15
LẠY CHÚA TỂ HOÀN VŨ,
CON TẠ ƠN NGÀI!
Thường ra, khi phân tích người có tôn giáo, phương thức
tiến hành cơ bản giống như phương thức tiến hành đối với Thiên Chúa: người ta
không muốn bàn về thực tại, nhưng là về ý tưởng; về những khuôn đúc của người
có tôn giáo, chứ không phải về các tu sĩ, nam hay nữ, bằng xương bằng thịt, những
người đã được biết đến, được lắng nghe hoặc ít nhất người ta đã đọc những tác
phẩm của họ. Người được người ta nói đến và đưa ra phán xét không phải là một
người có tôn giáo trong lịch sử, đã thực sự sống, nhưng là một sản phẩm trong
phòng thí nghiệm. Và thường là một bức tranh biếm họa về một người có tôn giáo.
Hoặc người ta sẽ dừng lại ở những trường hợp mà chính đức tin coi chúng như một
hình thức bệnh lý tôn giáo, hoặc như một tính giả tôn giáo
(pseudo-religiosité).
Đối với tôn giáo và đức tin, các khoa học thế tục đôi
khi chấp nhận một thái độ hoàn toàn giống với thái độ mà các khoa học ấy trách
cứ tôn giáo đã thể hiện đối với khoa học, trong những thế kỷ qua. Để đánh giá
các kết luận của khoa học, họ cáo buộc tôn giáo (và với lý do chính đáng) đã
không dựa trên các quan sát trực tiếp, các kiểm tra và thí nghiệm, nhưng dựa
trên các ý tưởng tiên định có tính cách trừu tượng và suy diễn, hoặc
trên thẩm quyền không ai tranh cãi của một số bậc thầy vĩ đại trong quá khứ, chẳng
hạn Aristote. Thực ra đây lại không phải là thái độ của một khoa tâm lý học nào
đó, khi ngày nay bàn về những vấn đề liên quan đến đức tin hay sao? Phải chăng
nó lại không dựa trên những quan sát trực tiếp, không phán xét đức tin từ bên
trong mà từ bên ngoài, không phải theo những gì kinh nghiệm trực tiếp sẽ dạy
cho nó, mà theo những gì nó quan sát ở nơi khác, hoặc bằng cách dẫn chứng uy
tín của một vài tên tuổi lớn, như Freud chẳng hạn?
Do đó, khoa học ngày nay xử sự đối với tôn giáo như tôn
giáo đôi khi đã xử sự trong quá khứ đối với khoa học, chẳng hạn trong trường hợp
Galileo. Trong bất cứ nghiên cứu nào, ngày nay khắp nơi đều áp dụng nguyên tắc
thí nghiệm như một tiêu chí để xác minh sự thật của một thực tại hay một hiện
tượng. Ngoại trừ đức tin. Tốt hơn, dường như để nói về tôn giáo một cách nghiêm
túc và khoa học, điều kiện tiên quyết không phải là có kinh nghiệm cá nhân về
nó, cách nào đó miễn nhiễm với nó, tức "không bị lây nhiễm". Chính
xác giống như bệnh điên: bởi vì rõ ràng người cuối cùng có thể nói một cách
nghiêm túc và khoa học về bệnh điên, là chính người điên.
Câu trả lời của Kitô giáo trước thách đố này chỉ có thể
dựa vào một lời kêu gọi khẩn cấp đối với sự sống, đối với những con người thật
và cụ thể, đối với lịch sử các tâm hồn, chứ không chỉ đối với lịch sử các tư tưởng.
Thông thường, ngay cả khi không nhận ra điều đó, người ta vẫn sai lầm khi chấp
nhận giả định mang tính ý thức hệ của những người không có tín ngưỡng, tức là
người ta có thể khám phá ra bản chất của tôn giáo hoặc đức tin dựa trên những định
nghĩa và ý tưởng, và như vậy là trên lãnh vực trừu tượng. Những người chiến đấu
mạnh nhất chống lại sự trừu tượng đến mức biến nó thành chính mục đích và một
tước hiệu độc đáo cho triết học của mình, là những người, sau đó, đã không ngừng
thực hành nó một cách có hệ thống liên quan đến tôn giáo. Khi là chuyện tuyên bố
ủng hộ hay chống lại tính xác thực của cuộc sống của những người theo đạo, tôi
coi là trừu tượng tất cả những gì không liên quan đến việc kiểm tra trực tiếp về
nội dung và diễn tiến cuộc sống của họ, về ý thức của họ liên quan đến bản thân
họ, về ảnh hưởng của họ đối với môi trường và kết quả cuối cùng của cuộc đời họ,
mà không quên phẩm chất, thời lượng và phạm vi ảnh hưởng của họ theo thời gian.
