6
THIÊN CHÚA, NÚI ĐÁ VĨNH CỬU
Từ những phán xét của Thiên Chúa, chúng ta đã cố gắng
đánh thức nơi mình “cảm thức” về Thiên Chúa hằng sống. Như chúng ta đã thấy ở
trên, cùng một cảm thức này có thể được khơi dậy bằng loại suy và tương phản.
Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một hình ảnh thuộc loại này, hình ảnh Thiên
Chúa–núi đá : một thực tại trong số những thực tại vật chất và tĩnh tại nhất hướng
tới thực tại thiêng liêng nhất và năng động nhất (cách tương phản); một thực tại
trong số những thực tại vững chắc nhất và quan trọng nhất trở thành biểu tượng
của Đấng không thay đổi và không thể lay chuyển (cách loại suy). Có ít tước hiệu
Kinh Thánh dành cho Thiên Chúa có thể tạo ra nơi chúng ta một cảm giác cũng sống
động, cho dù là tự phát và phi lý, bằng cảm giác về đá; hơn những cảm giác
khác, nó giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa là gì và đặc biệt Ngài là gì đối với
chúng ta. Vậy, như lời Kinh Thánh mời gọi, chúng ta hãy tìm cách để cả chúng ta
cũng được thưởng thức "mật ong chảy
ra từ hốc đá" (Đnl 32,13).
Cần xác định rõ là Kinh Thánh không áp dụng cho Thiên
Chúa phẩm tính “đá tảng” hay “núi đá” như một tước hiệu thuần túy, mà đúng hơn
như một tên riêng, đến mức đôi khi người ta thấy nó được viết hoa: “Người là Núi Đá, sự nghiệp Người hoàn hảo”
(Đnl 32,4); “Đức Chúa là Núi Đá bền vững
ngàn năm” (Is 26,4). Một hình ảnh như vậy, bởi sự cứng cáp và vô cảm mà nó
gợi lên, có thể khiến chúng ta sợ hãi hoặc đe dọa chúng ta. Ngoài ra, bản văn
thánh còn được bổ túc ngay bằng một phẩm tính khác: Thiên Chúa là "đá tảng
của chúng ta", "đá tảng của tôi". Ngài là núi đá cho chúng ta và
không chống lại chúng ta. “Chúa là đá tảng
của con, là núi đá cho con trú ẩn” (Tv 18,3); “Núi đá và thành lũy bảo vệ con, chính là Chúa” (Tv 31,4); “Tung hô Người là Núi Đá độ trì ta” (Tv 95,1).
Những người dịch Kinh Thánh đầu tiên, nhóm Bẩy Mươi, đã do dự trước một hình ảnh
vật chất như vậy về Thiên Chúa, hình ảnh này dường như hạ thấp Ngài; họ đã thay
thế một cách có hệ thống thuật ngữ cụ thể "núi đá" bằng những từ trừu
tượng như "sức mạnh", "nơi ẩn náu", "sự cứu độ".
Để đúng nghĩa hơn, tất cả các bản dịch hiện nay đều trả lại cho Chúa tước hiệu
ban đầu là núi đá.
Khi từ thung lũng đi lên và sau khi vượt qua một con
đèo, lần đầu tiên tôi nhìn thấy núi Cervin trước mắt, tôi nhận ra ngay điều
Kinh Thánh muốn chúng ta hiểu khi đặt cho Chúa cái tên "núi đá" này.
Trước hinh chóp bằng đá này, nổi bật đơn độc và gần như siêu nhiên trong bầu trời
xanh, người ta cảm thấy mình rất nhỏ bé và như bị một hình thức khiêm tốn kỳ lạ
bắt chộp. Mọi người im lặng theo dõi, không bình luận gì. Cervin vẫn bất động.
Còn chúng tôi, khi trở lại thung lũng, chúng tôi chỉ mang theo ấn tượng cảm nhận
được và một vài tấm ảnh lưu niệm. Không giống như vậy đối với Núi Đá kia. Nếu
chúng ta muốn Ngài, Ngài theo chúng ta, chúng ta giữ Ngài trong tim. Về tảng đá
có nước vọt ra trong sa mạc, Kinh Thánh chép rằng tảng đá này đã “đi theo” dân
(x. 1Cr 10,4). Với Thiên Chúa thì cũng như vậy.
