21
CÁC ÔNG GIẾT
MỘT THIÊN CHÚA ĐÃ CHẾT
Làm
thế nào đi đến điểm mấu chốt của tiến trình làm cho Thiên Chúa hằng sống chỉ
còn là ý tưởng về Thiên Chúa đối với con người? Người ta đã có thể đi đến cuộc
khủng hoảng đã nói như thế nào? Theo một nghĩa nào đó, một sự tiến hóa như vậy
là tự nhiên: sự phát triển của nó vẫn luôn tiếp diễn, đã tăng tốc trong thời hiện
đại, bắt đầu từ Descartes.
Nhà
triết học này là nguồn gốc của một sự đảo ngược: Đối với ông, biết Ngài ưu tiên
hơn hữu thể của Ngài, hoặc, nói theo ngôn ngữ kỹ thuật, tri thức luận ưu tiên
hơn hữu thể học. Điểm khởi đầu hay nền tảng mọi sự không phải: "Thiên Chúa
hiện hữu", nhưng: "Tôi, tôi hiện hữu." Ở nền tảng, người ta
không đặt cái "Tôi hiện hữu" vĩ đại của Thiên Chúa, nhưng cái
"tôi hiện hữu" nhỏ bé của con người. "Tôi suy tưởng, vậy tôi hiện
hữu", chứ không phải: "Thiên Chúa suy tưởng (hay đúng hơn: Ngài yêu),
nên tôi hiện hữu." Sự dịch chuyển của
điểm phát xuất lôi kéo theo sự dịch chuyển của trọng tâm: chuyển từ thực tại
sang ý tưởng, từ đối tượng sang chủ thể. Theo Descartes, “sự hiện hữu của
Thiên Chúa được chứng minh a posteriori (hậu thiên)", khởi
từ sự kiện là chúng ta mang trong mình ý tưởng về Thiên Chúa. Ý tưởng về Thiên
Chúa ở hàng đầu và đến ngự trên chính ngai của Thiên Chúa.
Theo
quan điểm này, Thiên Chúa giản lược thành "ý tưởng bẩm sinh" mà chúng
ta có về Ngài và là ý tưởng–mẹ của tất cả những ý tưởng khác, nhưng nó vẫn luôn
luôn và đơn giản là một ý tưởng. Thiên Chúa không tự giới thiệu và không buộc
con người phải nhận mình trước tiên như một thực tại, nhưng như một ý tưởng về
một thực tại, ngay cả đó là thực tại cao xa nhất. Ngài không được công nhận như
Đấng mà không có Ngài chúng ta không thể hiện hữu, nhưng như Đấng mà không có Ngài
chúng ta không thể suy tưởng, vì ý tưởng về Thiên Chúa mang tất cả những ý tưởng
khác. Trong khi thánh Phaolô dạy rằng “ở nơi
Người, chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (x. Cv 17,28) thì Descartes cho
rằng Thiên Chúa là Đấng mà trong Ngài và nhờ Ngài chúng ta được ban việc suy tưởng.
Thiên Chúa trước hết là nền tảng của khả năng suy luận và chỉ sau đó mới là nền
tảng sự hiện hữu của chúng ta. Sự đảo ngược có vẻ tinh vi, nhưng trên thực tế lại
mở đường cho những hậu quả khôn lường.
Chúng
ta không muốn đánh giá về tính chất có căn cứ của phương pháp lập luận này nơi
chính nó (mà nếu cần, là công việc của triết học); chúng ta cũng không muốn phủ
nhận công lao của tác giả đã đưa một phương pháp chặt chẽ hơn vào thực hành triết
học. Chúng ta chỉ tìm cách nêu bật ảnh hưởng tiêu cực của phương pháp này đối với
sự phát triển của đức tin và tình cảm tôn giáo.