Tóm lại, tôi kêu gọi một sự khách quan thực tế và lịch sử: phải đứng vững trong
đường lối này. Một Giáo Phụ ở sa mạc nói: "Người ta luôn có thể đưa ra một
lời nói chống lại một lời nói khác và một học thuyết chống lại một học thuyết
khác; nhưng người ta có thể lấy gì chống lại một cuộc sống?"
Một nhân vật khác "trở về từ Sinai" giúp chúng
ta đo lường khoảng cách giữa ý tưởng về con người có tôn giáo mà các cha đẻ của
thuyết vô thần dùng làm kim chỉ nam cho công việc của họ, và người có tôn giáo
thực sự. Thánh Symêon, Nhà Thần Học Mới, sống vào năm 1000. Ngài được coi là
hình mẫu tiêu biểu nhất của sự thánh thiện Đông phương, ngang với thánh
Phanxicô Assisi bên Kitô giáo Tây phương (Như vậy, chúng ta thực sự hít thở
không khí của Thiên Chúa hằng sống "bằng hai lá phổi của Giáo Hội, Giáo Hội
Đông phương và Giáo Hội Tây phương). Một số hoàn cảnh của cuộc sống buộc Symêon
phải tự mình mô tả cuộc hành trình tâm linh của mình, do đó, lời chứng của ngài
có giá trị đặc biệt có ý nghĩa.
Sau một thời gian sống theo tinh thần thế tục, ngài đã gặp
được Thiên Chúa. Trong một bức tranh gây ấn tượng, ngài mô tả những hiệu quả của
cuộc gặp gỡ này. Ngài viết: "Một người mà trái tim nhiễm độc, bị một tình
cảm nội tâm dữ dội tấn công và hành hạ, lại sẽ quan tâm đến những vết thương nhỏ
trên thân xác, hoặc sẽ lo lắng cho chúng, người đó là ai vậy? Nỗi âu lo và đau
đớn không chịu nổi trong lòng khiến ông ta quên đi những vết thương trên thân
xác... Ông sẽ không quay mặt nghiêm khắc với kẻ đã nguyền rủa mình..., sẽ không
lo lắng về cơ nghiệp hay sự giầu có của mình, sẽ để mặc tài sản của mình cho bất
cứ ai muốn cướp đoạt nó. Ông sẽ không quan tâm đến bất cứ điều gì, thậm chí
không nghĩ đến nó, vì sự lo lắng của tâm hồn khiến ông coi mọi sự chỉ là hư
không. Bất cứ người nào, chính trực hay không, thậm chí mọi thụ tạo dưới bầu trời,
đối với ông, dường như có phúc và đáng được quý trọng... Chỉ riêng ông thấy
mình không xứng đáng hiện hữu và hít thở, vì vô số tội lỗi của ông, thấy mình bị
bóng tối, ngu muội và đớn đau vô tận bao phủ..." Đó là những gì ý thức về
tội lỗi gây ra, "chất độc" này ăn mòn từ bên trong con người ông.
Đây chẳng phải là một xác nhận tuyệt vời về phân tích của
triết gia vô thần đối với con người có tôn giáo sao, khi ông nói: "Thiên
Chúa sinh ra ở đâu, thì ở đó con người phải chết!"? Nhưng câu chuyện không
dừng lại ở đó. Chúng ta hãy lắng nghe phần còn lại của câu chuyện mà Symêon viết
ở ngôi thứ ba. Người đàn ông bị bỏ rơi này, một mình kêu lên Thiên Chúa nỗi thất
vọng của mình: "Lạy Chúa, Chúa thấy công trình tay Chúa làm ra suy vi tới
đâu... Con không biết Chúa; con nghe nói về Chúa mà rùng mình. Làm gì đây? Con
không biết! Con không có lý do thoái thác trước mặt Chúa." Dần dần, vị đắng
tan biến, chuyển thành "sự êm dịu của rượu ngọt"; một niềm vui mới lạ
chưa từng thấy nảy mầm trong lòng người đó, niềm vui và sự dịu ngọt khiến anh
ta “nôn ra chất độc của rồng…” Khi đó cuộc sống của anh “tràn đầy hoan lạc”; niềm
vui trong lòng anh coi thường sự chết và âm phủ, mọi điều ác và hiểm
nguy". Anh vui mừng "gấp ngàn lần những ông vua thống trị trái đất,
hơn tất cả những người mạnh khỏe, có vẻ đẹp thể hình và giàu có vô hạn”.
