VII
“Văn tự thì giết chết, Thần Khí ban sự
sống”
ĐỌC KINH THÁNH
THEO HƯỚNG THIÊNG LIÊNG
1. Kinh Thánh được Thiên Chúa linh hứng
Trong Thư thứ hai gửi
cho Timôthê, người ta bắt gặp một câu quả quyết nổi tiếng: "Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do
Thiên Chúa linh hứng" (2Tm 3,16). Theo
ngôn ngữ nguyên thủy, kiểu nói "được Thiên Chúa linh hứng" gồm một chữ
duy nhất, "theopneustos", gồm
cả chữ Chúa (Theos) lẫn chữ Thần
Khí (Pneuma). Có hai ý nghĩa cơ bản:
một nghĩa được biết đến nhiều, ngược lại, nghĩa kia thường không được xem xét,
mặc dù nó cũng quan trọng không kém nghĩa đầu tiên.
Nghĩa được biết đến nhiều
nhất là nghĩa thụ động, được các bản dịch hiện đại làm nổi bật: Kinh Thánh
"được Thiên Chúa linh hứng". Một đoạn khác trong Tân Ước giải thích
nghĩa này như sau: "Chính nhờ Thánh
Thần thúc đẩy mà có những người (các tiên tri) đã nói theo lệnh của Thiên Chúa." (2Pr 1,21). Tóm lại, đây là
học thuyết cổ điển về sự linh hứng Kinh Thánh, một tín khoản như chúng ta tuyên
xưng trong Kinh Tin Kính, khi chúng ta nói: “Người (Chúa Thánh Thần) đã dùng
các tiên tri mà phán dạy".
Học thuyết này đưa chúng
ta trở lại chính nguồn gốc của tất cả mầu nhiệm Kitô giáo là Ba Ngôi, nghĩa là
sự duy nhất và phân biệt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần đồng hành với
Lời; cũng vậy, trong lòng Ba Ngôi, hơi thở của Chúa Thánh Thần liên kết với việc
Ngôi Lời sinh ra. Cũng như trong Nhập thể, Thần Khí đến với Đức Maria để Ngôi Lời
mặc lấy xác thịt, thì theo cách tương tự (không đồng nhất với nhau), Thần Khí
hành động nơi văn sĩ thánh, để ông đón nhận Lời Thiên Chúa và làm cho Lời
"nhập thể" trong một ngôn ngữ nhân loại.
Biến cố linh hứng, tự nó
là mầu nhiệm, chúng ta có thể biểu thị bằng những hình ảnh của con người như
sau: Thiên Chúa dùng ngón tay của Người – tức bằng thần lực sống động là Chúa
Thán Thần – “chạm vào” điểm ẩn giấu này, nơi thần trí con người mở ra cho Đấng
vô biên, và từ đó, "cú chạm" này – tự nó rất đơn giản và tức thời như
vốn có nơi Thiên Chúa là Đấng tạo ra nó – được khuếch tán như một sự rung động
vang lên trong tất cả các quan năng của con người – ý chí, trí khôn, trái tim,
sự tưởng tượng – được diễn đạt bằng các
khái niệm, hình ảnh, lời nói. Khi ấy, diễn ra bước đi mầu nhiệm từ chuyển động
thần linh đến thực tại được tạo ra, là thực tại được quan sát thấy trong tất cả
các công trình ad extra (hướng ngoại) của Thiên Chúa:
trong việc sáng tạo, nhập thể, hình thành ân sủng.
Kết quả mà chúng ta có
được là một thực tại nhân–thần, có nghĩa là hoàn toàn thần linh và hoàn toàn
nhân loại, hai yếu tố liên quan mật thiết với nhau nhưng không "lẫn lộn".
Huấn quyền của Giáo Hội – các thông điệp Providentissimus
Deus của Đức Lêô XIII và Divino
afflante Spiritu của Đức Piô XII – cho thấy hai yếu tố thần linh và nhân loại
vẫn nguyên vẹn. Thiên Chúa là tác giả chính, vì Người chịu trách nhiệm về những
gì được viết ra, bằng cách xác định nội dung nhờ hành động của Thần Khí. Tuy
nhiên, văn sĩ thánh cũng là tác giả, theo nghĩa riêng của từ này, vì ông cộng
tác cách nội tại vào hành động này thông qua hoạt động bình thường của con người,
được Thiên Chúa dùng như một dụng cụ. Theo các Giáo Phụ, Thiên Chúa giống như
nhạc sĩ làm cho dây đàn rung lên khi chạm vào chúng; âm thanh hoàn toàn là công
trình của nhạc sĩ, nhưng sẽ không có âm thanh, nếu không có dây đàn.
Nói chung, người ta hầu
như chỉ nhấn mạnh một hiệu quả duy nhất của công trình kỳ diệu này do Thiên
Chúa làm ra: không có sự sai lầm trong Kinh Thánh, nghĩa là Kinh Thánh không có
sai lầm nào, nếu hiểu đúng thuật ngữ "sai lầm" là thiếu vắng sự thật
có thể có nơi con người, trong một bối cảnh văn hoá nhất định, có để ý đến văn
thể được sử dụng, và do đó thích hợp với người viết. Nhưng sự linh hứng Kinh
Thánh không chỉ là sự không sai lầm của lời Chúa (một điều gì đó tiêu cực); một
cách tích cực, sự linh hứng xác định tính chất vô tận của lời Chúa, sức mạnh và
sức sống thần linh của lời Chúa, và chiều sâu huyền diệu, mira profunditas, như Thánh Augustinô nói[1].