Cũng
như rất thường xẩy ra trong những trường hợp như vậy, hậu quả không xuất hiện
ngay lập tức. Bản thân Descartes vẫn trung thành với tinh thần đã tồn tại cho đến
lúc đó. Là một nhà tư tưởng có đạo, ông muốn củng cố đức tin chứ không muốn phá
hủy nó. Nhưng vận hành đã được tung ra. Chỉ cần một triết gia – và triết gia đó
sẽ là Kant – thực hiện bước tiếp theo khi khẳng định rằng khởi sự từ một Thiên
Chúa "được suy tưởng", người ta không thể tìm thấy bất kỳ con đường
nào dẫn đến một Thiên Chúa hiện hữu, và rằng, từ ý tưởng về Thiên Chúa, người
ta không bao giờ có thể suy ra "thực tại" Thiên Chúa[1]”
để ngay lập tức thấy rõ hậu quả của việc thay đổi quan điểm này sẽ nghiêm trọng
như thế nào.
Bước
tiếp theo dẫn đến chủ thuyết duy tâm tuyệt đối của Hegel, theo đó "Ý tưởng
là một Thượng Đế sáng tạo, mà khi sáng tạo, thì tạo ra chính mình". Từ dây
ý tưởng về Thiên Chúa nằm trong sự tự chủ đối với thực tại: không phải thực tại
gợi ra ý tưởng, nhưng ý tưởng gợi ra thực tại và cho nó hiện hữu. Các vai trò
hoàn toàn bị đảo ngược. Thiên Chúa hằng sống ở bên ngoài hệ thống tư tưởng này;
và hệ thống tư tưởng thế chỗ của Ngài. Eidolon
của Thiên Chúa đã thay thế Thiên Chúa. Ý tưởng được "tuyệt đối hóa". Nó
được xưng tụng là Đấng Tuyệt Đối. Người ta thấy lại tình trạng thờ bản thân (autolatrie) mà thánh Tông
Đồ đã vạch trần dưới hình thức thờ ngẫu
tượng ngoại giáo. Như Péguy lưu ý, con người hiện đại tôn thờ bản thân
trong vỏ bọc của một vị thần lần lượt thuộc trí tuệ, lịch sử hoặc xã hội học.
Thiên
Chúa hằng sống phải chịu số phận của nhà vua già trong thảm kịch: trước tiên
ông được chào đón với tất cả vinh dự trong lâu đài (đó là tinh thần con người);
một khi ông đã ở bên trong, thì cửa đóng lại, cây cầu được nâng lên và nhà vua,
không có khả năng tự vệ, mất đội quân cấm vệ, bị truất phế khi ông đang ngủ.
Macbeth thay thế vua của mình. Sự thay thế mà tôi nói ở trên đã hoàn tất: thay
cho Thiên Chúa thật, người ta đã đặt một Thiên Chúa giả.
Khi
đó, một sự kiện đã được báo hiệu: Feuerbach xuất hiện, người sẽ làm nổ tung
toàn bộ tiến trình này bằng cách tấn công tận gốc "chính ý tưởng về Thiên
Chúa". Thiên Chúa không hiện hữu. Thực tại của ý tưởng về Thiên Chúa,
trong chừng mực mang một thực tại nào đó, không phải là một Hữu Thể riêng biệt,
cao siêu, vô hạn; chính là con người. Con người đã tạo ra một Thiên Chúa theo
hình ảnh của họ. Bằng cách này, Feuerbach đã hoàn thành chương trình được Hégel,
thầy của ông, loan báo, là người đã viết nơi một trong những tác phẩm hồi còn
trẻ: "Sau tất cả những nỗ lực trong quá khứ, chính là một công lao dành
cho thời đại chúng ta khi đòi lại cho tài sản của con người, ít nhất trên lý
thuyết, những kho báu đã bị lãng phí trên trời; nhưng thế kỷ nào sẽ có khả năng
thực tế đòi được hưởng quyền này và bảo đảm tài sản này[2]?
Feuerbach có "tài năng" ấy. Ông đã “công bố trên mái nhà" điều
mà thầy của ông, chắc hẳn giữ ý vì những quy định rất nghiêm khắc vẫn còn tác động
mạnh đến những kẻ tấn công giáo huấn chính thức, nên chỉ dám "nói thầm vào
tai" trong giảng dạy riêng tư và kín đáo hơn.