Rồi anh bắt đầu một hoạt động mãnh liệt biến đổi nội tâm
sẽ tiếp tục suốt cuộc đời anh. Đôi lúc, sau khi đã được đưa lên trời – anh
không thể nói là với thân xác hay không – anh trở lại cuộc sống hàng ngày bình
thường như thể không có gì xảy ra với anh và anh vẫn còn kinh hãi vì sự lầm
than của mình. Đôi khi anh bật khóc vì những đau khổ của người khác và của
mình. Cuối cùng, đến ngày anh nghe thấy tiếng nói của Đức Kitô và thấy mình
đang ở trước mặt Ngài. “Thưa Thầy, con là ai?... Con đã làm gì mà Thầy phán xét
con xứng đáng hưởng những sự lành ấy? Thầy đã đưa con tới những dịu ngọt
nào?" Tiếng của Thần Khí đáp lại: “Chừng nào ngươi không được giải thoát
khỏi xác thịt, ngươi sẽ không thể thưởng thức niềm vui trọn vẹn và hoàn toàn.”
Anh đưa ra câu hỏi mới: “Vậy có gì lớn hơn hoặc nổi bật hơn cái mà con đã
có?". Thì được trả lời: "Ngươi thực bủn xỉn khi hài lòng với những sự
lành này, so với những sự lành tương lai, chúng tương đương với thiên đường được
vẽ trên giấy đang cầm ở tay: thiên đường này kém hơn thiên đường thật bao
nhiêu, thì vinh quang tương lai cao hơn những gì ngươi thấy bây giờ bấy nhiêu
và không so sánh được."
Về cuối đời, anh ta sẽ hát một bài thánh thi vô tận để tạ
ơn: "Con cảm tạ Chúa, con tôn thờ Chúa, con phủ phục trước nhan Chúa, lạy
Chúa tể vũ trụ... vì Chúa đã làm cho con biết bao nhiêu điều; Chúa đã làm cho
con được vẻ vang; Chúa đã tôn vinh con; Chúa đã đáp ứng mọi yêu cầu của con...
Chúa đã đưa con từ hư vô tới chỗ hiện hữu... Chúa đã cho con được tự do... Chúa
đã thanh tẩy trí khôn con; Chúa đã làm cho linh hồn con biết nhìn xa trông rộng[1]..."
Kết quả của cuộc gặp gỡ này với Thiên Chúa không phải là
cái chết mà là sự sống mới trong mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực trí thức. Một sự
sống quá viên mãn, phong phú, đến nỗi biết bao nhiêu thế hệ Kitô hữu, đặc biệt ở
Đông phương, đã kín múc ở đó và ngày hôm nay vẫn còn tiếp tục kín múc rất nhiều.
Một kinh nghiệm đã vượt qua thử thách khó khăn nhất, đó là kinh nghiệm về thời
gian, về sự thay đổi của các văn hóa và
thị hiếu. Kết quả của cuộc phiêu lưu tôn giáo chắc chắn không phải là sự bần
cùng hóa hay bị gạt ra bên lề cuộc sống, cũng không phải là sự thu hẹp các chân
trời, mà trái lại là sự triển nở công khai nhất của tất cả hữu thể.
Những chứng từ này được nêu lên trong cuộc đời của các
thánh chỉ là xác nhận giáo huấn của Kinh Thánh.
Bình giải tước hiệu “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và của
Giacóp”, Đức Giêsu xác định rằng “Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì
đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38). Thiên Chúa hằng sống là điều
kiện để con người cũng được sống. Thánh Irênê nói: “Vinh quang của Thiên Chúa
là con người sống, và sự sống của con người là được nhìn thấy Thiên Chúa[2].”
Không có sự cạnh tranh nào, không có sự xung khắc nào giữa hai bên, nhưng là sự
phụ thuộc lẫn nhau mang tính chất sinh tử. Thiên Chúa của Kinh Thánh không muốn
con người phải chết, cũng không muốn “hy tế đổ máu”, nhưng muốn cho “con người thay đổi đường lối để được sống”
(Ed 33,11). Đức Giêsu nói: “Tôi đến để
cho họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Trước những cuộc đời như của Pascal, của thánh Symêon và
của vô số những Kitô hữu khác, là những người vui mừng và hát lên: "Vui!
Vui! Thật vui!", [phương tiện bảo vệ duy nhất còn lại cho người vô thần là
nghi ngờ về niềm vui này]. Thánh Bênađô đã viết rằng một khi dấn thân vào con
đường hoàn toàn tự chủ liên quan tới Thiên Chúa, con người "thích khẳng định
sự độc lập của mình đối với Thiên Chúa, ngay cả khi phải trả giá bằng sự bất hạnh
của mình, hơn là được hạnh phúc trong sự vâng phục Thiên Chúa[3]."
