I
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”
LỜI CỦA THIÊN CHÚA
VÀ LỜI CỦA CON NGƯỜI
1. Lời nói hay thinh lặng?
Gioan
long trọng quả quyết ở đầu sách Phúc Âm của mình: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”. Kể từ đó, đã có nhiều cố gắng sửa đổi
lời quả quyết trên đây. Thời Thượng cổ, nhóm Ngộ Đạo đề nghị dị bản này: “Lúc
khởi đầu đã có sự Thinh Lặng”, và Goethe nói qua nhân vật Faust: “Lúc khởi đầu
đã có Hành Động”. Thật thú vị khi thấy văn sĩ kết luận như trên. Faust nói:
“Tôi không thể gán cho tiếng nói một giá trị cao như thế; có lẽ tôi phải hiểu
ra “ý nghĩa”; nhưng ý nghĩa có thể sáng tạo và hành động không? Vậy phải nói:
“Lúc khởi đầu đã có sức mạnh” chăng? Nhưng không, bất chợt một tia sáng gợi ý
cho tôi câu trả lời: “Lúc khởi đầu đã có hành động”[1].”
Thế
nhưng phải chăng có thể biện minh cho những cố gắng sửa đổi này? Ngôi Lời hay Logos của Gioan chứa đựng mọi ý nghĩa mà
Goethe gán cho những hạn từ khác. Như ta thấy trong phần sau của bài Tự ngôn,
Ngôi Lời là ánh sáng, sự sống, sức mạnh sáng tạo. Đó là một “lời hành động”: “Ngài ra lệnh, chúng được tạo thành.” (Tv
14,85) Thiên Chúa tạo dựng bằng lời nói. Sự khác biệt giữa một mệnh đề suy tư
hay lý thuyết (chẳng hạn, “con người là một con vật có lý trí”) và một mệnh đề
thao tác hay thực tiễn (chẳng hạn, “Fiat
lux, Hãy có ánh sáng”) ở chỗ mệnh
đề thứ nhất chiêm ngắm sự vật đã hiện hữu, trong khi mệnh đề thứ hai làm cho nó
hiện hữu, kêu gọi nó hiện hữu.
Lúc
khởi đầu đã có sự Thinh Lặng. Câu này đúng nếu người ta hiểu thinh lặng là
không có bất cứ tiếng nói hay lời nói nào của thụ tạo; nhưng nó sai nếu người
ta cũng hiểu thinh lặng là thiếu vắng Lời của Thiên Chúa. Bản văn sách Khôn
ngoan áp dụng cho phụng vụ lễ Giáng Sinh của Đức Kitô nói đến sự thinh lặng này
của sự vật, chứ không phải sự thinh lặng tiên khởi: “Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm
canh ba, thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu.”
(Kn 18,14-15)
Tư
tưởng Kitô giáo đã phải tranh đấu để đem lại cho kiểu nói “Lúc khởi đầu” ý nghĩa đích thực như Gioan hiểu. Đặc biệt nó phải
thoát ra khỏi ý tưởng là Lời chỉ được Thiên Chúa nói ra lúc tạo dựng thế giới
khi Người phán “Fiat lux”, “Hãy có ánh sáng”. Một giải pháp tạm thời
phân biệt Lời được thốt ra (Logos
proforikos) bắt đầu hiện hữu lúc sáng tạo, với Lời sâu thẳm nơi Thiên Chúa
(Logos endiathetos) hiện hữu từ đời đời.
Một giải pháp chung cuộc được đưa ra ở Công đồng Nicêa, theo đó các Nghị Phụ
bác bỏ ý tưởng về “một lúc đã không có Ngôi Lời”. Là “Ngôi Lời được thốt ra”,
Con Thiên Chúa hằng hữu vì từ đời đời Chúa Cha nói ra Lời của Người; vả lại,
Chúa Cha, với tư cách là Cha, sẽ không hiện hữu ab aeterno (từ đời đời) nếu ab
aeterno Người đã không có một người Con là Ngôi Lời.
Vậy
“khởi đầu”, lúc Gioan định vị Lời, là một nguyên lý tuyệt đối, ngoài thời gian.