Để thực sự khám phá ra "Thiên Chúa–Núi Đá" là
gì, cần phải có kinh nghiệm trước đó: kinh nghiệm là mọi sự sẽ qua đi. Ngày qua
đi, phút này qua phút khác, và bất chợt chiều buông. Hết mùa này đến mùa khác.
Cây cối đang nở hoa, kết trái, rồi rụng lá và mùa đông trở lại. Sẽ có lúc cây
già cỗi gẫy đổ. Đó là số phận của vạn vật; đó cũng là số phận của con người.
Vì mong muốn không qua đi và không chết hoàn toàn, người
ta tìm cách bám vào tuổi trẻ, hoặc vào tình yêu hay vào con cái, hoặc thậm chí
vào danh vọng, xác tín rằng qua đó mà dựng lên "những tượng đài bền vững hơn
đồ đồng". Vô ích! Chính lúc sinh ra là lúc bắt đầu đếm ngược không ngừng cả
ngày lẫn đêm. “Ấy con người khác chi hơi
thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (Tv 144,4).
Trước kinh nghiệm phổ quát là mọi sự qua đi, con người
phản ứng như thế nào? Trước Đức Kitô, người ta thấy có những câu trả lời đối
nghịch nhau nhất. Triết gia Parménide cho rằng mọi sự đều bất động và thay đổi
chỉ là vẻ bên ngoài; tựu trung, không có gì thực sự qua đi. Sau ông, một triết
gia khác là Héraclite đã dạy ngược lại: trên đời không có gì là bất biến, mọi sự
đều trong quá trình trở thành; người ta gán cho nó từ nổi tiếng panta rei: "mọi sự đều qua
đi". Rồi đến một nhà tư tưởng thứ ba, Empédocle, người đã tìm một thỏa thuận
giữa hai thái cực trên. Theo ông, đúng là mọi sự đều qua đi, nhưng một cái gì
đó vẫn tồn tại dưới dòng chảy không ngừng của vạn vật. Cái đó, ông gọi là “Duy
Nhất"," Thiên Cầu ", hay "Thần lực sinh sản", nhưng
ông không thể nói thêm về nó và thậm chí bị mắc kẹt trong một vài mâu thuẫn.
Tuy vậy, ông hòa nhập vào điều mà các
Giáo Phụ sẽ gọi là “sự chuẩn bị Phúc Âm”: ông lờ mờ cảm nhận trước chân lý được
Kinh Thánh công bố khi Kinh Thánh gán cho Thiên Chúa danh xưng “Núi Đá vĩnh cửu”.
Trong thiên nhiên, núi đá gợi lên những gì bất biến qua những thay đổi địa chất
và khí hậu của cảnh quan xung quanh:
"Chúng tiêu
tan, Chúa còn hoài
Chúng như
áo cũ thảy rồi mòn hao
Ngài thay
chúng khác nào thay áo
Nhưng chính
Ngài tiền hậu y nguyên
tháng năm
Ngài vẫn triền miên” (Tv 102, 27tt).
Có lẽ bị ấn tượng bởi sự tương phản giữa cát của sa mạc
và đá của núi Sinai, phải chăng các thi sĩ Israel đã khám phá ra ở đó một biểu
tượng về sự khác biệt giữa con người và
Thiên Chúa? Con người như “cát”; Thiên Chúa thì như “đá tảng vĩnh cửu".
Thánh Têrêxa Avila đã cô đọng nhận thức của cảm thức này về Thiên Chúa trong một
vài công thức ngắn gọn: "Không để điều gì làm phiền bạn, không để điều gì
làm bạn kinh hãi. Tất cả đều qua đi, chỉ còn lại một mình Thiên Chúa. Kiên nhẫn
chiến thắng mọi sự. Người có Chúa không thiếu thốn gì. Chỉ mình Chúa là đủ."
