kinh tin kính, Giáo Hội quả quyết: "Tôi tin kính một
Thiên Chúa, là Cha toàn năng." Cha, nhưng toàn năng; toàn năng, nhưng là
Cha.
Không chỉ bằng lời nói,
Đức Giêsu còn hoàn tất mạc khải về Thiên Chúa hằng sống bằng một sự kiện cụ thể:
cái chết của Ngài trên thập giá. Cây thánh giá là biểu hiện tối cao của Thiên
Chúa hằng sống; đó là sự phán xét tối hậu của Thiên Chúa trong lịch sử. Thật có
ý nghĩa khi sách Khải huyền trình bày thập giá như “ấn của Thiên Chúa hằng sống” (Kh 7,2tt).
Xem xét loạt biểu hiện
kép này của Thiên Chúa hằng sống, người ta có thể vẫn bị vấp phạm bởi Thiên
Chúa này, Đấng lúc phạt, lúc tha; khi thì bùng lên cơn giận, khi thì tràn đầy tốt
lành. Người ta có thể nghĩ là đang đối phó với một hữu thể thất thường và tùy
tiện hoặc ít nhất là không thể đoán trước được. Thực sự, mối nguy hiểm này
không phải lúc nào cũng tránh được trong một số công trình tái tạo hiện tượng học
tôn giáo, như chúng ta đã chỉ ra ở trên. Ở đây, lời giải thích duy nhất được
đưa ra cho chúng ta bằng khái niệm phi lý tính. Thiên Chúa bày tỏ nơi mình cả
khía cạnh thuộc lý tính, mà chúng ta có thể hiểu được, lẫn khía cạnh thuộc phi
lý tính không làm sáng tỏ được bằng các phạm trù thuộc lý tính, nhưng bằng các
phạm trù và các biểu tượng khác.
Cây thánh giá là chìa
khóa thực sự để giải quyết sự hàm hồ này. Thiên Chúa không phải khi thì nghiêm
khắc, khi lại nhân từ, theo sở thích thay đổi. Ngài không tùy tiện và vô cớ tỏ
ra toàn năng lúc này, nhân từ lúc khác. Câu giải thích cho đặc tính lưỡng giá
này là như sau: Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng nhân từ với tội nhân; Ngài là
thánh, nhưng đáng sợ và không khoan dung đối với tội lỗi. Một công thức được
cho là của thánh Augustinô nói lên điều đó: "Ta ghét các công việc ngươi
làm ; còn ngươi, ta yêu ngươi" (Odi
tua, amo te). Thiên Chúa không giận ghét cũng không khinh miệt các thụ tạo
của Ngài (x. Kn 11,21-26). Điều Ngài giận ghét, và “cho đến muôn ngàn đời”, có
nghĩa là cho đến những hậu quả tối hậu, chính là điều Ngài đã không làm, điều
Ngài đã không muốn, đó là sự dữ. Và sự dữ là kẻ đầu tiên hủy diệt các thụ tạo.
Vậy cơn giận của Ngài đối với tội lỗi là cơn giận chống lại kẻ thù chung; cuối
cùng, giận đó mà yêu đó. Vì vậy, khi nghe chính Thiên Chúa tuyên bố: “Trong lúc tức giận, Ta đã đánh phạt, nhưng
vì ân tình, Ta lại xót thương ngươi” (Is 60,10), chúng ta hãy hiểu rõ ý nghĩa
của câu nói: “Ta đã đánh vào cái ác của ngươi vì xót thương ngươi”.
Vậy cây thập giá là mạc
khải tối cao của Thiên Chúa hằng sống trong Kinh Thánh theo nghĩa nào ? Theo
nghĩa thập giá là chữ "không" khủng khiếp nhất đối với tội lỗi và là
chữ "có" đáng yêu nhất đối với tội nhân. Thánh Phaolô viết rằng đối với
chúng ta, Thiên Chúa đã đồng hóa Đức Giêsu với tội lỗi, để nhờ Ngài mà chúng ta
trở nên công chính và thánh thiện, nghĩa là được Thiên Chúa yêu thương (x. 2Cr
5,21). Ngài đã "lên án tội trong
thân xác Con mình để sự công chính được hoàn toàn thực hiện nơi chúng ta"
(x. Rm 8,3-4) Sự toàn năng và tình yêu không đối lập nhau và cũng không đơn thuần
được đặt cạnh nhau hoặc được định lượng một cách khéo léo, nhưng được đặt trong
mối tương quan sinh tử: Thiên Chúa biểu lộ sự toàn năng của Ngài bằng cách
thương xót.