Nếu có ám chỉ tới bản văn Sáng thế “Lúc
khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1), thì ám chỉ ấy phải được hiểu
thế này: khi mọi sự bắt đầu hiện hữu, đã có Lời, Lời đã hiện hữu.
2. Một Thiên Chúa nói
Kiểu
nói “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” hàm
chứa mọi giáo lý sau này về Ba Ngôi. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa của Kinh
Thánh là độc nhất nhưng không đơn độc; Ngài là tương quan, tức là chuyển thông
vì không có lời nào không giả thiết (trong trường hợp Thiên Chúa không tạo dựng)
một người đối thoại, một người ở “ngôi thứ hai”. Tuy nhiên, tôi không quan tâm
đến Ngôi Lời trong Ba Ngôi trong bài suy niệm đầu tiên này, nhưng đến Lời của
Thiên Chúa trong lịch sử, đến lời Thiên Chúa nói với chúng ta.
Thiên
Chúa của Kinh Thánh là một Thiên Chúa nói. Thánh vịnh nói: “Đức Chúa, Thượng Đế chí tôn, Người lên tiếng
[…] Người không nín lặng.” (Tv
50,1-2). Chính Thiên Chúa không ngừng lặp lại trong Kinh Thánh: “Dân Ta hỡi, nghe đây Ta phán dạy” (Tv
50,7). Kinh Thánh thấy ở đó sự khác biệt rõ nhất giữa Thiên Chúa và các tượng
thần “có miệng mà không nói” (Tv
115,5). Thiên Chúa dùng lời nói để liên lạc với con người.
Nhưng
phải hiểu theo nghĩa nào những kiểu nói nhân hình như “Thiên Chúa nói với Abraham”, “Thiên
Chúa nói như thế”, “Chúa nói”, “Sấm ngôn của Đức Chúa” và những kiểu nói
tương tự khác? Chắc chắn đây là một lời khác hẳn với lời của con người, một lời
nói với tâm hồn. Thiên Chúa nói như Ngài viết. Ngài nói trong sách Giêrêmia: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm
khảm chúng Lề Luật của Ta” (Gr 31,33). Ngài ghi vào lòng dạ chúng ta và cả
những lời của Ngài, Ngài làm vang lên trong tâm khảm chúng ta. Ngài minh nhiên
nói điều đó qua tiên tri Hôsê, khi Ngài nói về Israel như về một người vợ bất trung:
“Này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc,
để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hs 2,16)
Đôi
lúc người ta nhấn mạnh một Lời hầu như có tính vật chất và ngoại tại của Thiên
Chúa: “Đức Chúa phán với anh em từ trong
đám lửa: anh em nghe thấy tiếng nói nhưng không thấy hình bóng nào.” (Đnl
4,12; Cv 9,7) Nhưng cũng trong những trường hợp này, đây chỉ là quan trọng hóa
một biến cố nội tâm và thiêng liêng, trong bất cứ trường hợp nào cũng đều là một
lời khác với lời của con người.
Thiên
Chúa không có miệng, cũng không có hơi thở của con người; miệng của Ngài là vị
tiên tri, hơi thở của Ngài là Chúa Thánh Thần. Ngài nói với các tiên tri: “Ngươi sẽ là môi miệng Ta”, và “Ta sẽ đặt lời Ta trên môi miệng ngươi”.
Đó là ý nghĩa của câu nổi tiếng: “Chính
nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa”
(2Pr 1,21). Cách thức nói cho tâm trí và tâm hồn này, truyền thống tu đức của
Giáo Hội chỉ định bằng thuật ngữ “tiếng nói bên trong”.
Tuy
vậy, đây thực là một lời; thụ tạo nhận được một sứ điệp có thể được dịch ra bằng
những lời của con người. Lời của Thiên Chúa đích thật và sống động đến nỗi nhà
tiên tri nhớ lại chính xác địa điểm và thời gian một lời “đến” với ông: “Năm vua Utđigiahu băng hà” (Is 6,1), “Ngày mùng năm tháng tư năm thứ ba mươi, lúc
tôi đang ở giữa những người bên sông Cơva” (Ed 1,1), “Ngày mùng một tháng sáu năm thứ hai triều vua Đariô” (Kg 1,1).