Như vậy, chúng ta đang
chuẩn bị để khám phá nghĩa khác của linh hứng trong Kinh Thánh, như đã nói
trên. Trên bình diện ngữ pháp, phân từ theopneustos
tự nó có nghĩa năng động, chứ không thụ động. Nếu đúng là truyền thống và thần
học đã luôn giải thích theo nghĩa thụ động, thì có những lúc chính truyền thống
cũng đã hiểu theo nghĩa năng động. Theo thánh Ambrosiô, Kinh Thánh là "theopneustos", không chỉ vì “được
Thiên Chúa linh hứng", mà còn vì "thở ra Thiên Chúa", vì “phát
tán Thiên Chúa[2]!”
Nói về những thụ tạo,
thánh Augustinô bảo rằng Thiên Chúa “đã không lui đi sau khi đã tạo dựng mọi
loài, nhưng chính nơi Người cũng như từ Người mà chúng có được hữu thể của mình[3]”.
Đây là điều xảy ra với những lời của Thiên Chúa: những lời đó từ Thiên Chúa mà
đến thì vẫn ở trong Người và Người ở trong những lời đó. Sau khi đã linh hứng
Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần như bị giam giữ trong Kinh Thánh. Người ở đó và
không ngừng làm Kinh Thánh sinh động bằng hơi thở thần linh. Heidegger nói rằng
"lời là nhà của Hữu thể". Chúng ta có thể nói rằng Lời (với L viết
hoa) là nơi ở của Thần Khí.
Hiến chế về Mạc Khải của
Vaticanô II cũng lặp lại nguồn linh hứng này của truyền thống khi nói rằng
"được Thiên Chúa linh hứng (linh hứng thụ động!) và được ghi chép một lần
cho muôn đời, [Kinh Thánh] phân phát cách bất di bất dịch lời của chính Chúa,
và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Tiên Tri cùng các Tông Đồ"
(linh hứng năng động)[4]”.
2. Thuyết ảo thân và thuyết Ebion về Kinh Thánh
Bây giờ chúng ta phải
đương đầu với vấn đề tế nhị nhất: làm thế nào tiếp cận Kinh Thánh để Kinh Thánh
thực sự "giải phóng" Thần Khí mà Kinh Thánh chứa đựng? Làm thế nào để
"giở Kinh Thánh ra", nghĩa là –
hiểu thuật ngữ này theo nghĩa đen – làm thế nào để thâm nhập vào những nếp
gấp của Kinh Thánh để chúng giải phóng hương thơm này của Thiên Chúa mà, bằng đức
tin, chúng ta biết được chứa đựng trong đó? Tôi đã nói Kinh Thánh là một thực tại
nhân–thần, vừa thần linh vừa nhân loại. Mà luật của mọi thực tại nhân thần, chẳng
hạn như Đức Kitô và Giáo Hội, là người ta chỉ có thể khám phá ra yếu tố thần
linh chứa đựng trong thực tại ấy qua yếu tố nhân loại. Người ta chỉ có thể khám
phá ra thần tính của Đức Kitô qua nhân tính cụ thể của Ngài.
Thời Thượng cổ, những
người theo thuyết ảo thân (docétisme) muốn tiến hành cách khác. Họ coi thân xác
Đức Kitô và những đặc tính nhân loại của Ngài chỉ là những “dáng vẻ thuần túy
bên ngoài” (dokein). Họ cũng làm mất
đi thực tại sâu xa của Ngài, và thay vì một Thiên Chúa hằng sống làm người, họ
có ý tưởng bông lông về Thiên Chúa. Cũng theo cách đó, trong Sách Thánh, người
ta không thể khám phá ra Thần Khí mà không qua chữ viết, nghĩa là đồ trang trí
cụ thể của con người bao bọc lời Chúa, trong các sách khác nhau và nơi các tác
giả được linh hứng. Người ta chỉ có thể khám phá ra ý nghĩa thần linh chứa đựng
trong Sách Thánh bằng cách khởi đi từ ý nghĩa nhân loại, ý nghĩa mà các tác giả
nhân loại như Isaia, Giêrêmia, Luca, Phaolô, vv. muốn gán cho.
Ở đây, người ta thấy bao
nhiêu nỗ lực nghiên cứu và tìm tòi chung quanh Sách Thánh hoàn toàn được biện minh.
Có vô số tín hữu dành cả cuộc đời mình để làm sáng tỏ những vấn đề trong Kinh
Thánh: những vấn đề liên hệ tới chính bản văn Kinh Thánh, bối cảnh lịch sử và
văn hóa của mỗi cuốn sách, các văn thể khác nhau, các nguồn bên trong và bên
ngoài của Kinh Thánh, ý nghĩa chính xác của mỗi đoạn văn... Dân Kitô giáo phải
hết lòng biết ơn các anh em này: khi mở Kinh Thánh, chúng ta thu lượm đầy đủ
hoa quả từ công lao mệt nhọc của họ, và chúng ta biến nó thành của chúng ta,
ngay cả khi chúng ta không nhận ra điều đó.
Nhưng thuyết duy căn
không phải là mối nguy hiểm duy nhất mà khoa chú giải Kinh Thánh gặp phải. Trước
con người Đức Giêsu, không chỉ có nguy cơ của thuyết ảo thân, nghĩa là bỏ qua yếu
tố con người, còn có nguy cơ dừng lại ở yếu tố con người, chỉ nhìn thấy nơi
Ngài yếu tố con người và không khám phá ra chiều kích thần linh của Con Thiên
Chúa. Nói tắt là nguy hiểm của thuyết Ebion. Theo phái Ebion (những Kitô hữu gốc
Do Thái), Đức Giêsu chắc chắn là một tiên tri vĩ đại, vĩ đại nhất nếu muốn,
nhưng không hơn. Các Giáo Phụ gọi họ là "Ebionit" (từ chữ ebionim, những người nghèo), có nghĩa là
nghèo trên bình diện đức tin.