Còn về Thiên Chúa–Núi Đá, sự xuất hiện của Đức Kitô mang
lại một sự mới mẻ căn bản. Người ta không còn có thể nói về Thiên Chúa bằng
cách dừng lại trước Đức Kitô, hoặc bỏ qua không nói đến Đức Kitô: làm thế là cắt
xén mạc khải. Khi nói về tảng đá vẫn “đi theo” dân Israel trong sa mạc, thánh
Phaolô viết: “Tảng đá này chính là Đức
Kitô” (x. 1Cr 10,4). Tảng đá không thể tiếp cận được đã trở nên rất gần gũi
và hữu hình trong Ngôi Lời đã đến ở giữa chúng ta. “Hốc đá”, nơi ông Môsê trú ẩn
để chiêm ngắm Thiên Chúa (Xh 33,21), theo các Giáo Phụ, tiên trưng cho nhân
tính của Đức Kitô, cho phép chúng ta tiếp xúc với Thiên Chúa mà không bị vinh
quang của Ngài tiêu diệt. Từ đó mà có lời mời
gọi của thánh Bonaventura và các thánh khác gửi đến những tâm hồn khao
khát Thiên Chúa: họ hãy như chim bồ câu ẩn trong hốc đá, "trong vách núi cheo leo" (Dc 2,14),
nghĩa là trong cạnh sườn mở rộng của Đức Kitô[1].
Từ cõi chết sống lại, Đức Kitô đã trở thành tảng đá theo
cách mới, “đi theo” chúng ta trong suốt dòng lịch sử. Xây trên lời Ngài chính
là xây trên đá (x. Mt 7,24). Ngài là “đá tảng góc tường” mà Giáo Hội đặt nền
móng trên đó (x. Ep 2,20), viên đá bị chối bỏ đã trở thành “đá tảng góc tường”
(1Pr 2,6), nhưng cũng là “hòn đá làm cho vấp” những ai từ chối (Rm 9,32tt). Đá
Tảng vĩnh cửu từ đây trở thành "đá tảng của chúng ta", "đá tảng
cứu rỗi chúng ta".
Tước hiệu "đá tảng" này không phải là một hình
ảnh trừu tượng; nó không chỉ cho biết Thiên Chúa là gì mà còn cho biết chúng ta
phải làm gì. Tảng đá ở đó không chỉ để được chiêm ngắm từ xa, mà còn để được
trèo lên, để người ta tìm được nơi ẩn náu ở đó. Tảng đá thu hút, mê hoặc. Nếu
Chúa là một tảng đá, con người phải trở thành một người leo núi đá. Bất quá người
ta có thể nghĩ đến một câu lạc bộ rất đặc biệt: "Những người bạn của Núi
Đá". Đức Giêsu nói: "Hãy học từ chủ nhà"; "Hãy nhìn tội
nhân." Thánh Giacôbê nói thêm: "Hãy xem người nông dân." Chúng
ta có thể bổ túc: "Hãy xem những người leo núi." Họ thấy cơ thể nặng
nề của họ không ược an toàn nếu chỉ bám vào những cây con mọc từ chỗ đá nứt ; họ
không chọn những lối đi có nhiều người qua lại, lấy lý do là thuận tiện hơn.
Khi màn đêm buông xuống hoặc một cơn gió lốc báo hiệu, họ không dại dột tìm
cách leo xuống, nhưng còn bám chặt hơn vào đá chờ yên tĩnh trở lại. Họ ép sát
vào đá, bám chặt tay chân vào đó; theo nghĩa đen, họ như được tán vào đó bằng
đinh. Chớ gì cách hành xử của chúng ta với Đá Tảng của chúng ta là như thế.
Cách chắc chắn nhất để gắn bó với Đá Tảng ấy là gắn chặt vào thập giá, “đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá” (Gl
2,19). Bằng cách ôm chặt lấy Ngài, là viên đá sống động, thì chính chúng ta
cũng sẽ có thể trở thành “những viên đá sống
động” (x. 1Pr 2,4). Những viên đá rất nhỏ.
Một Thánh vịnh kể lại cuộc phiêu lưu của một tín hữu sắp
từ bỏ Thiên Chúa “khi nhìn thấy những kẻ ác lên ngôi”. Khi ngẫm lại, người đó
hiểu rằng mình sai: những kẻ vô đạo đi trên đường trơn trượt và sụp đổ trong
nháy mắt. Khi đó, nhận ra việc được đặt nền trên đá tảng có ý nghĩa gì, người
đó thốt lên: "Đá tảng của trái tim
tôi chính là Thiên Chúa... thật tốt cho tôi được ở gần Chúa, tôi đã nương náu
bên cạnh Thiên Chúa của tôi” (Tv 73). Đây chẳng phải là một định nghĩa tuyệt
vời về đức tin sao, nếu thật sự credo
("Tôi tin") nguyên thủy có nghĩa là "để trái tim mình dựa vào
cái gì đó"?
