V
“CON NGƯỜI LÀ GÌ ĐỂ CHÚA NHỚ TỚI?”
Thách đố của chủ thuyết duy khoa học vô thần
Trong phần thứ hai này,
chúng ta tiếp tục suy nghĩ về "đợt sóng thứ tư", nghĩa là về công cuộc
Phúc Âm hóa trong thời đại chúng ta, tôi muốn lưu ý đến một số thách thức lớn
nhất mà việc loan báo Phúc Âm phải đối mặt trong thế giới tục hóa hôm nay, đó
là chủ thuyết duy khoa học vô thần, chủ
thuyết duy lý và sự tục hóa. Tôi sẽ cho từng chủ thuyết thấy rõ câu trả lời mà
đức tin Kitô giáo cho phép chúng ta đưa ra. Vì mục đích này, tôi thường tham
chiếu tư tưởng của John Newman, không chỉ vì ngài mới được Giáo Hội phong Chân
phước, mà trên hết vì ngài là người đã tiếp cận trực tiếp nhất và sáng suốt nhất
đề tài về tương quan giữa đức tin và tính hiện đại.
1. Những luận đề của chủ thuyết duy khoa học vô thần
Để hiểu chủ thuyết duy khoa
học vô thần là gì, chúng ta có thể khởi đi từ mô tả của Đức Gioan Phaolô:
“Quan niệm triết học này
(duy khoa học) không chấp nhận giá trị của những cách nhận thức khác với cách của
các khoa học thực chứng, liệt những nhận thức tôn giáo và thần học, cũng như những
kiến thức luân lý và thẩm mỹ, vào lãnh vực tưởng tượng thuần túy. Trước đây,
quan niệm này được trình bầy qua thuyết duy thực nghiệm và tân duy thực nghiệm,
và cho những quả quyết có tính cách siêu hình là vô nghĩa […]. Những thành quả
không thể phủ nhận của khám phá khoa học và kỹ thuật học hiện đại, đã cộng tác
vào việc truyền bá não trạng duy khoa học, có vẻ không còn giới hạn, bởi cách
thức nó thấm nhập vào những nền văn hóa khác nhau, và bởi nó đã mang lại những
thay đổi tận gốc rễ[1].”
Có thể tóm tắt những luận
đề chính của luồng tư tưởng này như sau:
Luận đề 1. Khoa học, đặc biệt khoa vũ trụ học, vật lý học
và sinh vật học, là hình thức duy nhất khách quan và nghiêm túc của nhận thức
thực tại. Jacques Monod viết: “Những xã hội hiện đại dựa trên khoa học.
Chúng mắc nợ khoa học về của cải, quyền lực, và chắc chắn rằng mai kia con người
sẽ có nhiều của cải và quyền lực hơn, nếu họ muốn… Những xã hội của chúng ta
đang có mọi quyền hành, của cải, do khoa học mang lại, vẫn cố gắng sống và dạy
những hệ thống giá trị đã bị chính khoa học này hủy hoại đến tận gốc rễ[2].”
Luận đề 2. Hình thức nhận thức này không thể tương hợp
với đức tin vì đức tin dựa trên những tiền đề không chứng minh được và cũng
không ngụy tạo được. Theo nghĩa này, một số người đi đến chỗ coi là “mù chữ”
những khoa học gia nào nhận mình là tín hữu, khi quên rằng có nhiều nhà khoa học
nổi tiếng đã tuyên bố và còn tiếp tục tuyên bố mình là tín hữu.
Luận đề 3 : Khoa học đã chứng minh giả thiết có Thiên
Chúa là sai, hoặc ít nhất không cần thiết. Quả quyết này đã được các phương
tiện truyền thông phổ biến rộng rãi, nhất là sau lời tuyên bố của nhà vật lý
thiên văn nổi tiếng người Anh Stephen Hawking. Trong cuốn The Grand Design (Thiết kế vĩ đại), ông lặp lại những lời tuyên bố
trước đây, quả quyết những kiến thức hiện nay về khoa vật lý khiến cho niềm tin
vào một Đấng Tạo Hóa là thừa : Sự “Sáng tạo tự nhiên là lý do khiến cho có cái
gì đó (hơn là không có gì)”.
Luận đề 4. Hầu như tất cả hoặc ít nhất phần đông các
nhà khoa học đều vô thần. Đó là quả quyết của chủ thuyết vô thần khoa học
chiến đấu, mà đại biểu là Dawkins, tác giả cuốn God’s Delusion (Ảo tưởng về Thiên Chúa), một người tích cực bảo vệ
luận đề này.
Tất cả những luận đề
trên đều không đúng, không phải do dựa trên một lý luận tiên thiên hoặc những
luận chứng thần học và đức tin, nhưng dựa trên chính phân tích những kết quả của
khoa học, hoặc các ý kiến của nhiều nhà khoa học trong số các vị nổi tiếng, hôm
qua cũng như hôm nay. Max Planck, một nhà bác học có tầm cỡ, cha đẻ của thuyết
“lượng tử”, quả quyết một vấn đề về khoa học mà nhiều người như Augustinô,
Tôma, Pascal, Kierkegaard và những người khác đã quả quyết về lý trí: “Khoa học
dẫn tới điểm mà vượt ra ngoài điểm ấy thì nó không hướng dẫn được nữa[3].”