Lời
này của Thiên Chúa cụ thể đến nỗi người ta nói nó “rơi” xuống trên Israel, như
thể một viên đá: “Chúa Thượng đã gửi một
lời xuống Giacóp, lời ấy rơi xuống Israel” (Is 9,7). Trong những lần khác,
đặc điểm cụ thể và vật chất này được diễn tả bằng biểu tượng không phải viên đá
rơi xuống, nhưng là bánh người ta sung sướng mà ăn: “Gặp được lời Chúa con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ.”
(Gr 15,16; xem thêm Ed 3,1-3)
Không
một tiếng nói nào của con người đến được với con người cách sâu xa bằng Lời của
Thiên Chúa. “(Lời Thiên Chúa) phân cách
tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng
người.” (Dt 4,12)
Có
khi Lời Thiên Chúa giống như sấm sét: “Tiếng
Chúa đánh gẫy ngàn hương bá […] Liban”
(Tv 29,50), có khi giống như “tiếng gió
hiu hiu” (1V 19,12). Lời đó biết đến mọi âm thể của lời con người.
3. Được tạo dựng theo
hình ảnh Thiên Chúa vì được ban tặng lời
Diễn
từ về bản chất Lời Thiên Chúa thay đổi tận căn từ khẳng định đầu tiên của bài Tự
ngôn: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” đến
khẳng định cuối cùng: “Và Ngôi Lời đã trở
nên người phàm”. Với việc Đức Kitô đến, Thiên Chúa cũng nói bằng tiếng nói
của con người, không những tai của linh hồn mà cả tai của thân xác cũng nghe được.
“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều
chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng
và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1Ga 1,1)
Lời
đã được thấy và được nghe! Tuy nhiên, điều nghe thấy không phải là lời của con
người nhưng là Lời của Thiên Chúa, vì người nói không phải là bản tính, nhưng
là ngôi vị, và ngôi vị của Đức Kitô là cùng một ngôi vị Thiên Chúa cũng như Con
Thiên Chúa. Nơi Ngài, Thiên Chúa không còn nói với chúng ta qua người trung
gian nữa, “qua các tiên tri”, nhưng tự
mình nói, vì Đức Kitô là “phản ánh vẻ huy
hoàng (của Chúa Cha), hình ảnh trung
thực của bản thể (Thiên Chúa).” (Dt 1,2)
Nhưng
lúc này chúng ta không dừng lại ở lời Đức Kitô. Chúng ta sẽ nói lại lời ấy
trong tất cả phần tiếp theo của cuốn sách. Trong chương thứ nhất này, chúng ta
muốn suy niệm xem Lời Thiên Chúa có ý nghĩa gì cho chúng ta, và điều đó có thể
giúp chúng ta thế nào để thanh tẩy cách sử dụng lời được ban cho chúng ta.
Thiên
Chúa tạo dựng con người “theo hình ảnh
Ngài” vì Ngài tạo dựng họ có khả năng nói, truyền đạt và thiết lập những
tương quan; để họ có thể làm điều đó, “Ngài
tạo dựng họ có nam có nữ” (St 1,27), nói khác đi là những con người khác
nhau. Từ đời đời Thiên Chúa mang nơi mình một Lời, Ngôi Lời của Ngài, nên đã tạo
dựng con người được phú ban lời.
Để
không những con người “theo hình ảnh”
của Thiên Chúa mà còn “giống” Ngài,
con người nói năng không đủ, nhưng còn phải nói như Thiên Chúa nói, bắt chước
cách nói của Thiên Chúa, trong nội dung và trong lý do của lời họ nói. Mà chính
tình yêu vừa là nội dung vừa là động lực của Lời Thiên Chúa. Thiên Chúa nói vì
cùng một lý do như Ngài tạo dựng: “để mọi loài được tràn đầy ơn phúc và nhiều thụ tạo vui hưởng ánh sáng huy hoàng của
Ngài” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Từ
đầu tới cuối, Kinh Thánh chỉ là một sứ điệp tình yêu gửi tới mọi thụ tạo. Giọng
điệu có thể thay đổi, từ giận dữ đến êm ái, nhưng bản chất thì lúc nào cũng chỉ
là tình yêu. Người ta nói rằng nếu mọi cuốn Kinh Thánh trên thế giới bị một tai
họa nào đó hủy hoại, chỉ còn lại một cuốn; nếu cuốn này cũng bị hư hại đến nỗi
chỉ còn một trang; và nếu trang này cũng rách nát khiến chỉ còn một hàng có thể
đọc được; nếu đây là hàng chữ của Thư thứ I thánh Gioan viết rằng: “Thiên Chúa là Tình yêu”, thì cả cuốn
Kinh Thánh được cứu vãn, vì Kinh Thánh hoàn toàn chứa đựng trong hàng chữ này.