Đây cũng là điều xảy ra
với Kinh Thánh. Có một chủ thuyết Ebion về Kinh Thánh, với xu hướng dừng lại ở
từ ngữ, xem Kinh Thánh như một cuốn sách tuyệt vời, hay nhất trong số những
sách của con người nếu muốn, nhưng chỉ là cuốn sách thuần túy nhân loại. Thật
không may, chúng ta có nguy cơ chỉ thấy một chiều kích của Kinh Thánh. Phá vỡ sự
cân bằng ngày hôm nay không phải là hướng về thuyết ảo thân, nhưng là về thuyết
Ebion.
Những lời này của
Kierkegaard có từ một thế kỷ rưỡi trước, vẫn giữ được phần lớn giá trị của
chúng, ngay cả đối với người Công giáo: "Làm thế nào để chúng ta đọc Lời
Chúa trong Kitô giới? Nếu chúng ta chia thành hai hạng, nếu không muốn lạc lối
trong quá nhiều trường hợp đặc biệt, thì phải nói: đa số không bao giờ đọc Lời
Chúa, một thiểu số đọc theo cách ít nhiều bác học, nghĩa là nhìn vào tấm gương
("nhìn vào tấm gương" có nghĩa là dừng lại ở những vấn đề phê bình, ở
nghĩa đen của Kinh Thánh). Hay nói cách khác, hoặc nói cùng một điều theo một
cách khác: đại đa số coi Kinh Thánh là một cuốn sách cổ có tầm quan trọng đặc
biệt, mà người ta chuyên chú nghiên cứu với một sự nhạy bén và nhiệt tình đáng
kinh ngạc[5]."
Nhiều nhà chuyên môn tự
ý giải thích Kinh Thánh bằng cách chỉ sử dụng phương pháp lịch sử và phê bình.
Tôi không nói về các nhà chuyên môn vô tín, điều này là bình thường đối với họ,
nhưng về các nhà chuyên môn tự nhận là tín hữu. Sự tục hoá yếu tố thiêng thánh
chưa từng bao giờ được thể hiện một cách tế nhị như trong sự tục hóa Sách
Thánh. Nhưng tự phụ hiểu Kinh Thánh một cách thấu đáo, nghiên cứu Kinh Thánh chỉ
bằng dụng cụ phân tích lịch sử và ngữ học, thì cũng như tự phụ khám phá ra mầu
nhiệm Đức Kitô hiện diện thực sự trong Thánh Thể, dựa trên sự phân tích hóa học
của bánh được truyền phép! Phân tích lịch sử và phê bình, cho dù được đẩy đến mức
hoàn hảo tối đa, trong thực tế chỉ là bước đầu tìm hiểu Kinh Thánh, tức là bước
liên quan đến văn tự.
Đức Giêsu long trọng quả
quyết trong Tin Mừng là Abraham "đã
nhìn thấy ngày của Ngài" (x. Ga 8,56), Môsê "đã viết về Ngài" (Ga 5,46), Isaia “đã thấy vinh quang của Ngài và đã nói về Ngài" (Ga 12,41), các
tiên tri, các Thánh vịnh và tất cả Kinh Thánh nói về Ngài (x. Lc 24,27.44 ; Ga
5,39), nhưng hôm nay có một vài chú giải khoa học do dự khi nói về Đức Kitô, thực
tế không thấy Ngài trong bất kỳ đoạn văn nào của Cựu Ước, hoặc ít ra không dám
nói rằng mình thấy Ngài vì sợ bị mất tư cách "trên bình diện khoa học".
Sự bất tiện nghiêm trọng
nhất của một khoa chú giải hoàn toàn khoa học là làm thay đổi hẳn mối quan hệ
giữa nhà chú giải và lời Chúa. Để hiểu ý nghĩa của quả quyết này, phải tính đến
những gì đã xảy ra trong lãnh vực tổng quát hơn của thần học. Hôm nay chúng ta
có nhiều nghiên cứu về sự tiến hóa của ý nghĩa chữ "thần học", từ khởi
thủy cho đến ngày nay. Những nghiên cứu này đã đưa ra ánh sáng một sự tiến hóa
rất rõ ràng và một loại nếp gãy xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 12. Cho đến
nay, thuật ngữ thần học chỉ ra "một cách nào đó biết Thiên Chúa và nói về
Ngài". Một cách vay mượn từ sự ngợi khen, tôn thờ, hoàn toàn chấp nhận
Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
Thần học được xem trên hết
như một sự khôn ngoan, như một ân sủng
và một đặc sủng. Như người ta nghĩ, chỉ có Chúa Thánh Thần, Đấng dò thấu những
chiều sâu của Thiên Chúa, có thể dạy người ta nói về Thiên Chúa. Evagre nói:
"Nếu bạn là một nhà thần học, bạn sẽ thực sự cầu nguyện, và nếu bạn thực sự
cầu nguyện, bạn sẽ là một nhà thần học". Lần đầu tiên thuật ngữ “làm thần học”
xuất hiện trong ngôn ngữ Kitô giáo, nó có ý nghĩa là “[dùng những bài thánh
thi] công bố thần tính của Đức Kitô như là Thiên Chúa[6]".
Từ thế kỷ 12, thần học
đã có được một ý nghĩa mới: một kiến thức có tổ chức và thông thái về các sự kiện
mạc khải, một trình bầy hợp lý về những gì liên quan đến Kitô giáo. Nói tóm lại,
đó là sự ra đời của thần học với tư cách một khoa học. Khi sự thay đổi này xảy
ra, không có gì đặc biệt mang tính cách mạng. Thật vậy, nó không loại trừ thành
tố tôn giáo của việc khiêm tốn phục tùng Thiên Chúa, là thành tố luôn gắn liền
với hoạt động thần học. Thần học là nữ hoàng của các khoa học và được công nhận
trong các trường đại học là đứng đầu so với tất cả các môn khác. Chính thần học
có thể nói được là đã "tạo hình" cho các khoa học khác và hơn nữa, tất
cả các khoa học vẫn được xem xét theo một nghĩa thiêng thánh và tôn giáo.