Công lý và hòa bình liên
kết chặt chẽ với nhau nơi thập giá Đức Kitô, sự thánh thiện của Thiên Chúa và
tình yêu của Ngài dành cho con người gặp gỡ nhau. Kể từ đây, chính khi chiêm ngắm
thập giá Đức Kitô mà chúng ta nhận biết Thiên Chúa hằng sống; điều này giải
thích tại sao những người chỉ tìm kiếm Ngài trong sách vở hoặc trong các hệ thống
triết học lại dễ dàng không thấy Ngài. Kiểu nói "thần học về thập
giá" (theologia crucis) cho thấy
rằng chỉ nhờ nó mà thôi, từ nay người ta không thể nói về Thiên Chúa nữa (chính
xác là làm thần học) mà không bắt đầu từ thập giá. "Người ta không trở
thành nhà thần học bằng cách hiểu, đọc hay suy tư, nhưng bằng cách sống và, ở
giới hạn cuối cùng, bằng cách chết và bằng cách trải nghiệm sự kết án[3]".
Nói cách khác, bằng cách sống mầu nhiệm thập giá.
Như ta thấy: Kinh Thánh
vượt xa quan sát thuần túy thuộc hiện tượng học cho rằng Thiên Chúa là một mầu
nhiệm đáng sợ và lôi cuốn!
Ngay cả trước khi Đức
Kitô chết trên thập giá, sự ra đời của Ngài đã mở đầu một giai đoạn mới trong sự
hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa hằng sống. Nhập thể và Mầu nhiệm Vượt qua
đã cùng nhau thay đổi sâu sắc mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hằng sống,
bằng cách làm cho việc thờ ngẫu tượng vĩnh viễn lỗi thời và "không thể bào
chữa". Chính Thiên Chúa đã trình bày hình ảnh của Ngài, vì Đức Kitô là “Hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl
1,15). Một hình ảnh không được tạc bằng một chất liệu nào khác – đá cẩm thạch,
đá hay bất cứ nguyên tố nào khác được tạo thành – nhưng là cách diễn tả chính bản
chất của Thiên Chúa. Một hình ảnh "đồng bản thể", như Công đồng Nicêa
sẽ nói và được lặp lại trong Kinh Tin Kính. Thật vậy, Chúa Con “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung
thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3).
Trước câu hỏi của Đức
Giêsu: “Người ta bảo Thầy là ai?”,
Phêrô trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,6). Từ nay, trên trái đất, Thiên Chúa hằng sống
được biểu thị "chính yếu" bởi Chúa Con. Không còn cần đến những hình ảnh
biểu thị, người đóng thế hay một vật thế chân nào đó. Từ nay và trong thời gian
còn lại, chúng ta sẽ không còn biết Thiên Chúa nữa qua một hình ảnh do bàn tay
con người tạo ra, nhưng qua hình ảnh mà Ngài đã ban cho chúng ta về chính Ngài;
không còn qua một ý tưởng nữa, nhưng là trong một thực tại. "Thiên Chúa đã phán: ánh sáng hãy bừng lên từ
nơi tối tăm. Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng con, để tỏ
bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức
Kitô” (2Cr 4,6). Vinh quang Thiên Chúa mà có thời không thể trông thấy mà vẫn
sống (x. Xh 33,18-20), thì từ nay, tất cả mọi người đều có thể chiêm ngưỡng
vinh quang ấy trên trái đất.
Chúng ta hãy cùng với
Giáo Hội dâng lời cầu nguyện:
Lậy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu
lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả. Xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới
Nước Trời, là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, mà chúng con đang hết lòng theo đuổi.
Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.[4]
[1] Thánh Irênê, Contre les hérésies, III, xxv, 2; trad. Rousseau, Paris, Cerf,
1983.
[2] x. R. Otto, Le Sacré (cité note 12), 14, p. 124-126.
[3]
M. Luther, Sur les psaumes (WA
5, p. 163).
[4]
Sách Lễ Rôma, Lời nguyện Chúa nhật
XXVI Mùa Thường niên.