Thiên
Chúa đã dùng lời để truyền đạt sự sống và sự thật, để dạy dỗ và an ủi. Tông Đồ
Phaolô viết: “Quả thế, mọi lời xưa đã
chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho
chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy”
(Rm 15,4). Trong thời đại truyền thông đại chúng đã mở rộng gần như vô tận, cả
tốt lẫn xấu, việc sử dụng lời nói, chúng ta phải tự đặt ra cho mình câu hỏi
này: là những con người, chúng ta có sử dụng lời được viết hay nói ra, để truyền
đạt sự sống và sự thật, hay trái lại, để gieo rắc sự chết và xuyên tạc sự thật?
Trong
vở kịch đầy kịch tính Huis clos,
Sartre cho chúng ta một hình ảnh tàn khốc về những gì có thể trở thành giao tiếp
của con người khi thiếu vắng tình yêu. Ba người, một người đàn ông và hai phụ nữ,
được đưa vào một căn phòng trong khoảng thời gian ngắn. Không có cửa sổ, ánh sáng
ở mức tối đa và người ta không thể tắt nó, hơi nóng ngột ngạt và không có gì
ngoài chiếc ghế bành cho mỗi người. Cửa ra vào dĩ nhiên là đóng, chuông cửa vẫn
còn nhưng không reo. Những người này là ai? Đó là ba người chết đang ở trong hỏa
ngục. Người đàn ông là một kẻ đào ngũ suốt đời đã hành hạ người vợ tội nghiệp,
hai người phụ nữ thì một là người giết đứa con mới sinh và một là đồng tính nữ.
Không
có gương soi. Mỗi người trong số họ chỉ có thể trông thấy mình qua những lời
nói và linh hồn của người khác, là người trả lại cho người đó hình ảnh xấu xí
nhất về con người của người đó, không một chút thương xót, và còn là người tự ý
làm trầm trọng thêm nỗi kinh hoàng bằng những lời cay độc. Sau một thời gian,
linh hồn của họ bị bóc trần, người này trước người kia, những lỗi lầm khiến họ
xấu hổ nhất đã được phơi bày ra ánh sáng và bị người khác khai thác không
thương tiếc; khi đó, một người trong số họ nói với hai người kia: "Các
ngươi nhớ không: lưu huỳnh, giàn hỏa, vỉ nướng …A! Thật là một trò đùa: không cần
vỉ nướng, Hỏa ngục là những người khác[2]."
Lạm dụng lời nói có thể biến cuộc sống thành hỏa ngục.
Trong
lời giới thiệu cuốn Dictionnaire des
oeuvres nổi tiếng của mình, Valentino Bompiani kể lại câu chuyện sau đây:
vào tháng 7 năm 1938, một đại hội quốc tế các nhà xuất bản đã diễn ra tại
Berlin mà ông đã tham gia. Chiến tranh sắp xẩy ra và chính phủ Đức Quốc Xã là bậc
thầy trong nghệ thuật thao túng ngôn từ cho mục đích tuyên truyền. Ngày áp
chót, Goebbels, Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền Đức Quốc Xã, đã mời những người tham
dự đại hội vào hội trường quốc hội. Các đại biểu từ các quốc gia khác nhau được
yêu cầu phát biểu. Khi đến lượt nhà xuất bản người Thụy Điển, ông ta bước lên bục
giảng và nói với giọng điệu nghiêm trang:
“Lạy
Chúa, con phải đọc một bài diễn văn bằng tiếng Đức, con không có từ vựng hay ngữ
pháp và con là một người đáng thương bị lạc trong các giống loài. Con không biết
liệu tình bạn có thuộc nữ tính và thù ghét thuộc nam tính, hay liệu danh dự,
trung thành, hòa bình là trung tính hay không, Vì vậy, lạy Chúa là Thiên Chúa của
con, xin Chúa tiếp tục nói và để lại cho chúng con nhân tính của chúng con. Có
lẽ chúng con sẽ hiểu mình và tự cứu lấy mình."