Sự bất tiện đã được tiết
lộ sau đó, khi các báo cáo thay đổi. Khoa học được giải phóng, khoa học tuyệt vời
trở thành triết học và cuối cùng, trong những thế kỷ vừa qua, là vật lý học, và
ngày nay là sinh học. Ở giai đoạn này, chính các khoa học khác vô tình áp đặt địa
vị khoa học riêng của mình lên thần học. Quả thực một trong những định đề của đặc
tính khoa học là nhà khoa học phải trung lập trước đối tượng nghiên cứu của
mình, hay chính xác hơn, ông chế ngự và kiểm soát nó. Khi người ta muốn ca ngợi
một nhà khoa học, thì quả thực người ta nói rằng ông ta hoàn toàn làm chủ vấn đề
của mình.
Nhưng khi nguyên tắc
khoa học này, hoàn toàn có giá trị ở nơi khác, được áp dụng vào thần học, thì
ngay từ đầu đã có vẻ sai lạc. Làm sao người ta có thể "làm chủ" Thiên
Chúa hay Kinh Thánh? Trong trường hợp độc nhất này, đối tượng nằm ngoài chủ thể,
người ta không thể làm chủ nó cũng không thể trung lập trước mặt nó.
Những gì thánh Phaolô
nói về sự vô đạo trong Thư gửi tín hữu Rôma cũng đưa ra ánh sáng lãnh vực này của
Kinh Thánh. Chúng ta phải nói về Kinh Thánh những gì chúng ta nói về sự sáng tạo
và càng phải nói như thế hơn: sự sáng tạo mạc khải và bày tỏ những gì con người
có thể biết về Thiên Chúa. Họ không thể tha thứ cho những người nghiên cứu Kinh
Thánh mà không tôn vinh Thiên Chúa, không cảm ơn tác giả của chúng, nhưng họ bị
lạc trong suy nghĩ riêng của chính họ và đặt các thụ tạo lên trên công trình của
Đấng Tạo Hóa là Kinh Thánh (x. Rm 1,18 tt).
Chúng ta sẽ nói gì về
các nhà ngữ học, những người nghiên cứu các nguồn của Dante, sự tiến hóa của
chúng, tình trạng các chủ đề được gợi lên trong Divina Commedia (Thần
Khúc) trước khi chúng được Dante lấy lại và biến đổi, và cuối cùng họ thấy rằng
tất cả điều đó quan trọng và nghiêm túc hơn nhiều so với việc đọc, đánh giá,
ngưỡng mộ và bị thu hút bởi nét đẹp của thơ ca hoặc sức mạnh của cảm hứng; nói
tắt, bởi hình thức cuối cùng được đưa ra cho các chất liệu khác nhau này? Nói
gì về các nhà nghiên cứu cho rằng tái tạo lại các hình thức khác nhau của truyền
thuyết Faust từ Marlowe đến Goethe, hoặc các giai đoạn phát triển của thể loại
giao hưởng trước Beethoven, thì quan trọng hơn nhiều so với việc đọc chính
Faust hay nghe bản giao hưởng số 9? Tuy nhiên, đây là những gì đã được thực hiện
trong một thời gian dài trong một số môi trường, với Kinh Thánh được Thần Khí
linh hứng. Điều quan trọng nhất là tháo rời chúng để khôi phục chúng.
Theo Kierkegaard, nếu
người ta mong giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến bản văn, các dị bản và
những khác biệt về quan điểm của các nhà nghiên cứu, người ta sẽ không bao giờ
đạt được điều gì. Trái lại, việc đó trở thành một mánh khóe để chống lại Lời
Chúa. Lời Chúa đã được ban để chúng ta thực hành, không phải để chúng ta miệt
mài chú giải những điều tối nghĩa. Có một sự "lạm phát thông diễn học"
và tệ hơn nữa, người ta tin rằng điều quan trọng nhất liên hệ đến Kinh Thánh là
thông diễn học chứ không phải thực hành[7].
Hậu quả của tất cả
những điều đó là Kinh Thánh đóng lại, "thu mình lại". Kinh Thánh lại
trở thành cuốn sách được niêm ấn, cuốn
sách bị tấm màn che phủ. Vì, như
Thánh Phaolô nói, tấm màn này được cất đi
trong Đức Kitô, "khi người ta
quay về với Chúa", nghĩa là khi người ta nhận ra Đức Kitô trong các
trang sách Kinh Thánh (x. 2Cr 3,15-16). Kinh Thánh cũng giống như một số cây cực
kỳ nhạy cảm, cụp lá xuống khi bị các vật thể lạ chạm vào, hoặc giống như một số
vỏ sò khép lại để bảo vệ ngọc trai bên trong. Ngọc trai của Kinh Thánh là Đức
Kitô.
Không có lời giải thích
nào khác cho nhiều cuộc khủng hoảng đức tin nơi các chuyên viên Kinh Thánh. Khi
người ta tự hỏi tại sao có sự nghèo nàn và khô khan về đường thiêng liêng trong
một số chủng viện và cơ sở đào tạo, người ta nhanh chóng thấy rằng một trong những
nguyên nhân chính của tình trạng này là cách dạy Kinh Thánh. Giáo Hội đã sống
và đang sống nhờ đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng. Nếu chúng ta cắt kênh
này, kênh đang nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, lòng nhiệt thành, đức tin, tất cả
đều khô cằn và trì trệ. Người ta không còn hiểu được phụng vụ, vì phụng vụ được
xây dựng hoàn toàn dựa trên việc sử dụng Kinh Thánh theo cách thiêng liêng, hoặc
người ta sống nó như một khoảnh khắc tách khỏi việc đào tạo cá nhân đích thực,
và như phủ nhận những gì người ta đã học được hôm trước trong lớp.
