19
MỘT THIÊN CHÚA BỊ KHUẤT PHỤC
Như
chúng ta vừa thấy, thánh Phaolô bảo đảm
rằng việc không nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và việc không tôn vinh và tạ
ơn Ngài tạo nên sự vô đạo và bất chính lớn lao của con người. Phần tiếp theo lá
thư của ngài cho thấy rõ những người ngoại giáo "đã suy luận viễn vông và tâm trí ngu si của họ hóa ra mê muội. Họ khoe
mình khôn ngoan nhưng đã trở nên điên rồ. Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử,
họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim
chóc, thú vật, rắn rết ” (Rm
1,22-23).
Chúng
ta dễ dàng nhận ra trong đoạn văn này có ám chỉ đến câu chuyện sáng tạo (x. St
1,26-27). Trong khi Kinh Thánh dạy rằng Thiên Chúa đã tạo nên con người theo
hình ảnh của Ngài và giống Ngài, thì, như Phaolô nhận định, “thay vì Thiên Chúa
vinh quang bất tử, con người đã thờ ngẫu tượng người phàm phải chết”. Nói khác
đi, việc thờ ngẫu tượng là kết quả của một kiểu đảo ngược trật tự do Thiên Chúa
thiết lập trong công cuộc sáng tạo, giống như một sự đảo ngược các vai trò: Thiên
Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài và bây giờ con người tạo ra cho
mình một Thiên Chúa theo hình ảnh của mình.
Vậy
việc thờ ngẫu tượng xẩy ra như một bước thứ hai hoặc một giai đoạn thứ hai của
cuộc hành trình đưa con người rời xa Thiên Chúa. Thánh Tông Đồ nhìn nhận trong
đó một sự cụ thể hóa về phương diện lịch sử và, có thể nói, một cách thể chế
hóa sự tách biệt bên trong của con người với Đấng Tạo Hóa của mình. Chính xác
thì việc thờ ngẫu tượng biểu thị điều gì? Câu tiếp theo định nghĩa là "tôn
thờ thụ tạo thay vì Đấng Tạo Hóa". Thoạt nhìn, điều này có vẻ như là một sai
lầm thuần túy về viễn tượng, một kiểu trao đổi chủ yếu dẫn đến sự bất lợi hoàn
toàn cho con người, vì gắn bó với chủ chắc chắn tốt hơn với tớ. Nếu chỉ giới hạn
ở khía cạnh này mà thôi, tại sao Kinh Thánh gọi sự ghê tởm này là đáng sợ? Sự kiện
mang tính quyết định, đó là khi tôn thờ thụ tạo, con người tôn thờ thụ tạo
"của mình", tác phẩm của bàn tay mình, và như vậy, tự nền tảng, họ tự
tôn thờ mình! Xét cho cùng, họ thế chỗ Thiên Chúa. Ở trung tâm của mọi sùng bái
ngẫu tượng, người ta thấy hình thức tự sùng bái mình, "yêu mình đến độ khinh mạn Thiên Chúa."
Đó
chẳng phải là tìm cách "bóp nghẹt sự
thật" sao? Con người không muốn chấp nhận Thiên Chúa, nhưng tạo cho mình
một Thiên Chúa của mình và chính họ là người quyết định. Mối tương quan của thụ
tạo bị đảo ngược: con người trở thành người thợ gốm và Thiên Chúa là chiếc bình
mà con người nặn đúc theo ý mình, gán cho nó những công dụng và phẩm chất phù hợp
với mình.
Tôi
muốn cho thấy, ở một số khía cạnh, Tây phương đã dẫn đến một tình hình như vậy
trên bình diện tôn giáo[…]. Ở trên, tôi đã […] không đưa ra câu trả lời. Vậy đã
đến lúc phải làm điều này, nhưng "với
sự hiền hòa và kính trọng", như Kinh Thánh khuyên chúng ta làm, và với
mong muốn "sẵn sàng trả lời cho bất
cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta" (1Pr 3,15) chứ không phải
trong tình trạng tâm trí của người trang bị cho mình những gì cần thiết để bác
bỏ đối thủ.
