30
KHAO KHÁT THIÊN CHÚA
Cùng với việc thờ phượng,
phải duy trì một tình cảm khác trong tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hằng
sống, đó là khao khát. Tôi biết rất rõ là đức tin, đức cậy và đức mến là ba
phương thức thiết yếu diễn tả mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, qua
đó một loại "tiếp xúc thiêng liêng" được thiết lập với Ngài. Tầm quan
trọng và vẻ đẹp của khao khát chính xác ở chỗ nó là kết quả và tổng hợp của ba nhân
đức tin, cậy, mến. Nó giống như ngọn lửa duy nhất chiếu sáng trên một chiếc kiềng
ba chân. Nó giống như mặt trái hiện sinh của ba thần đức, giống như một người
tiết lộ về sự hiện diện và hoạt động của chúng.
Để biết khao khát Thiên
Chúa là gì, trước hết chúng ta phải biết khao khát là gì. Nó gồm hai yếu tố, một
tiêu cực, một tích cực. Từ Latinh, gốc gác của thuật ngữ tiếng Pháp, nhấn mạnh
hơn khía cạnh tiêu cực; từ Hy lạp, dùng trong Tân Ước, nhấn mạnh hơn giá trị
tích cực. Đối với người Latinh, trong ngôn ngữ của nghệ thuật bói toán, desiderare áp dụng vào việc thiếu các
ngôi sao (sidera) cần thiết để thiết
lập "điềm báo" hoặc điềm. Do đó, trong cách sử dụng phổ thông, "khao
khát" có nghĩa là "cảm thấy hoặc trải nghiệm sự thiếu thốn hoặc vắng
mặt của một cái gì đó".
Thuật ngữ Hy lạp tương ứng,
potheo, nguyên thủy cho thấy chuyển động
vươn vai, nằm dài, căng ra, hít vào hoặc đeo đuổi một cái gì đó. Điểm nhấn mạnh
chính là khía cạnh tích cực và năng động của khao khát. Đối với những người
phái Khắc Kỷ, khao khát là một khát vọng tinh thần khởi đi từ một quyết định có
ý thức về ý chí do lý trí hướng dẫn. Qua khao khát, linh hồn, có thể nói, vươn
mình lên, kéo dài ra trong khoảng thời gian chờ đợi, nóng lòng muốn đạt đến chỗ
cuối cùng mà nó khao khát. Người ta có thể hiểu theo nghĩa này đoạn Kinh Thánh
trình bày con người sống trong cuộc đời này như những kẻ lưu đày “khao khát” (epipotheo) tới quê hương vĩnh cửu (x.
2Cr 52). Sự phân biệt giữa hai khía cạnh tiêu cực và tích cực của khao khát phần
nào tương ứng với sự phân biệt trong tiếng Anh giữa hai động từ to miss và to long for (nhớ và mong mỏi), hoặc trong tiếng Pháp là "thiếu,
không có" và "mòn mỏi, nóng lòng chờ đợi".
Trong Kinh Thánh, người
ta bắt gặp hai ý nghĩa này khi Kinh Thánh nói về lòng khao khát Thiên Chúa; và
đôi khi chúng được sử dụng song song với nhau: "Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trong mong
tìm đến Ngài, lạy Chúa." Ở đây sự khao khát được diễn tả theo nghĩa
tích cực, bằng hình ảnh một con nai khát nước: thấy một dòng suối, nó lao đến, băng
qua những chỗ dốc đứng đến chỗ nước chảy. (Người
nào đi từ Giêrusalem đến Giêricô, men theo con suối Wadi Kelt qua sa mạc Giuđa, có thể dễ dàng hình dung cụ thể điều
tác giả Thánh vịnh gợi ra). Ngay sau câu trên là những lời: "Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời
hằng sống." Nói cách tiêu cực, đó là lối diễn tả cùng một sự khao khát:
một sự khát khao, một sự thiếu thốn, thiếu thốn và khát khao Thiên Chúa.
Với một vài ý niệm này về
khao khát nói chung, chúng ta đi tới chỗ xem xét cụ thể lòng khao khát Thiên
Chúa. Trong tất cả các khao khát của nhân loại, khao khát Thiên Chúa là sâu xa
nhất, cho dù rất thường bị bỏ qua. Một bài thơ hay của Tagore ca ngợi niềm khao
khát sâu xa này hướng tới Thiên Chúa:
“Khi màn đêm che giấu
trong bóng tối của nó đòi hỏi của ánh sáng... Như cơn bão còn khao khát được kết
thúc trong hòa bình khi nó dùng hết sức để chống lại hòa bình, cũng như vậy trong
sâu thẳm vô thức của tôi vang lên tiếng kêu: "Chính Ngài là Đấng con muốn,
chỉ mình Ngài thôi[1]!"