3. Thần Khí ban sự sống
Khi một chi thể của thân
thể chúng ta đã không hoạt động trong một thời gian dài, ví dụ như chân, thì nếu
chúng ta muốn đi lại, cần phục hồi chức năng cho chi thể ấy. Dân Kitô giáo đã quá
lâu không sử dụng "chi thể" quan trọng này là Kinh Thánh và giờ đây họ
cần phục hồi chức năng. Đối với một số người, việc phục hồi chức năng nói trên
là cầm lấy một cuốn Kinh Thánh và đọc, vì có lẽ họ chưa bao giờ đọc Kinh Thánh
một cách nghiêm túc và trọn vẹn. Đối với những người khác biết Kinh Thánh và có
thể đã nghiên cứu nó trong một thời gian dài, việc phục hồi chức năng là làm
quen lại với việc đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng, một việc mà trong suốt
thời kỳ giáo phụ và thời trung cổ đã là nguồn mạch khôn ngoan và linh đạo hàng
đầu của Giáo Hội.
Một số nhà chú giải thời
danh bắt đầu cảm thấy nhu cầu đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng và cùng với
đức tin. Đây là một dấu hiệu tràn trề hy vọng. Một trong số đó đã viết: “Điều
khẩn cấp là những người nghiên cứu và giải thích Kinh Thánh một lần nữa phải
quan tâm đến chú giải của các Giáo Phụ, để, ngoài phương pháp của các ngài,
khám phá lại tinh thần đã làm linh hoạt các ngài, tâm hồn sâu xa đã gợi hứng
cho chú giải của các ngài. Chúng ta phải học cách giải nghĩa Kinh Thánh theo
trường phái của các ngài, không chỉ về phương diện lịch sử và phê bình, mà còn
theo cùng một cách trong Giáo Hội và cho
Giáo Hội.” (I. de la Potterie)
Trong bộ sách lịch sử nổi
tiếng về cách chú giải thời trung cổ, cha H. de Lubac đã nhấn mạnh đến sự mạch
lạc, vững chắc và phong phú lạ lùng của việc chú giải thiêng liêng được các
Giáo Phụ thời Thượng cổ và Trung cổ thực hiện.
Nhưng phải nói rằng
trong lãnh vực này các Giáo Phụ chỉ áp dụng giáo huấn thuần túy và đơn giản của
Tân Ước (với những dụng cụ không hoàn hảo mà các ngài có). Nói cách khác, các
ngài không phải là những người khởi xướng, nhưng là những người tiếp nối một
truyền thống được Gioan, Phaolô và chính Đức Giêsu thiết lập. Những vị này
không chỉ liên tục đọc Sách Thánh theo hướng thiêng liêng, nghĩa là ám chỉ đến
Đức Kitô, nhưng còn biện minh cho cách đọc này, nói rằng tất cả Kinh Thánh đều
quy chiếu về Đức Kitô (x. Ga 5,39), rằng "Thần Khí Đức Kitô" hoạt động trong Kinh Thánh và ở nơi các
tiên tri (1Pr 1,11), rằng trong Cựu Ước, mọi sự đều được nói đến "bằng ngụ ngôn", nghĩa là ám chỉ đến Giáo Hội (x. Gl 4,24) hoặc "để răn dạy chúng ta" (1Cr 10,11).
Do đó, đọc Kinh Thánh
theo hướng thiêng liêng không có nghĩa là đọc theo hướng khuyến thiện, huyền
bí, chủ quan hoặc, tệ hơn, theo trí tưởng tượng, đối nghịch với việc đọc cách
khoa học, là cách đọc khách quan. Ngược lại, đây là cách đọc khách quan nhất có
thể, vì dựa trên Thần Khí của Thiên Chúa, chứ không trên thần trí của con người.
Việc đọc Kinh Thánh cách chủ quan (dựa trên việc xem xét tự do) đã lan truyền
chính khi việc đọc theo hướng thiêng liêng bị bỏ rơi, và Kinh Thánh là nơi mà
việc đọc này đã bị bỏ rơi một cách rõ ràng nhất.
Vậy đọc theo hướng
thiêng liêng là một điều rất chính xác và khách quan. Đó là đọc dưới sự hướng dẫn
hoặc dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng Kinh Thánh. Nó dựa
trên một biến cố lịch sử, tức là trên hành động cứu chuộc của Đức Kitô, Đấng mà
nhờ sự chết và sống lại, đã hoàn tất kế hoạch cứu độ, thực hiện mọi hình ảnh và
các lời tiên tri, mạc khải những mầu nhiệm ẩn giấu và trao chìa khóa đích thực
để đọc toàn bộ Kinh Thánh. Sách Khải huyền diễn tả tất cả những điều này bằng
hình ảnh Con Chiên bị sát tế cầm cuốn sách trong tay và mở bảy ấn (x. Kh
5,1tt).
Bất cứ ai sau Ngài muốn
tiếp tục đọc Kinh Thánh mà bỏ qua hành vi này, sẽ giống như một nhạc sĩ tiếp tục
đọc một đoạn nhạc với khóa "fa" sau khi nhà soạn nhạc đã chuyển sang
khóa "sol" : khi ấy mỗi nốt nhạc sẽ tạo ra âm thanh giả. Bây giờ, Tân
Ước gọi chìa khoá mới này là "Thần Khí" và chìa khóa cũ là "văn
tự", nói rằng văn tự hay chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống
(2Cr 3,6).