Đối
với những ai cho rằng Thiên Chúa không hiện hữu và Ngài chỉ là một sự khách thể
hóa thuần túy con người, câu trả lời đầu tiên là nhận rằng họ có lý. Đúng! Như họ
nói, Thiên Chúa thực sự là sản phẩm của tâm trí con người. Tất cả vấn đề là chỉ
rõ đó là Thiên Chúa nào. Từ đó tôi muốn chứng minh cho thấy những triết gia này
không chiến đấu hay lật đổ Thiên Chúa thật, mà chỉ là một thần tượng, một sự mô
phỏng (simulacre) hão huyền về Thiên Chúa.
Trong
lịch sử tu đức Tây phương, có lúc người ta đã đưa ra một loại Thiên Chúa đóng
thế, một Thiên Chúa giống hệt với “Thiên Chúa của Sinai”. Người ta hẳn có thể
nghĩ về một kẻ soán ngôi, đã bịt miệng và nhốt vị vua thực sự trong một tòa
tháp bí mật, để sau đó tự phong mình lên làm vua. Nếu sau này, nhân có cuộc
cách mạng loại bỏ người đó, người ta sẽ ngây thơ tưởng tượng mình đã được giải thoát
khỏi quyền lực hoàng gia và khi ấy họ sẽ tuyên bố nền cộng hòa. Cứ nói thẳng ra
là họ sẽ thông báo rằng Thiên Chúa đã chết.
Chúng
ta hãy tưởng tượng thêm là một hôm, có người đàn ông “mát” dùng búa phá bức tượng
David của Michelangelo, nằm ở ngoài trời trước cung điện Signori ở Firenze. Và rồi
anh ta khoe khoang với giọng điệu đắc thắng: "Tôi đã phá hủy tượng David của
Michelangelo! David không còn ở đó nữa! David không còn tồn tại nữa!"
Trong ảo tưởng đáng thương của mình, anh ta không biết rằng đó chỉ là một bản
sao, dành cho khách du lịch qua đường chiêm quan, còn David thật của
Michelangelo từ lâu không còn để cho công chúng xem và được cất giữ ở một nơi
an toàn. Đây không phải hơi giống như cuộc phiêu lưu của Nietzsche khi ông để
cho một trong những nhân vật của mình tuyên bố: "Thiên Chúa…, chúng ta đã
giết Ngài! Tất cả chúng ta đều là những kẻ giết Ngài[1]"
sao?
Phải
giải thích sự đóng thế nổi tiếng mà chúng ta đang nói đến được thực hiện khi
nào và như thế nào. Để hiểu điều này, chúng ta hãy quay trở lại câu chuyện về
con bê bằng vàng được thuật lại trong sách Xuất hành. Đâu là bản chất của tội lỗi
nặng nề này về con bê bằng vàng khiến cho Kinh Thánh nhiều lần lên án nó? Không
như người ta đôi khi nghĩ, chắc chắn đây không phải là tội hà tiện biến vàng
thành Thiên Chúa của họ, vì trong dịp này dân chúng đã tỏ ra hào phóng khác thường
khi cúng nhiều vàng mà họ có. Cũng không phải họ bỏ Thiên Chúa để theo một vị
thần ngoại bang nào đó, vì con bê bằng vàng được ca tụng là Thiên Chúa của Israel,
Đấng đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, và lễ hội được tổ chức xung quanh con bê quả thực
là “lễ kính Đức Chúa” (x. Xh 32,4
tt).