Ở hai cấp độ, theo hai
cách khác nhau, chúng ta nói về sự khao khát Thiên Chúa. Trước hết và quan trọng
nhất là sự "khao khát tự nhiên hướng tới Thiên Chúa", như một khái niệm
triết học và thần học. Thánh Augustinô và thánh Tôma biến nó thành khởi điểm của
một trong những bằng chứng nổi tiếng về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tiếp đến, sự
khao khát Thiên Chúa mà những tâm hồn yêu mến biết đến và không nhằm chứng minh
Thiên Chúa hiện hữu nhưng nhằm chiếm hữu Ngài: đó không phải là một khái niệm nhưng
là một tình cảm. Sự khác biệt giữa hai điều này có thể so sánh với mô tả vật lý
về hiện tượng khát và với thực tế về cơn khát của một người đã đi bộ hàng giờ
dưới cái nắng chang chang trong sa mạc. Người quan tâm đến sự khao khát tự
nhiên hướng tới Thiên Chúa rất có thể chưa từng tự mình trải nghiệm khao khát
này trong tâm hồn họ. Ngược lại, ai đã có kinh nghiệm sống động về sự khao khát
này rất có thể chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy, để từ đó kết luận về sự hiện hữu
của Thiên Chúa. Tuy nhiên, hai sự khao khát này hướng về Thiên Chúa, tức khao
khát tự nhiên và khao khát siêu nhiên, không đối lập nhau; ngược lại, khao khát
sau giả thiết khao khát trước và được xây dựng trên nó, như ân sủng giả thiết bản
tính.
Có nhiều điều để nói
ngay cả về sự khao khát tự nhiên hướng tới Thiên Chúa. Nó là "cái sâu sắc
nhất, cốt yếu nhất và cao cả nhất trong hữu thể con người"; Theo H. de
Lubac, "nó là nền tảng của nhân học Kitô giáo". Nhưng câu hỏi được đặt
ra: sự khao khát tự nhiên này hướng tới Thiên Chúa có còn nơi con người hiện đại
bị tục hóa hay không? Luận chứng của Augustinô về “tâm hồn không an nghỉ” có
còn đứng vững hay không? Đối với tôi, dường như trong số những người ủng hộ văn
hóa hiện đại, yếu tố tích cực của khao khát đã biến mất: chỉ còn lại yếu tố
tiêu cực. Khát vọng, hướng tới Chúa, bằng đức tin và lời cầu nguyện, đều biến mất;
chỉ còn lại trống rỗng do những hành vi trên đã biến mất. Chỉ còn lại cảm giác về
một sự thiếu thốn, nỗi nhớ về Thiên Chúa, mà một tác giả đã gọi là "Nỗi nhớ
về Đấng Hoàn Toàn Khác[2]".
Điều khiến chúng ta quan
tâm hơn hết, là hình thức khác của sự khao khát hướng tới Thiên Chúa, khao khát
siêu nhiên, một biểu hiện chung của đức tin, đức cậy và đức mến. Nó là động cơ
hoặc yếu tố thúc đẩy của đời sống thiêng liêng. Nó mang lại đà tiến cần thiết để
vượt qua khó khăn. Không gì lớn lao được thực hiện mà không khao khát. Người ta
không đạt tới sự thánh thiện nếu không khao khát mạnh mẽ đạt tới đó. Người ta
không đến gần Thiên Chúa bằng cách bước từng bước bằng đôi chân của mình, nhưng
bằng những khao khát của tâm hồn.
Thánh Augustinô đôi khi
đã nhận được danh hiệu tiến sĩ của lòng khao khát Thiên Chúa, vì tầm quan trọng
ngài gán cho đề tài này và vì những lần nhấn mạnh khi nói về nó. Ngài viết: “Khao
khát là đáy lòng. Chúng ta sẽ nhận được nếu chúng ta mở rộng lòng khao khát ngần
nào có thể. Khao khát càng mở rộng con tim, chúng ta càng cho nó khả năng có thể
đón nhận Thiên Chúa." "Tất cả cuộc đời của một Kitô hữu chân chính là
một khao khát thánh... Khao khát giúp bạn có thể được lấp đầy, khi xẩy đến những
gì bạn phải thấy...; bằng cách mở rộng nó, bạn làm tăng khả năng của nó...; bằng
cách bắt người ta chờ đợi, Thiên Chúa mở rộng khao khát; bằng cách làm cho người
ta khao khát, Ngài mở rộng tâm hồn; bằng cách mở rộng tâm hồn, Ngài làm cho nó
có khả năng đón nhận. Khao khát càng sống động thì chính việc cầu nguyện cũng
càng sống động: "Khao khát của bạn, chính đó là lời cầu nguyện của bạn. Nếu
khao khát của bạn liên tục, lời cầu nguyện của bạn cũng liên tục... Nếu bạn
không muốn ngừng cầu nguyện, đừng ngừng khao khát." "Cầu nguyện nhiều
chính là đánh động lâu dài bằng một chuyển động hiếu thảo của con tim nơi Đấng
mà chúng ta cầu nguyện[3]."
Có một kinh nguyện của phụng vụ dạy chúng ta cầu xin Chúa "cho tâm trí
chúng con rạng rỡ nơi mắt Chúa bằng sự khao khát tìm thấy Chúa[4]".
Như thể khi từ trời cao nhìn xuống, Thiên Chúa thấy các điểm trên trái đất ít
nhiều phát sáng tùy theo cường độ của khao khát trong lòng mỗi người.