Không
ai ngoài một tín hữu Kitô có thể đánh giá đúng sự thật sâu xa và tính chất có
căn cứ của hoạt động này; không ai sẽ tỏ lòng biết ơn nhiều hơn đối với người
đã đưa nó đến chỗ kết thúc, tuy nhiên, bằng cách xác định rõ rằng điều bị hủy
hoại như vậy không phải là đức tin nhưng là sự thờ ngẫu tượng. Tiến trình bị vạch
trần như thế của việc hình thành niềm tin vào Thiên Chúa chính xác là tiến trình
ẩn dưới sự thờ ngẫu tượng. Thánh Tông Đồ đã mặc nhiên cảnh báo chúng ta rằng:
quả thật trong việc thờ ngẫu tượng, con người chế tạo cho mình một Thiên Chúa
theo hình ảnh của mình.
Do
cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các trường phái triết học, Feuerbach đã nhầm
lẫn hình ảnh với thực tại, mà thậm chí không biết điều đó: nhầm lẫn hình ảnh
méo mó và không có đức tin Kitô giáo, với đức tin Kitô giáo. Như ông đã tuyên bố,
ông đã không bóc trần "yếu tính Kitô giáo", nhưng yếu tính của việc
thờ ngẫu tượng hay ý thức hệ về Thiên Chúa.
Phê
bình của Feuerbach liên quan đến việc thờ ngẫu tượng, chứ không phải niềm tin
thực sự vào Thiên Chúa hằng sống, là một điều được công nhận ngay cả nơi các
nhà tư tưởng không nghi ngờ là có mục đích hộ giáo. Erik Fromm viết: "Con
người chuyển những đam mê và phẩm chất của mình cho thần tượng. Người đó càng vét
rỗng mình, thần tượng càng lớn lên và mạnh mẽ. Thần tượng là hình thức tha hóa
của kinh nghiệm mà con người trải qua. Bằng cách tôn thờ thần tượng, con người
tôn thờ chính mình... Người đó phụ thuộc vào thần tượng, vì đơn giản bằng cách
phục tùng nó, anh ta tìm thấy cái bóng của mình, ngay cả khi không có thực chất.
Thần tượng chỉ là một vật vô hồn, trong khi ngược lại Thiên Chúa là một Thiên
Chúa hằng sống[3].
"
Bằng
chứng chắc chắn nhất mà các lý thuyết gia của thuyết vô thần hiện đại không thể
đạt tới Thiên Chúa hằng sống, đó là họ không biết Ngài. Họ biết Thiên Chúa của
các trường phái, các hệ thống, của thầy này thầy kia, nhưng không biết đủ Thiên
Chúa của đức tin mà các tín hữu chân chính đã sống. Họ chỉ biết Thiên Chúa qua
sách vở. Thế mà Thiên Chúa hằng sống được gặp thấy trong cuộc sống của những con
người hơn nhiều so với trong sách vở, bởi vì một hữu thể sống động không thể được
chứa đựng trong những thực tại chết.
Sự
vắng mặt của bất kỳ tham chiếu nào về Thiên Chúa Ba Ngôi cho thấy một dấu hiệu
rõ ràng là chúng ta không còn ở trước mặt Thiên Chúa hằng sống của mạc khải. Có
những người tuyên bố tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi "thực tế không quan trọng
đối với con người" (Kant); những người khác, thay vì Ba Ngôi được biết đến
trong Kinh Thánh như là hiệp thông, lại
chỉ muốn nói về một thứ ba ngôi trên bình diện triết học, như một sự trở thành biện chứng (Hegel: un devenir
dialectique). Điều này hoàn toàn đối nghịch với Ba Ngôi, vì không thể nói về hiệp
thông tình yêu giữa các Ngôi trong Ba Ngôi, những Ngôi nối tiếp nhau trong một
"sự trở thành vĩnh cửu". Cùng lắm là các Ngôi có thể yêu nhau
"trong dự kiến", chứ không phải trong thực tế.
Thật
sự sẽ không dễ dàng đưa Thiên Chúa trở lại với một ảo ảnh do việc chiêm quan yếu
tính của Ngài gây ra, nếu người ta khởi sự từ Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông
tình yêu giữa Ba Ngôi. Quả vậy, con người cần gì phải tự phân chia, cần gì “tự
nhân mình thành ba”, thành Cha, Con và Thánh Thần?