Những
tràng pháo tay vang lên và Goebbels, người đã hiểu lời ám chỉ, rời khỏi hội trường.
Thật khủng khiếp khi phải xin Thiên Chúa mang lời đi khỏi chúng ta, vì chúng ta
chỉ làm tổn thương mình bằng lời đó.
Một
hoàng đế Trung Quốc, được hỏi điều cấp bách nhất để cải thiện thế giới là gì,
đã trả lời không do dự: cải cách các lời nói! Ông muốn nói là: trả lại cho lời
nói ý nghĩa thật sự của chúng. Ông có lý. Có những lời đã mất dần nghĩa gốc và
mang những nghĩa hoàn toàn ngược lại. Việc sử dụng chúng chỉ có thể gây hại.
Như thể chúng ta dán trên một chai thạch tín nhãn hiệu: "Chất tiêu hóa sủi
bọt"; bảo đảm người ta có thể bị đầu độc. Các quốc gia ban hành những luật
lệ nghiêm khắc chống lại người làm bạc giả, nhưng không tiên liệu luật nào chống
lại người nói những lời giả.
Không
một lời nào cho thấy một quá trình giả mạo như thuật ngữ “tình yêu”. Một người
đàn ông bạo hành một phụ nữ và để xin lỗi, anh ta nói làm thế là vì yêu. Kiểu
nói "làm tình" thường phản ánh hành vi ích kỷ dung tục nhất, trong đó
mỗi người chỉ nghĩ đến sự thỏa mãn riêng của mình, hoàn toàn phớt lờ người khác
và biến người đó thành một đồ vật thuần túy, thậm chí khinh miệt người đó trong
lòng.
4. Không nói lời xấu
Kinh
Thánh chỉ cho chúng ta cách làm thế nào dể canh tân ngôn ngữ của chúng ta, và
đâu là cách chúng ta phải sử dụng lời nói cho tốt. Luật vàng là luật chính Đức
Giêsu đã ban bố trong Phúc Âm: “Hễ “có”
thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”
(Mt 5,37)
Cách
trình bầy kiểu nói là cố ý nghịch lý như trong nhiều cách diễn đạt khác của bài
giảng trên núi; dĩ nhiên không được hiểu theo nghĩa đen, đây không phải là biến
ngôn ngữ thành một lựa chọn thuần túy giữa "có" và "không".
Đúng hơn, điều đó nhấn mạnh một kiểu cách ngôn ngữ, một sự tiết độ nào đó tránh
việc gia tăng lời nói hoặc tránh việc gán cho chúng thêm uy lực hơn những gì
chúng đáng có, như người ta có thể làm điều đó với mọi loại lời thề.
Thánh
Giacôbê nói: “Lưỡi có thể huênh hoang làm
được những chuyện to lớn” về điều tốt cũng như về điều xấu; “Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc
cháy đám rừng to lớn biết bao; cái lưỡi cũng là một ngọn lửa […] Nó chứa đầy nọc độc chết người.” (Gc
3,1-12) Lưỡi đã làm chết biết bao nhiêu người! Trong đời sống cộng đồng hoặc
gia đình, những lời nói tiêu cực, sắc bén, tàn nhẫn có khả năng làm người khác
thu mình lại và dập tắt tất cả sự tin tưởng và bầu khí huynh đệ. Những người nhạy
cảm nhất có thể “chết” vì những lời cứng cỏi đó, và có lẽ cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng làm cho một số người chết thuộc loại này...