Văn chương thần bí đầy dẫy
chủ đề khao khát Thiên Chúa, thường liên kết với câu trong sách Diễm ca: "Được ngồi dưới bóng chàng, tôi thỏa lòng mơ
ước, và hoa trái của chàng ngọt lịm trong miệng tôi" (Dc 2,3). “Khao
khát yêu thương", đó là cái tên mà tác giả vô danh thời Trung cổ trích dẫn
ở trên đưa ra: "Hãy chú ý nhiều đến công việc này và đến cách thức lạ lùng
mà công việc này được thực hiện trong tâm hồn bạn. Để hiểu cho đúng thì công việc
này không là gì khác ngoài một xung lực đột ngột và tự phát mạnh mẽ vọt lên tới
Thiên Chúa, giống như một tia lửa tóe ra từ than hồng đang cháy... Hãy dùng mũi
lao của khao khát yêu thương nồng cháy đập vào đám mây dày đặc của sự vô minh
này và đừng quay sang phía khác để nhìn điều gì đó sắp xảy ra[5]."
Như biển ngày đêm không
ngừng xô đẩy vào bờ những ngọn sóng lúc to lúc nhỏ, cũng vậy chúng ta sẽ không
bao giờ ngừng đưa những xung lực âm thầm của tâm hồn chúng ta lên tới Thiên
Chúa. Nếu trong nỗ lực này, tâm trí hỗn loạn của bạn muốn đặt ra cho mình những
câu hỏi như: "Thiên Chúa, Ngài là ai? Và làm thế nào để nghĩ về Ngài?, thì
hãy trả lời: "Tôi không biết gì cả và trong lúc này, tôi không muốn biết
gì về Ngài. Người ta phải yêu Thiên Chúa nhiều hơn là nghĩ về Ngài."
Khao khát Thiên Chúa
cũng là một tâm thái quan trọng không chỉ đối với đời sống khổ hạnh và thiêng
liêng, mà còn đối với việc loan báo Nước Trời. Tôi phải thừa nhận rằng đôi khi tôi hơi than thở
trước nhan Thiên Chúa. Tôi thưa với Ngài: "Lạy Chúa, nếu Chúa muốn rằng khi
rao giảng, con thường nói cho người khác về sự khiêm nhường, bác ái, cầu nguyện,
thì tại sao Chúa không ban cho con một chút về tất cả những gì con đang quá thiếu
thốn như thế?" Và tôi nghe thấy câu trả lời trong thâm tâm: "Chúng ta
nói về điều gì cách hăng hái nhất: về những gì đã có hay về những gì đang khao
khát?" – Tôi trả lời ngay: "về những gì đang khao khát". Khi đó
tôi hiểu rằng suốt cuộc đời này, tôi sẽ phải tiếp tục nói về những gì tôi không
có, nhưng tôi khao khát. Ít nhất tôi cũng cố gắng biến thành của tôi lời khuyên
mà một Giáo Phụ xưa dành cho người buộc phải nói và viết về những giá trị thiêng
liêng mà, trong suốt cuộc đời, người đó đã chưa thể đạt được: "Hãy nói về chúng
như một người thuộc hạng môn đệ, và không dùng uy quyền mà nói, sau khi đã hạ
mình xuống và làm cho mình nhỏ bé hơn người nghe mình[6]."
Chúng ta hãy lấy lại
"Bài ca của Ađam bị đuổi ra khỏi Địa đàng" mà cầu nguyện, một bài được
nhiều nhà khổ hạnh Chính thống giáo đánh giá cao:
"Lạy Chúa, linh hồn con mong mỏi Chúa, và con khóc lóc tìm
kiếm Chúa. Lạy Chúa, Chúa thấy nỗi đau khổ và nước mắt của con.. Hãy thắp sáng
bóng tối của con : chớ gì tâm hồn con mừng rỡ hân hoan. Làm sao Chúa có thể
quên con được? Ánh mắt bình yên và dịu dàng của Chúa đã lôi kéo linh hồn con, và
tâm trí con hân hoan trên Thiên đường, nơi con được nhìn thấy ánh mắt của Chúa[7]."
[1] R. Tagore, Gitanjàli (L’Offrande lyrique),
XXXVIII, Paris,
Gallimard, 1982, p.50.
[2] x. M. Horkheimer, Die Sebnsucht nach dem ganz Anderen, Hamburg, 1970.
[3]
Saint Augustin, Sur l’évangile de
Jean, XL, 10; cf. BA t. 73B, p. 191; Sur
la 1re lettre de Jean, IV, 6; cf. SC, 75, p.231; Sur le ps. 37, cf. Humeau, p. 46; Lettre 130, X, 20.
[4] Sách Lễ Rôma, Thứ Ba tuần I Mùa Chay
[5]
Anonyme anglais, Le nuage de
l’inconnaissance (cité note 15), ch. IV, p. 80; ch. VI, p. 87.
[6]
Isaac de Ninive, Discours
ascétique, 4, Roma, Citta Nuova, 1984, p. 89.
[7] Starets
Silouane, moine du Mont-Athos (cité note 2), p. 254.