Ở đây, chúng ta nhận ra một khía cạnh thuộc "thảm kịch của chủ nghĩa nhân
bản vô thần": buộc phải lựa chọn giữa hạnh phúc và tự do, là tù nhân của một
khái niệm tự do, mà, tự bản chất, dẫn đến bất hạnh.
Trước khoa thần bí, sự hoài nghi đã mang một hình thức
tinh vi và lừa lọc. Người ta nói rằng việc mô tả các trạng thái thần bí nhắc nhớ
rất gần gũi các trạng thái yêu đương; những gì các nhà thần bí mô tả về tình
yêu Thiên Chúa thực sự rất gần với những biểu hiện của tình yêu con người! Cuộc
hôn nhân thần bí của họ với Thiên Chúa lại không phải là một sự "thần bí
hóa", một sự thăng hoa hay một sự thay thế cho hôn nhân tự nhiên sao? Đây
là câu trả lời của tôi: tại sao, đúng hơn, không xem xét giả thuyết ngược lại
và cho rằng hôn nhân tự nhiên chỉ là bắt chước, trong khi hôn nhân thần bí mới
là thực tế? Không phải là chính đáng hơn khi coi sự kết hợp tính dục là một biểu
tượng, một dụ ngôn và như nhắm tới "sự viên mãn" khác mà các nhà thần
bí đã nếm thử trước sao? Còn hơn thế nữa vì phải chăng sự kết hợp tính dục rõ
ràng mang trong mình những dấu hiệu của sự không trọn vẹn, bấp bênh và khát vọng
về một thực tại vừa sâu sắc vừa khác biệt? Chúng ta được tạo ra không phải để sống
trong một mối tương quan vĩnh cửu của đôi lứa nhưng là trong một mối tương quan
vĩnh cửu với Thiên Chúa, với Đấng Tuyệt Đối. Không phải một nhà thần bí, cũng
không phải một người của Giáo Hội, đã thốt ra câu nổi tiếng: "Tất cả những
gì qua đi chỉ là dụ ngôn[4]."
Bản chất của hoài nghi và "tai ác" của nó nằm ở
chỗ nó thoát khỏi mọi đối đầu và do đó mọi khả thể bị phản bác. Người ta có thể
phản bác một lý do, một sự kiện, nhưng không thể phản bác một hoài nghi. Hoài
nghi liên quan đến ý muốn hơn là đến lý trí. Nó gần gũi với bản chất của tội lỗi,
là “tự ý.” Con rắn không lôi kéo Ađam và Evà đến chỗ phạm tội bằng cách đưa ra
một lý do chống lại Thiên Chúa, nhưng bằng cách làm cho họ nghi ngờ Thiên Chúa.
Do đó người ta không thể loại bỏ sự hoài nghi bằng suy
luận. Nhưng có lẽ không tốt nếu loại bỏ nó, vì chính nhờ nó mà tin trở thành một
việc nghiêm trọng. Sự kiện có thể nghi ngờ bên trong hoặc bên ngoài chúng ta sẽ
thanh tẩy đức tin và giữ cho người tin ăn ở khiêm nhường. Theo nghĩa này, con
đuòng đi vào trong lịch sử thế giới của các triết gia vô thần, mà chúng ta đã
nói hoặc sẽ nói sau này, đã không vô ích. Thật nghịch lý, họ đã phục vụ và vẫn
phục vụ cho chính nghĩa của đức tin mà họ muốn tiêu diệt.
Lời kinh của vị thánh đã đồng hành với chúng ta trong chặng
đường này của cuộc hành trình, chúng ta hãy coi đó là lời kinh của mình:
"Con cảm
tạ Chúa, con tôn thờ Chúa, con phủ phục trước nhan Chúa, lạy Chúa tể vũ trụ...
vì Chúa đã làm cho con biết bao nhiêu điều; Chúa đã làm cho con được vẻ vang;
Chúa đã tôn vinh con; Chúa đã đáp ứng mọi yêu cầu của con... Chúa đã đưa con từ
hư vô tới chỗ hiện hữu... Chúa đã cho con được tự do... Chúa đã thanh tẩy trí
khôn con; Chúa đã làm cho linh hồn con biết nhìn xa trông rộng”.
[1] S. Syméon le Nouveau Théologien, Catéchèses XXIII & XXV-XXVI; x. SC 113,pp 15-23; et 305-351.
[2]
Saint Irénée, Contre les hérésies, IV, 20, 7; trad. Rousseau, Cerf, Paris, p. 474.
[3] Saint Bernard, Sur les degrés d’humilité, X, 36; ed. Soleil Levant, Namur, 1958, p.62.
[4] J.W. Goethe, Faust, 2e partie, finale acte V, v,12104 sv.; Ed. Montaigne, Paris, 1933.