9
LẠY CHÚA,
CHÚA LÀ AI VÀ CON LÀ AI?
Những lời cuối cùng của lời cầu nguyện mà chúng ta vừa
nghe ("Xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con") nói lên một sự
thật quan trọng: biết Chúa cũng là cách để biết mình. Chỉ khi biết Chúa, chúng
ta mới biết mình.
Thời cổ đại, nhà hiền triết tự đặt cho mình một mệnh lệnh:
"Ngươi hãy tự biết mình" và ông đã vận dụng mọi phương tiện ông có để
thực hiện điều đó. Thời hiện đại đã thêm vào những kỹ thuật hoặc phương tiện nội
quan truyền thống một phương tiện khác riêng của mình: tâm lý học chiều sâu.
Trong những hành trình này và những hành trình khác tương tự, người ta luôn và
chỉ giữ lại những yếu tố, khía cạnh và tâm trạng riêng. Thiếu một nhận thức tổng
hợp và toàn thể về bản thân như một con người, như một toàn bộ. Vì vậy, người
ta không đạt được kiến thức thực sự về bản thân, vì "chỉ những gì hoàn chỉnh
mới đúng".
Để có được kiến thức như vậy, cơ sở duy nhất và thước đo duy nhất, chỉ
có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa. Kierkegaard, một triết gia mà chúng ta sẽ còn
có cơ hội gặp gỡ trong chuyến đi của mình, đã viết: "Người ta nói rất nhiều
về nguy khốn, về những lầm than của con người; tôi cố gắng hiểu chúng và tôi đã
nhìn sát những khía cạnh khác nhau của chúng; người ta nói nhiều về những cuộc
sống lãng phí, nhưng chỉ lãng phí cuộc sống của người nào đã trải qua những
ngày sống mà để cho bản thân bị những niềm vui hay nỗi buồn của cuộc sống phỉnh
phờ, đến mức người đó chưa bao giờ có một ý thức vĩnh viễn và dứt khoát về bản
thân như một thần trí, như một “cái tôi", hoặc, tương tự như vậy là không
bao giờ nhận thấy cũng như có cảm tưởng sâu sắc rằng có một Thiên Chúa, và rằng
"chính mình", con người của mình, cái tôi của mình được tạo ra cho
Thiên Chúa... Và dường như tôi có thể khóc thương vĩnh viễn trước nỗi thống khổ
này, nơi người ta thấy rất nhiều người trải qua cuộc đời của họ[1]."
Khi con người chấp nhận Thiên Chúa hằng sống trong cuộc
đời của họ, khi đó họ mới trở thành con người trọn vẹn và ý thức về chính mình.
Cũng triết gia trên tiếp tục viết: "Người chăn bò (nếu sự việc có thể xẩy
ra) là một cái tôi trước những con bò cái, một cái tôi rất thấp kém; một ông chủ
cũng là một cái tôi trước nô lệ; nhưng trong cả hai trường hợp, không có cái
tôi đích danh, vì không có thước đo. Đứa trẻ mà cho đến bây giờ không có thước
đo nào khác ngoài cha mẹ nó, trở thành một cái tôi ở tuổi trai tráng, khi nó có
Nhà Nước là thước đo... Nhưng cái tôi được nhấn mạnh đến vô hạn như thế nào,
khi nó có Thiên Chúa là thước đo của nó! Cái tôi vươn lên đầy quyền lực với thước
đo của cái tôi, và quyền lực vô hạn khi Thiên Chúa là thước đo của nó... Chính
khi cái tôi ý thức mình đang ở trước mặt Thiên Chúa, và chỉ khi đó, nó mới là
cái tôi vô hạn."
Có một thời, vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, người
ta không còn truyền bá ý tưởng về một Thiên Chúa ngôi vị và mạc khải chủ động.
Các triết gia và thi sĩ thích nhìn thấy trong Nhà Nước, trong Thiên Nhiên, trên
Thế Giới hoặc trong Tinh Thần (được hiểu là sản phẩm toàn cầu của sự tự do của
con người và lãnh vực của nó), nền tảng cuối cùng, nơi con người định vị mình
và ý thức về mình. Đã không có một thước đo quy chiếu xác thực! Khi đó, con người
giống như những đại thánh đường thời Trung cổ, rất uy nghi trong một không gian
quá nhỏ hẹp. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã có những công trình xây dựng sát
bên, thành ra không có sự giải phóng mặt bằng cần thiết để có thể chiêm ngưỡng
toàn bộ. Người ta cảm thấy khó chịu về mặt thể lý: các chi tiết chắc chắn có thể
nhìn thấy được nhưng lại thiếu viễn cảnh chung, mà chỉ viễn cảnh này mới cho
phép chiêm ngưỡng công trình trong tổng thể và môi trường của nó.
Không khó để tìm ra lý do cho việc thu hẹp chân trời
liên hệ đến con người. Không thừa nhận điều đó với bản thân, con người dường như
tìm cách tránh né bất cứ cuộc đối đầu nào, nếu không chắc chắn trước là sẽ chiến
thắng. Họ biết mình sẽ chiến thắng trong cuộc đương đầu với thiên nhiên và với
thế giới, bởi vì "khi bị vũ trụ đè bẹp, con người còn cao quý hơn thứ giết
chết họ, vì họ biết mình chết và vũ trụ đang có lợi thế trước họ; nhưng 'vũ trụ
lại không biết gì về điều đó[2].