Hình ảnh một trái tim nằm yên trên đá tảng mới gây ấn tượng
làm sao! Thực tại yếu ớt nhất tiếp xúc với thực tại cứng cát nhất. Các người
leo núi hẳn sẽ gợi ra một câu trả lời tốt cho câu hỏi này. Họ dành nhiều ngày
đêm đương đầu với tảng đá và họ tin tưởng nó sẽ bảo đảm cuộc sống của họ; cuối
cùng họ khám phá ra tất cả các tĩnh mạch của nó. Dưới ngón tay của họ, tảng đá
dường như linh hoạt, đáp lại, trở thành tảng đá sống động. Họ nói về nó bằng những
giọng thơ. Đối với chúng tôi, Thiên Chúa là tảng đá sống động, có trái tim phập
phồng, một tảng đá dịu dàng! Vì vậy, một Vịnh gia khác có thể ca lên: "Lạy Chúa là núi đá, con yêu mến Ngài!"
(Tv 18,2). Cần lưu ý rằng đây là đoạn văn duy nhất trong Cựu Ước mà con người
thưa với Thiên Chúa "Con yêu mến Ngài" (thường ra, chính là Thiên
Chúa nói như thế với con người). Và con người thưa như thế khi nói với Thiên
Chúa–Núi Đá!
Kinh Thánh nhấn mạnh Thiên Chúa–Núi Đá là muốn thụ tạo
bén rễ sâu trong lòng tin phó thác và xua đuổi ra khỏi lòng mọi nỗi sợ hãi. Một
Thánh vịnh nói: “Dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu, ta cũng chẳng sợ gì”. Người ta đưa ra lý do:
“Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta”
(Tv 46,3). Đó là sự tin tưởng được diễn tả trong bài thánh thi: "Thiên
Chúa của tôi là pháo đài không thể lay chuyển", là bài ca đã góp phần rất
nhiều vào việc hình thành tình cảm tôn giáo của thế giới Tin lành[2].
Trước mặt Thiên Chúa–Núi Đá này, chỉ còn một nỗi sợ hãi thôi. Nhưng nó không thực sự là sợ hãi, mà là kính sợ: kính sợ
thánh đối với Thiên Chúa.
Mạc khải về Thiên Chúa–Núi Đá phải đưa chúng ta đến một
quyết định hiện sinh: đi về phía núi đá này, leo lên nó, "giữ chặt đôi
chân chúng ta ở đó". Như chúng ta biết, từ "Vượt Qua" có nghĩa
là "đi qua". Tự nó, đi qua là một thực tại tiêu cực, hàm chứa ghi nhận
về sự bất ổn, tạm thời. Có phải lễ Vượt Qua là bí tích của tạm thời, một sự xác
nhận không biết thứ mấy rằng "mọi sự đang qua" chăng? Hoàn toàn ngược
lại! Cử hành lễ Vượt Qua có nghĩa là vượt qua, nhưng là “vượt qua thế gian này về với Chúa Cha” (x. Ga 13,1), đi từ sự bất ổn
của thế gian này đến với Nước Thiên Chúa vững chắc hơn mọi sự. Và chính để
không vượt qua cùng với thế gian này, mà chúng ta đi đến tảng đá tồn tại đến
muôn đời. Tất nhiên, mọi người đều vượt qua, cả tốt lẫn xấu. Nhưng vượt qua
"khỏi" thế gian hoàn toàn khác với vượt qua "cùng với" thế
gian. “Thế gian đang qua đi, cùng với dục
vọng của nó, còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi”
(1Ga 2,17).
Chúng ta hãy cùng với Giáo Hội dâng lời cầu nguyện:
Lậy Chúa,
xin cho chúng con hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được
Chúa cho khăng khít với Chúa, Chúa sẽ chẳng bỏ rơi bao giờ[3].
[1] cf. Grégoire de Naziance, Discours 28, 3 (PG 36, 29); saint Bonaventure, L’arbre de vie, VIII, 30; x. d’Oeuvres spirituelles, t. 3, Paris-Gembloux, 1932, p. 98 sv.
[2] Luther, Hymne “Mon Dieu est une forteresse imprenable”.
[3] Sách Lễ Rôma, Lời nguyện Chúa nhật XII Mùa Thường niên.