Đối nghịch "văn tự"
và "Thần Khí" không có nghĩa là đối nghịch Cựu Ước và Tân Ước, như thể
Cựu Ước biểu thị văn tự, và Tân Ước biểu thị Thần Khí. Đúng hơn, điều đó có nghĩa
là đối nghịch hai cách đọc khác nhau cả Cựu Ước lẫn Tân Ước: cách đọc bỏ qua Đức
Kitô và và cách đọc xem xét mọi sự dưới ánh sáng Đức Kitô. Chính vì hai Giao Ước
nói đến Đức Kitô mà Giáo Hội tôn trọng cả hai.
Trái lại, việc đọc theo
hướng thiêng giúp cho Cựu Ước có một sức mạnh và gợi ý mới mẻ, chưa được biết đến
cho tới lúc đó, một sự gợi ý chỉ phát sinh khi người ta khám phá thấy Cựu Ước
nói lên điều gì khác; rằng ngoài nghĩa cụ thể và văn tự, nó còn có một nghĩa tượng
trưng vượt xa chính nó; nói cách khác là truyền thống hơn: vào lúc người ta
khám phá ra rằng Cựu Ước nói bằng "ngụ
ngôn" (Gl 4,24).
Thánh Augustinô đã viết
như sau: “Tất cả những gì được gợi ý thông qua các biểu tượng đụng chạm và đốt
cháy trái tim một cách sống động hơn là chính chân lý làm điều đó, nếu nó được
trình bày cho chúng ta mà không có lớp áo hình ảnh mầu nhiệm bao phủ... Sự nhạy
cảm của chúng ta chậm rực lên, bao lâu liên kết với các thực tại thuấn túy cụ
thể, nhưng nếu nó hướng tới các biểu tượng
được rút ra từ thế giới vật chất và từ đó chuyển sang bình diện các thực tại
thiêng liêng được biểu thị bằng các biểu tượng đó, thì nó có được sự sống động
của nó chỉ bằng bước chuyển này và còn sáng rực hơn, giống như một ngọn đuốc
đang di chuyển[8].”
Điều tương tự cũng xảy
ra với người Kitô hữu, trong bước chuyển từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ lời tiên
tri đến thực tại. Trong bước chuyển này, tinh thần “sáng rực” như một ngọn đuốc
đang di chuyển. Sự mô tả về những đau khổ của người tôi tớ Thiên Chúa trong
Isaia 53 nói với chúng ta về cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô theo một cách thức mà
không một trình thuật lịch sử nào khác của Phúc Âm có thể thay thế được. Ngôn
ngữ gián tiếp – cả ngôn ngữ tượng trưng của các bí tích lẫn ngôn ngữ tiên tri của
Kinh Thánh – có xu hướng ít cạn kiệt theo một nghĩa nào đó, vì nó nói mà không
nói ra; nó gợi ý nhiều hơn những gì nó khẳng định; nó mang đến cho tâm trí và
do đó gây ra cho mỗi lần một cử động mới của con tim. Do đó, Cựu Ước không bị
việc đọc theo hướng thiêng liêng gạt sang một bên, nhưng trái lại, nó được tôn
lên đến mức tối đa. Khi thánh Phaolô nói: "Thần Khí ban sự sống, phải hiều
là: Thần Khí cũng ban sự sống cho văn tự, cũng ban sự sống cho Cựu Ước!
4. Điều Thần Khí nói với Hội Thánh
Đọc theo hướng thiêng
liêng không chỉ liên hệ đến Cựu Ước; theo một nghĩa khác, nó cũng liên hệ đến
Tân Ước, vì Tân Ước cũng phải được đọc theo hướng thiêng liêng. Đọc Tân Ước
theo hướng thiêng liêng có nghĩa là đọc dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần được
ban cho Giáo Hội vào ngày lễ Ngũ Tuần, để dẫn đưa Giáo Hội đến tất cả sự thật,
nghĩa là đến chỗ hiểu biết đầy đủ và thực hành Phúc Âm.
Chính Đức Giêsu đã giải
thích trước mối liên hệ giữa lời của Ngài và Thần Khí mà Ngài sẽ gửi tới (mặc
dù chúng ta không được nghĩ rằng Ngài đã nhất thiết làm như vậy theo cách nói của
Phúc Âm Gioan). Theo Gioan, Thần Khí “sẽ
dạy và sẽ làm nhớ lại” tất cả những
gì Đức Giêsu đã nói (x. Ga 14,25), nghĩa là Người sẽ làm cho tất cả được hiểu
rõ, trong tất cả những hàm ý của nó. Người sẽ không “tự mình nói” điều gì, nghĩa
là Người sẽ không nói những sự gì mới liên quan đến điều Đức Giêsu đã nói,
nhưng, như chính Đức Giêsu nhấn mạnh, Người “lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,13-15).
Đức Giêsu đã không nói
toạc ra mọi điều; có những điều mà các môn đệ chưa thể "gánh chịu";
Chúa Thánh Thần có trách nhiệm đưa các môn đệ đến tất cả sự thật. Do đó, chúng
ta có thể nói rằng việc đọc theo hướng thiêng liêng, theo nghĩa đầy đủ của chữ
này, là việc đọc trong đó Chúa Thánh Thần dạy cho người ta cách đọc Cựu Ước quy
chiếu tới Đức Giêsu, và cách đọc Cựu Ước cùng với Tân Ước quy chiếu tới Giáo Hội.