Nhưng mặt khác, con người cũng biết rất rõ là mình sẽ không có được chiến thắng
(theo nghĩa mà họ gán cho từ này) trong cuộc đối đầu với Thiên Chúa hằng sống.
Vì vậy mà họ từ chối đối đầu. Qua đó, họ khước từ "tính xác thực" thường
được tuyên bố là lý tưởng tối cao của mình. Họ khước từ việc biết mình là ai. Họ
vẫn là một "người chăn bò đáng thương".
Con người tôn giáo, đặc biệt là thánh nhân, không tìm gì
khác hơn là một cuộc đối đầu như vậy. Họ coi nó quan trọng hơn mọi sự khác. Họ
mong muốn nó, ngay cả khi biết rằng mình sẽ kết thúc như bị thiêu đốt, bởi vì họ
không chỉ tìm thấy ở đó “hữu thể” của mình được mạc khải, mà cả "thân phận
tội lỗi" của mình nữa. Thánh Phanxicô Assisi đã dành nhiều đêm để lặp đi lặp
lại: "Lạy Chúa rất dịu dàng của con, Chúa là Đấng nào? Còn con đây, đầy tớ
vô dụng của Chúa, con là ai?” Có khi ngài ngước nhìn lên trời, với đôi mắt được
bầu trời làm sáng lên; có khi ngài nhìn xuống đất, tất cả đều lộn xộn. Ngài tâm
sự rằng "nói lên những lời này đã mang lại cho ngài hai ánh sáng, một là
ánh sáng của mạc khải và của sự hiểu biết về Đấng Tạo Hóa, còn ánh sáng kia là
của sự hiểu biết về chính ngài[3]."
Kiến thức kép này đã luôn tạo nên cho các thánh và các hiền nhân tột đỉnh sự
khôn ngoan đích thực.
Một nhân vật hiện đại đã khám phá ra Thiên Chúa trong
linh hồn mình và biến hai thực tại này, Thiên Chúa và linh hồn, trở thành hai cực
điểm định hướng cho sự tìm tòi của mình, đó là Hồng y Newman. Ngài mô tả sự
“hoán cải” của mình ở tuổi mười lăm như sau: “Tôi cảm thấy ngờ vực là tôi đã có
liên quan đến thực tại của các hiện tượng vật chất: và tôi tập trung mọi suy
nghĩ của mình vào hai hữu thể, và chỉ hai hữu thể mà thôi, mà sự hiển nhiên của
chúng là tuyệt đối và rõ ràng: chính tôi và Đấng Tạo Hóa của tôi." Ngài
nói thêm rằng nếu ai đó hỏi ngài tại sao lại tin vào Thiên Chúa, ngài sẽ trả lời:
"Bởi vì tôi tin vào bản thân mình. Quả thực, tôi cảm thấy không thể tin
vào sự hiện hữu của tôi mà lại không tin vào Đấng sống như một hữu thể có ngôi
vị, Đấng nhìn thấy mọi sự và phán xét mọi sự trong lương tâm tôi. Tôi tin mình
đúng. Làm sao tôi biết điều đó? Tôi biết là tôi biết điều đó[4]!"
Rõ ràng, đây không phải là một minh chứng có giá trị phổ
quát về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đây là một chứng từ. Nhưng đối với chủ đề
mà chúng ta đang bàn trong cuốn sách này, một chứng từ, như từ đây chúng ta biết,
có giá trị như một minh chứng, nếu không muốn nói là còn hơn thế nữa. Kant viết:
“Phải tuyệt đối tin chắc về sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng sau đó không cần
phải chứng minh sự hiện hữu đó[5].”
Trên hành trình từ Ý trở về quê hương, Newman đã sáng
tác một bài cầu nguyện nổi tiếng bằng thơ. Chúng ta sắp biến nó thành của chúng
ta, ít nhất một phần, cầu xin cho ánh sáng chiếu trên chúng ta, thứ ánh sáng đã
chiếu trên ngài lúc mười lăm tuổi, và khiến ngài vui mừng kêu lên: "Chính
tôi và Đấng Tạo Hóa của tôi! "
Hỡi ánh
sáng dịu dàng,
Xin hướng dẫn
con trong bóng tối bao quanh con,
Ôi! Xin hướng
dẫn con!
Đêm dày đặc
và con ở xa nhà.
Xin hướng dẫn
con về phía trước!
Xin canh giữ
đường con đi:
Con không
xin được thấy chân trời ở xa,
chỉ một bước
là đủ cho con!
[1] S. Kierkegaard, La maladie mortelle, IB & II, 1; x. Oeuvres, t. 16, Paris, Orante, 1971, pp. 184 & 235.
[2] B. Pascal, Pensées, éd. Brunschwicg, 347.
[3] Fioretti de saint Francois, 3e considération sur les stigmates; cf. saint Francois d’Assise/Document, 2e éd., Paris, E!d. Franciscaines, 1981, p. 1228 sv.
[4] J.H. Newman, Apologie pour sa vie, I et IV, 2, 5; cf. Textes nawmaniens, t. I, Paris 1955, p. 111 et 163 sv.
[5] cf. E. Kant, L’unique fondement possible (cité note 40) 3e partie.