Vậy
tại sao Phaolô, cùng với toàn bộ Kinh Thánh, gọi hành vi như vậy là thờ ngẫu tượng
(x. 1Cr 10,7)? Thờ ngẫu tượng, vì mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa của
họ bị đảo ngược. Dân chúng làm một con bê bằng vàng để “có một vị thần dẫn đầu họ” (Xh 32,1). Họ muốn một loại cờ hiệu hoặc
cờ xí tung bay trước mặt để bảo đảm chiến thắng trong cuộc chiến chống lại kẻ
thù. Lịch sử cho ta biết đây thực sự là phong tục của các đội quân trong thời cổ
đại. Sau này Israel sẽ làm như thế với hòm bia giao ước (x. 1Sm 4,3tt). Tóm lại,
những gì người ta tìm kiếm là một vị thần mang lại may mắn, bảo đảm cho thành
phố. Thiên Chúa đã giải thoát dân khỏi Ai Cập "để phục vụ họ trong sa mạc";
và từ đó về sau, dân chúng sử dụng Thiên Chúa thay vì phục vụ Ngài. Chúng ta
đang có khuynh hướng trực tiếp dẫn đến mê tín và ma thuật: chiếm đoạt quyền lực
của Thiên Chúa để sử dụng nó cho lợi ích của mình, để có được sự giúp đỡ của
Ngài không phải bằng lời cầu nguyện mà như bằng vũ lực.
Sự
so sánh giữa những gì đã xảy ra xung quanh cách biểu thị này về Thiên Chúa và cách
bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống ở Sinai giúp nhận thức rõ hơn về sự
thay đổi sâu xa trong lòng người dân. Ở Sinai, dân chúng đứng đàng xa vì sợ, một
sự sợ hãi thánh. Xung quanh con bê bằng vàng, họ ăn uống, nhảy múa, thậm chí
còn tổ chức một lễ hội dân gian. Họ không còn phục tùng Thiên Chúa nữa, nhưng bắt
Thiên Chúa phục vụ mình. Để hiểu sự khác biệt giữa Thiên Chúa hằng sống và con
bê bằng vàng, nên đọc lại trình thuật về các biến cố sau khi Thiên Chúa giả bị
hủy diệt. Hai chương tiếp theo của sách Xuất hành đưa chúng ta vào bầu không
khí của thần linh, của siêu nhiên, như thể Thiên Chúa tìm lại được quyền tự do
hành động của mình, muốn biểu lộ sự hiện diện vừa đáng sợ vừa giáng phúc của
Ngài. Ngài đi qua, công bố tên của mình: "Đức Chúa, Đức Chúa, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi..." Con người
hiểu rằng mình phải ẩn náu trong một hốc đá để không phải chết; họ phải hài
lòng với việc nhìn thấy Chúa như trộm vụng, từ phía sau lưng. Môsê sấp mình xuống
đất. Đây là cách mà chính Thiên Chúa, chứ không phải một mô phỏng vô hồn, “cùng
đi với dân mình” (x. Xh 34,9).
Môsê
đã hiểu rõ mối nguy hiểm chết người cho đức tin mà câu chuyện con bê bằng vàng che
giấu. Điều này giải thích phản ứng dữ dội của ông: ông cho tán nhuyễn tượng mô
phỏng, rắc trên mặt nước, rồi bắt con cái Israel uống. Chắc chắn do kết quả của
sự kiện này mà Kinh Thánh bắt đầu cấm hoặc củng cố việc cấm chế tạo các hình ảnh
và biểu tượng nhạy cảm về Thiên Chúa.
Giờ
đây chúng ta dùng một bản văn của Claudel để cầu nguyện:
"Lạy Thiên Chúa của
con, chúc tụng Chúa đã cứu con khỏi các ngẫu tượng và là Đấng khiến con chỉ tôn
thờ một mình Chúa, chứ không phải Isis và Osiris, hoặc Công Lý, hoặc Tiến Bộ,
hoặc Chân Lý, hoặc Thần Linh, hoặc Nhân Loại, hoặc Luật Thiên Nhiên, hoặc Nghệ Thuật,
hoặc Sắc Đẹp, ... hoặc Hư Không do sự vắng mặt của Chúa[2]."
[1] F. Nietzsche, Le gai savoir, no 125; Paris, Gallimard, 1982, p. 149.
[2]
P. Claudel, Cinq grandes Odes,
III, cf. Oeuvres poétiques, Paris,
Gallimard, 1967, p. 251.