Ở đây chúng ta thấy cách
đọc theo hướng thiêng liêng kết hợp và vượt qua cách đọc theo khoa học như thế
nào. Cách đọc theo khoa học chỉ biết một chiều hướng, là chiều hướng lịch sử.
Quả thực nó giải thích những gì tiếp theo, dưới ánh sáng những gì đã xảy ra trước
đó; giải thích Tân Ước dưới ánh sáng Cựu Ước đi trước nó, và giải thích Giáo Hội
dưới ánh sáng Tân Ước. Phần lớn nỗ lực phê bình xung quanh Kinh Thánh là để làm
sáng tỏ các giáo lý của Phúc Âm, dưới ánh sáng các truyền thống Cựu Ước, khoa
chú giải của các thầy thông giáo Do Thái, v.v.; tóm lại nó muốn tìm kiếm các
nguồn (Đại tự điển thần học Tân Ước Kittel dựa trên nguyên tắc này, cũng như
nhiều tác phẩm Kinh Thánh khác).
Việc đọc theo hướng
thiêng liêng hoàn toàn công nhận giá trị của hướng tìm kiếm này, nhưng thêm một
hướng ngược lại. Hướng này giải thích những gì xảy ra trước dựa vào những gì đến
sau, giải thích lời tiên tri dựa vào sự hoàn tất, Cựu Ước dựa vào Tân Ước và
Tân Ước dựa vào Truyền Thống của Giáo Hội. Trong lãnh vực này, việc đọc Kinh
Thánh theo hướng thiêng liêng chỉ được củng cố theo nguyên tắc thông diễn của Gadamer về "lịch sử các hiệu quả" (Wirkungsgeschichte), theo đó, để hiểu một
bản văn, cần phải tính đến những hiệu quả mà bản văn này đã tạo ra trong
lịch sử, bằng cách hội nhập vào lịch sử này và đối thoại với nó[9].
Như tôi đã nói, điều này
không chỉ có giá trị đối với bước chuyển từ Cựu Ước sang Tân Ước mà còn đối với
bước chuyển từ Tân Ước sang Giáo Hội, vì chúng ta chỉ dần dần khám phá ra những
tiềm năng và hàm ý vô hạn của lời và mầu nhiệm Đức Kitô, dựa vào những gì Thần
Khí thực hiện trong Giáo Hội. Truyền thống giống như một chiếc thùng rỗng lớn tạo
ra âm vang của Kinh Thánh. Một chiếc vĩ cầm sẽ ra sao nếu chỉ có dây rung nhưng
không có khoang rỗng kỳ diệu làm bằng gỗ chọn lọc, đủ độ già và trau chuốt, cho
phép âm thanh hình thành? Sách Diễm ca sẽ như thế nào nếu được đọc như một bản
văn nằm trong các quy tắc Kinh Thánh, không có sự cộng hưởng với phụng vụ và tu
đức của Giáo Hội, có lúc áp dụng cho chính Giáo Hội, có lúc áp dụng cho Đức
Maria, có lúc áp dụng cho linh hồn say mê Thiên Chúa?
Như Đức Giêsu nói, nếu
người ta xem quả biết cây, người ta không thể biết đầy đủ Lời Chúa trước khi thấy
hoa quả mà lời Chúa sản sinh ra. Nghiên cứu Kinh Thánh dưới ánh sáng của Truyền
Thống cũng gần giống như xem quả biết cây. Chính vì thế mà Origen nói rằng "nghĩa thiêng liêng là
nghĩa được Thần Khí ban cho Giáo Hội[10]".
Nó đồng hóa với việc đọc theo tinh thần Giáo Hội hay với chính Truyền Thống, nếu
chúng ta hiểu Truyền Thống không chỉ là những tuyên bố long trọng của Huấn quyền,
mà còn là kinh nghiệm về học thuyết và sự thánh thiện trong đó Lời Chúa như được
nhập thể cách mới mẻ và được Chúa Thánh Thần "cắt nghĩa" qua các thế
kỷ.
Vậy điều chúng ta cần,
không phải là một cách đọc theo hướng thiêng liêng, thay thế khoa chú giải mang
tính khoa học hiện nay bằng sự trở lại một cách máy móc với khoa chú giải của
các Giáo Phụ, mà đúng hơn, là một cách đọc mới mẻ theo hướng thiêng liêng đáp ứng
với sự tiến bộ lớn lao được thực hiện bằng cách nghiên cứu "văn tự".
Tóm lại, vừa có một văn tự đã gợi hứng và đức tin nơi các Giáo Phụ, vừa có tính
nhất quán và nghiêm túc của khoa học Kinh Thánh hiện nay.
5. Thần Khi thổi từ bốn phương
Giữa những đống xương
khô nằm la liệt, tiên tri Edêkien nghe thấy câu hỏi: "Liệu các xương này có hồi sinh được không?” (Ed 37,3). Chúng ta cũng
đặt ra câu hỏi tương tự ngày hôm nay: liệu khoa chú giải, từ lâu bị khuynh hướng
ngữ học làm cho khô cằn, sẽ có thể lấy lại được đà tiến và sức sống mà nó đã có
vào những lúc khác trong lịch sử Giáo Hội chăng? Sau khi nghiên cứu lịch sử lâu
đời về khoa chú giải Kitô giáo, cha de Lubac buồn bã kết luận: chúng ta hiện
đang thiếu những điều kiện để có thể làm sống lại cách đọc theo hướng thiêng
liêng như cách đọc của các Giáo Phụ; chúng ta thiếu niềm tin mãnh liệt này, thiếu
ý thức về sự viên mãn và hiệp nhất mà các ngài có, vì vậy, ngày hôm nay muốn bắt
chước sư táo bạo của các ngài, sẽ gần như bị coi là phạm thánh, vì chúng ta thiếu
tinh thần thúc đẩy những việc này[11].