Tất
nhiên chúng ta không được chỉ lo sửa đổi lời nói, theo cách giả hình; chắc chắn
phải bắt đầu bằng tấm lòng là nguồn mạch của lời nói (theo thánh Giacôbê: “Nước mặn không thể sinh ra nước ngọt”)
nhưng đúng là nước này bao gồm cả nước kia, miệng lưỡi bao gồm cả tấm lòng.
Chúng ta không được chỉ yêu bằng lời
nói và miệng lưỡi (x. 1Ga 3,18)) nhưng cũng
phải yêu bằng lời nói và miệng lưỡi nữa.
Chính
vì vậy thánh Phaolô đưa ra luật vàng cho người Kitô hữu liên hệ đến lời nói: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa,
nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người
nghe.” (Ep 4,29)
Không
khó để học cách phân biệt những lời xấu với những lời tốt; chỉ cần đi theo quỹ
đạo vô hình xem chúng sẽ hạ cánh ở đâu: xem chúng gia tăng vinh quang của chúng
ta hay vinh quang của Thiên Chúa và của người lân cận, xem chúng được dùng để
biện minh, để thông cảm hay để khẳng định cái tôi của tôi hoặc ngược lại, xem
chúng có nhằm điều tốt cho anh em tôi chăng.
Mọi
lời nói ra mà không có tình yêu đều là một lời xấu. Nếu lời xấu nói ra từ môi
miệng tôi, tôi sẽ phải loại bỏ nó.
Có
thể nhớ lại một lời đã thoát ra từ môi miệng hoặc ít nhất hạn chế tác dụng của
nó, bằng cách xin lỗi. Bằng cách này, dần dần chúng ta sẽ học cách kìm nén những
lời nói xấu trên đầu môi chót lưỡi như người ta nói, cho đến khi chúng bắt đầu
biến mất để nhường chỗ cho những lời nói tốt. Khi ấy quả là một món quà cho những
người đồng loại, một sự cải thiện phẩm chất cuộc sống của chúng ta trong gia
đình và xã hội! Lời nói tốt là lời biết cách nắm bắt khía cạnh tích cực của sự
vật và con người, và không bao giờ làm tổn thương ngay cả khi nó nhằm mục đích
sửa chữa người khác. Một lời nói tốt trên hết là một lời nói mang lại hy vọng.
5. Lạy Chúa, xin lắng
nghe
Việc
sử dụng cao cả nhất mà chúng ta có thể thực hiện bằng lời nói là trong cuộc đối
thoại với Thiên Chúa là Đấng nói với chúng ta trong Kinh Thánh và tiếp tục nói
với chúng ta trong tâm hồn. Nói tóm lại, việc sử dụng Lời Chúa tốt nhất là cầu
nguyện. Con người bao giờ cũng là chính mình hơn chỉ khi nói chuyện với Thiên
Chúa. Khi nói chuyện với nhau, chúng ta có khuynh hướng đeo mặt nạ, im lặng hoặc
che giấu một phần suy nghĩ của mình, điều này đôi khi do sự thận trọng hoặc lịch
sự đòi hỏi.
Chúng
ta chỉ chân thật trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì biết rõ rằng “không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ
trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bầy trước mặt Đấng có quyền
đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4,13).
Chính
Thiên Chúa đã gợi ra những lời có thể nói để thưa lên với Ngài: Thánh vịnh và
vô số lời cầu nguyện rải rác trong Kinh Thánh, và dĩ nhiên kinh Lạy Cha,
"mẹ của mọi kinh nguyện". Không phải vì chúng ta lặp lại chúng một
cách máy móc, nhưng vì chúng ta biến chúng thành của chúng ta và chúng ta rập
khuôn những lời cầu nguyện cá nhân và tự phát của chúng ta theo những kinh nguyện
mà Thần Khí linh hứng cho những người cầu nguyện vĩ đại của Kinh Thánh.
Không
giống như tất cả các lời của con người, ngay cả những lời cao siêu nhất trong
văn chương, những lời của Kinh Thánh không suy mòn và chán ngấy nếu chúng được
lặp đi lặp lại mỗi ngày. Đây là những lời "không cạn kiệt". Sau bao
nhiêu thế kỷ tồn tại, kinh Miserere
tiếp tục bày tỏ sự thống hối và kinh Magnificat
bày tỏ lòng biết ơn vui mừng.