Về
vấn đề này, trách nhiệm của các Kitô hữu ngay lập tức là rõ ràng. Họ đã ưu đãi
cho kết luận đáng buồn này, theo mức độ họ dần dần mất đi ý thức về thực tại ba
ngôi sống động và cảm thấy được, để chạy theo một khái niệm mơ hồ về "thần
tính” hoặc “yếu tính thần linh”, là khái niệm dọn đường cho "tự nhiên thần
giáo” (déisme). Hoặc theo mức độ họ cho phép chủ trương Thiên Chúa, vốn là Hữu Thể
(Esse), dần dần giảm xuống thành một
Thực Thể (Ens) với rất nhiều bài giảng
mơ hồ về Thiên Chúa, trong đó chính Thiên Chúa cuối cùng không gì khác hơn là một
Deus vagus (Thiên Chúa mơ hồ), một hữu
thể "thuộc loại Thiên Chúa", mơ hồ và bất định.
Vậy
các cha đẻ của thuyết vô thần đã không biết Thiên Chúa của truyền thống lớn của
Giáo Hội, mà chỉ biết Thiên Chúa như được giới thiệu trong các môi trường đại học.
Thực tế họ không biết gì về Thiên Chúa thánh thiện và mầu nhiệm, Đấng tuyên bố
trong Kinh Thánh: "Tư tưởng của Ta
không phải là tư tưởng của các ngươi; đường lối của các ngươi không phải là đường
lối của Ta" (Is 55,8). Thiên Chúa đã làm cho người biết những lời xé
lòng sau đây phải thốt lên: "Chúa làm con run sợ vì kinh hoàng"; hoặc
một lần nữa: "Lạy Chúa, muôn lạy Chúa,
sao Ngài nỡ bỏ rơi con?" (Tv 22,2). Thiên Chúa mà một tín hữu Do Thái,
trước khi chết, có thể thưa với Ngài lời nói kinh khủng khắc trên tường một
ngôi nhà bị hỏa hoạn tại một trong rất nhiều cuộc tàn sát người Do Thái mà lịch
sử ghi nhận: “Lạy Chúa, Chúa đã làm mọi sự khiến con mất niềm tin, nhưng Chúa
đã không thành công!" Hoặc, nếu họ biết một Thiên Chúa như vậy qua việc miệt
mài thường xuyên đọc Kinh Thánh, thì Ngài đã không thành công đi vào khuôn khổ
tư duy của họ.
Một
Thiên Chúa như vậy – và chính họ cũng ý thức được điều đó – con người không có
khả năng bịa đặt, vì Ngài là một Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh mà chính
con người có thể tạo ra. Một Thiên Chúa mà con người không thể "sử dụng".
Một Thiên Chúa, không những không đáp ứng được những khát vọng và ham muốn của
con người, mà còn làm cho họ bối rối và hoàn toàn "làm mờ tối" tâm
trí họ, cho dù để ban cho họ hạnh phúc sau đó.
Sự
khác biệt giữa Thiên Chúa và những người thế chân Thiên Chúa thì không có nền tảng.
Thiên Chúa của Kinh Thánh sẽ không than vãn vì con người muốn bỏ rơi Ngài (như
Sartre trình bày trong tác phẩm Les
mouches); Ngài sẽ không xin xỏ tín đồ hay những chứng từ công nhận như một
nhà sáng lập nào đó của những tôn giáo mới mẻ và rỗng tuếch này. Ngài không
nói: "Xin ngươi xá cho, Ta cầu xin ngươi, hãy tin vào Ta..." Đúng
hơn, Ngài lấy quyền bính cao cả và êm ái mà quả quyết, như chúng ta đã nhắc nhớ
lúc đầu: "Hãy dừng lại và hãy biết
rằng Ta là Thiên Chúa." "Dù các ngươi muốn hay không, tin hay không,
ta vẫn là Thiên Chúa."
Tertullianô
đã viết: "Để biết Thiên Chúa là ai, chúng ta đừng đến trường học của các
triết gia, cũng không phải nơi Epicurus, nhưng hãy lắng nghe các tiên tri và Đức
Kitô[4]."