Tuy nhiên, cha không
hoàn toàn mất hết hy vọng và quả quyết rằng nếu muốn tìm thấy lại một chút về
cách giải thích Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng, trong những thế kỷ đầu tiên
của Giáo Hội, tiên vàn phải làm tái sinh một phong trào Thánh Linh[12].
Một vài thập niên sau đó, trước và sau Công đồng Vaticanô II, tôi có cảm tưởng
khám phá ra một lời tiên tri trong những lời cuối cùng này. "Phong trào
Thánh Linh" và "đà tiến" bắt đầu trở lại, không phải vì người ta
lên chương trình hoặc tiên liệu, nhưng vì Thần Khí bắt đầu thổi một lần nữa, một
cách bất ngờ, từ khắp nơi, trên những đống xương khô. Song song với các đặc sủng
tái xuất hiện, việc đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng cũng tái xuất hiện.
Đây cũng là một trong những hoa trái tuyệt diệu nhất của Thần Khí.
Khi tham dự các cuộc gặp
gỡ Kinh Thánh và các buổi cầu nguyện, có lần tôi ngạc nhiên khi nghe những suy
tư về lời Chúa giống như những suy tư của Origen, thánh Augustinô, hay thánh
Grêgoriô Cả ngày xưa, cho dù ngôn ngữ đơn giản hơn. Người ta áp dụng rất đơn giản
và thích đáng những lời về đền thờ, về "căn lều của Đavít", về
Giêrusalem bị phá hủy và được tái thiết sau thời lưu đầy, về Giáo Hội, về Đức
Maria, về cộng đồng của họ hoặc về cuộc sống cá nhân của họ. Những gì được thuật
lại về các nhân vật trong Cựu Ước làm người ta nghĩ đến Đức Giêsu bằng cách loại
suy hay phản đề, và những gì được thuật lại về Đức Giêsu được hiện tại hóa và
áp dụng cho Giáo Hội hoặc cho từng tín hữu.
Nhiều nghi ngờ về việc đọc
Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng phát sinh từ chỗ không để ý đến sự phân biệt
giữa giải thích và áp dụng. Trong cách đọc theo hướng thiêng liêng, nói chung
đây là áp dụng hoặc hiện tại hóa bản văn, hơn là có ý định giải thích nó, khi
áp dụng cho nó một ý nghĩa không liên quan gì đến ý định của tác giả Sách
Thánh. Chính là điều chúng ta đã thấy trong Tân Ước liên quan đến những lời của
Đức Giêsu. Người ta lưu ý rằng các tác giả Phúc Âm Nhất lãm đôi khi đưa ra các ứng
dụng khác nhau của cùng một dụ ngôn do Đức Kitô nói, tùy theo nhu cầu và các vấn
đề của cộng đồng mà các ngài viết cho họ.
Những ứng dụng của các
Giáo Phụ và những ứng dụng của ngày hôm nay hiển nhiên không có cùng đặc tính
quy điển như những ứng dụng ban đầu, nhưng quá trình dẫn đến những ứng dụng này
là như nhau và dựa trên sự kiện là lời Chúa không phải là những lời chết, được
bảo quản trong dầu, như Péguy nói. Đó là những lời "hằng sống" và
"năng động", có khả năng giải phóng ý nghĩa và tiềm thể ẩn giấu, đáp ứng
với các câu hỏi và tình huống mới. Đây là hậu quả của cái mà tôi gọi là
"linh hứng năng động" của Kinh Thánh, theo nghĩa Kinh Thánh không chỉ
"được Thần Khí linh hứng" mà còn "thở ra" Thần Khí và liên
tục phát tán, nếu người ta lấy đức tin mà đọc. Theo Thánh Grêgoriô Cả,
"Kinh Thánh cum legentibus crescit,
tăng trưởng cùng với người đọc[13]".
Kinh Thánh tăng trưởng mà vẫn còn nguyên vẹn.
Tôi kết luận bằng một lời
cầu nguyện mà tôi đã nghe một phụ nữ đọc lên, sau khi nghe câu chuyện Êlia được
đưa lên trời, để lại hai phần ba thần trí cho Êlidê. Đây là một ví dụ về việc đọc
theo hướng thiêng liêng, theo nghĩa mà tôi vừa giải thích: "Con cảm tạ
Chúa đã không để lại cho chúng con chỉ có hai phần ba Thần Khí của Chúa, khi
Chúa lên trời, nhưng để lại tất cả Thần Khí của Chúa! Con cảm tạ vì Chúa đã
không để lại Thần Khí cho một môn đệ duy nhất, nhưng cho tất cả mọi người!"
[1]
Textes in H. de Lubac, Histoire de
l’exégèse médiévale, I, 1, Aubier, Paris 1959, p. 119 et s.
[2]
Thánh Ambrôsiô, De Spiritu Sancto,
III, 112.
[3]
Thánh Augustinô, Confessions,
IV, 12, 18.
[4]
Dei Verbum, n. 21.
[5]
S. Kierkegaard, in Opere,
cit., p. 914.
[6]
Evagre le Pontique, De oratione,
60 (PG 79, 1180).
[7]
S. Kierkegaard, Opere, cit.,
p. 909 tt.
[8]
Thánh Augustinô, Ep. 55, 11,
21.
[9]
x. H. G. Gadamer, Wahrheit und
Methode, Tubingen 1960.
[10]
Origène, In Lev. Hom., V, 5.
[11] H. de Lubac, Exégèse médíevale, Aubier, Paris 1964, II, 2, p. 79.
[12] H. de Lubac, Histoire et Esprit, Cerf 2002.
[13] Grêgoriô Cả, Moralia sur Job, 20. I (CC 143 A, p. 1003).