Đức
Giêsu khuyên thực hành sự giản dị và tiết kiệm lời nói không chỉ trong các cuộc
đối thoại của con người chúng ta mà còn trong cuộc đối thoại của chúng ta với
Thiên Chúa: “Khi cầu nguyện, anh em đừng
lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời.” (Mt
6,7)
Lời
gợi ý này áp dụng chủ yếu cho lời cầu nguyện xin ơn "vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin”
(Mt 6,8), và áp dụng ít hơn cho lời cầu nguyện ngợi khen, tạ ơn và chúc tụng,
trong đó nguyên tắc ngược lại đang thịnh hành, theo cách trình bày công thức của
thánh Tôma Aquinô trong bài ca tiếp liên Lauda
Sion Salvatorem trong lễ Corpus
Domini (lễ trọng kính Mình Máu Chúa): “Ngần nào có thể, bạn phải dám, bởi
vì nó (mầu nhiệm) vượt quá lời khen ngợi của bạn và bạn sẽ không bao giờ có thể
ca ngợi Ngài thái quá."
Tôi
muốn kết luận bằng cách đưa ra một mẫu gương cảm động về một cuộc đối thoại cá
nhân và thân mật với Thiên Chúa diễn ra hết sức chân thành. Đó là một lời cầu
nguyện được tìm thấy trong túi áo khoác của một người lính Nga, Aleksander
Zacepa, sáng tác không lâu trước trận đánh mà anh ta mất mạng trong Thế chiến
thứ hai. Bản văn được in trong một tạp chí bí mật vào năm 1972:
“Xin
lắng nghe con, lạy Chúa! Con đã không nói với Chúa một lần nào trong đời, nhưng
hôm nay con muốn long trọng thưa chuyện với Chúa. Chúa biết đấy, từ khi còn rất
nhỏ, con luôn được dạy rằng Chúa không hiện hữu... và con, như một kẻ ngốc, con
đã tin vào điều đó.
Con
đã chưa bao giờ chiêm ngưỡng các kỳ công của Chúa, nhưng đêm nay, từ cái hố được
lựu đạn tạo ra, con quan sát bầu trời đầy sao phía trên con. Bị những vì sao lấp
lánh mê hoặc, con chợt hiểu rằng bị lừa dối khủng khiếp như thế nào... Lạy
Chúa, con không biết liệu Chúa có sẽ đưa tay cho con, nhưng con nói điều đó với
Chúa, và Chúa hiểu con...
Có
phải là lạ không khi ở giữa một địa ngục khủng khiếp, ánh sáng xuất hiện cho
con và con đã khám phá ra nó? Ngoài điều đó ra, con không có gì để nói với
Chúa. Con hạnh phúc đơn giản vì con đã biết Chúa. Lúc nửa đêm chúng con phải tấn
công, nhưng con không sợ. Xin nhìn đến chúng con.
Đã
có tín hiệu! Con phải đi. Con đã sống yên hàn với Chúa. Con còn muốn nói với
Chúa, và Chúa biết điều đó, là trận chiến sẽ khó khăn: có thể chính đêm nay con
sẽ gõ cửa nhà Chúa. Và cho dù cho tới lúc này con đã chưa từng là bạn của Chúa,
khi con đến, Chúa sẽ cho con vào chứ?
Nhưng
chuyện gì đang xảy ra? Con khóc chăng?
Lạy
Thiên Chúa của con, Chúa thấy điều gì đã xảy ra với con, con chỉ mới bắt đầu thấy
rõ lúc này đây... Hẹn gặp lại Chúa, lạy Chúa, con sẽ rời đi... Con sẽ khó mà trở
lại. Thật kỳ lạ, bây giờ cái chết không làm con sợ hãi[3]."
[1]
W. Goethe, Faust, Ie
partie, J’ai lu, Paris
[2]
J.P. Sartre, Huis clos,
Gallimard 2000, p.92.
[3]
In V. Cattana, Le prehiere più
belle del mondo, Mondadori, Milano 2000, p. 188.