Khi một triết gia chỉ biết hỏi các triết gia khác, để biết Thiên Chúa là ai, thì
ông ta hành động như một người vẽ bản đồ đi hỏi ý một người vẽ bản đồ khác, để
biết những đặc điểm của một vùng mà cả hai đều chưa từng đến xem hoặc rảo bộ
qua. Như đôi khi người ta vẫn nói, trong trường hợp này, phải dùng bản đồ địa
lý để xem địa hình được vẽ trên đó.
Một
người lính đánh thuê bị thương nói với kẻ thù sắp kết liễu cuộc đời anh ta:
"Ngươi muốn giết một người đã chết". Đối với những người ngày nay
tuyên bố rằng Thiên Chúa đã chết và chính họ là những kẻ giết Ngài, hoặc với những
người nói thêm rằng Ngài đã chết "mà không cần xét xử[5]”,
một tín hữu có thể trả lời cũng bằng ấy lý do: "Các ông đã giết một Thiên
Chúa đã chết rồi."
Một
Thiên Chúa như thế đã chết, đó là một tin vui cho cả chúng ta nữa. Nhưng chúng
ta hãy cảnh giác và đừng tìm cách làm cho Ngài sống lại! Thần tượng đúng là phủ
nhận Thiên Chúa hằng sống. Trong mức độ những người này đã dẫn đầu cuộc chiến
không phải chống lại Thiên Chúa hằng sống nhưng là chống lại cái bóng của Ngài,
thuyết vô thần của họ không phải là phủ nhận Thiên Chúa, nhưng là chối bỏ sự phủ
nhận Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, họ đã làm cho con đường để khám phá lại Thiên
Chúa hằng sống dễ dàng hơn. Họ là đồng minh của chúng ta hơn là đối thủ của
chúng ta.
Lời
chỉ trích mà Bonhoeffer gửi đến cái được gọi là "Thiên-Chúa-trám-lỗ",
cuối cùng cũng đi theo cùng một chiều hướng: đó là một lời chỉ trích mang tính
Kinh Thánh điển hình, dựa vào Môsê. Bởi vì vai trò được gán cho Thiên-Chúa-trám-lỗ
của các Kitô hữu rất gần với những ý định mà người Do Thái gán cho con bê bằng vàng
ở sa mạc. Tuy nhiên, chúng ta hãy cẩn thận để không rút ra từ lời chỉ trích này
kết luận hàm hồ rằng chúng ta phải làm quen với cách sống như thể Thiên Chúa
không hiện hữu ("etsi Deus non daretur").
Dĩ nhiên, đó là điều mà cả Môsê lẫn Kinh thánh không bao giờ có ý định dạy bảo.
Chúng
ta hãy mở rộng tâm trí đến những chiều kích vô hạn của Thiên Chúa thật, bằng
cách lấy phần tiếp theo của bài thánh ca mà Grêgôriô Nadian thưa lên với Chúa
làm lời cầu nguyện của chúng ta:
Tất cả mọi chúng sinh,
những người nói và những người câm, tôn xưng Chúa. Tất cả mọi chúng sinh, những
người suy nghĩ và những người không suy nghĩ gì, tỏ lòng tôn kính Chúa. Mong muốn
của mọi người, tiếng rên rỉ của mọi người hướng về Chúa. Tất cả những gì hiện hữu
đều cầu xin Chúa, và hướng về Chúa, mọi chúng sinh đang nghĩ về vũ trụ của Chúa,
dâng lên một bài thánh ca của thinh lặng."
[1]
Voir l’ouvrage déjà cité (note 40): L’unique
fondement possible pour une
démonstration de l’existence de Dieu.
[2]
G.W.F. Hegel, Écrit de jeunesse,
1, 34; Oeuvres complètes, 1. Hambourg
1989, p. 372.
[3]
E. Fromm, You shall be as Gods,
New York, 1966, chap. 2.
[4]
Tertullien,
Contre Marcion, II, xvi; cf. SC 368,
p. 103.
[5]
J.P. Sartre, Le diable et le Bon
Dieu, X, 5’ Paris, Gallimard, 1951, p. 231.