Tôi sẽ không nói thêm về
những luận đề nêu trên; đã có nhiều nhà khoa học và triết gia về khoa học, chuyên môn hơn tôi nhiều, phản bác chúng. Tôi
chỉ đơn giản lưu ý thế này. Trong tuần lễ các phương tiện truyền thông công bố
tuyên ngôn nói trên rằng khoa học đã đưa ra giả thuyết về một Đấng Tạo Hóa là
không cần thiết, thì trong bài giảng lễ Chúa nhật, tôi thấy mình có bổn phận giải
thích cho các Kitô hữu chất phác sai lầm căn bản của các nhà khoa học vô thần
là ở chỗ nào, và tại sao họ không nên xao động trước những ồn ào dấy lên xung
quanh tuyên bố đó. Để làm điều này, tôi đã lấy một ví dụ có thể hữu ích khi nhắc
lại ở đây.
Có những loài chim như
cú mèo chỉ sống về đêm. Mắt chúng được tạo nên để nhìn ban đêm, trong bóng tối,
chứ không thể nhìn ban ngày. Ánh sáng mặt trời có thể làm cho chúng bị mù. Những
con chim này biết thế, nên di chuyển ban đêm, không biết gì về thế giới ban
ngày. Thử đưa ra một câu chuyện ngụ ngôn trong đó các loài chim có thể nói chuyện
với nhau. Giả dụ một con đại bàng kết thân với cú mèo, nói với cú về mặt trời :
mặt trời soi chiếu vạn vật, không có mặt trời thì tất cả chìm trong tăm tối,
giá lạnh, ngay cả ban đêm thậm chí không tồn tại nếu không có mặt trời… Cú mèo
nghe xong trả lời: “Dỡn hoài! Có bao giờ tôi thấy mặt trời của anh đâu. Chúng
tôi kiếm ăn ban đêm rất tốt, đâu cần mặt trời. Mặt trời của anh chỉ là giả thuyết
vô dụng, không tồn tại”.
Nhà khoa học vô thần,
khi quả quyết không có Thiên Chúa, thì cũng tương tự như vậy. Ông phê phán về một
thế giới mà ông không biết, áp dụng những luật lệ của ông cho một đối tượng ở
ngoài tầm tay của ông. Để thấy Thiên Chúa, phải nhìn bằng con mắt khác, phải liều
mình ra khỏi bóng đêm. Theo nghĩa này, tác giả Thánh vịnh có lý khi cho rằng
người nào tự nhủ là không có Thiên Chúa,
thì đó là người ngu xuẩn!” (Tv 14,1)
2. Nói “không” với chủ thuyết duy khoa học, nói “có” với khoa học
Không chấp nhận chủ thuyết
duy khoa học không có nghĩa là từ chối khoa học, hoặc không tin vào khoa học,
cũng như không chấp nhận chủ thuyết duy lý không có nghĩa là từ chối lý trí.
Làm khác đi là làm hại cho đức tin, trước khi làm hại cho khoa học. Lịch sử đau
buồn cho thấy một thái độ như vậy đã đem lại những kết quả ra sao.
Đức
John Henry Newman, được phong Chân Phước mới đây, đã để lại cho chúng ta một tấm gương sáng ngời về
thái độ cởi mở và xây dựng đối với khoa học. Chín năm sau khi tác phẩm của
Darwin về sự tiến hóa các chủng loại ra đời, trong khi nhiều bậc trí giả tỏ ra
hoang mang, bối rối, ngài làm cho họ an tâm khi đã đưa ra một một nhận xét còn
đi trước phán đoán của Giáo Hội về sự bất tương hợp của lý thuyết đó với đức
tin Kinh Thánh. Thật đáng để nghe lại một vài đoạn trong lá thư ngài gửi cho
kinh sĩ J. Walker:
“Lý thuyết này (của
Darwin) không làm tôi lo ngại […] Đối với tôi, dường như nó không có nghĩa là
người ta phủ nhận sự sáng tạo, vì Đấng Tạo Hóa, trước đây hàng triệu năm, đã
ban bố những luật lệ cho vật chất. Chúng ta không thể phủ nhận hoặc giới hạn Đấng
Tạo Hóa, vì Ngài hẳn đã tạo dựng hành vi tự trị khai sinh ra trí khôn của con
người, một trí khôn được phú ban gần như một thiên tài sáng tạo. Chúng ta không
phủ nhận hoặc giới hạn Đấng Tạo Hóa, càng không giới hạn quyền năng của Ngài, nếu
thấy Ngài đã ban bố những luật lệ cho vật chất - những luật mà, do tính chất dụng
cụ mù quáng của chúng, đã có thể làm ra và xây dựng, trải qua biết bao đời, một
thế giới như chúng ta đang thấy […]. Lý thuyết của ông Darwin khi ấy không cần
phải là vô thần, dù đúng hay sai. Nó chỉ có thể gợi ra một ý tưởng lớn hơn về sự
Tiền thức (Préscience) và Khả năng (Capacité) của Thiên Chúa […]. Thoạt nhìn,
tôi không thấy “sự tiến hóa tình cờ của các hữu thể sống động” là không tương hợp
với ý định của Thiên Chúa. Nó tình cờ đối với ta, chứ không tình cờ đối với
Thiên Chúa[4]”.
Đức tin mạnh mẽ giúp cho
Newman được thanh thản xem xét các khám phá khoa học, trong hiện tại hoặc tương
lai.
“Khi một lượng lớn các sự
kiện, đã được xác minh hoặc giả định, đổ xuống trên bạn trong khi những sự kiện
khác hiện ra đến vô tận, tất cả các tín hữu, dù Công giáo hay không, đều cảm thấy
có xu hướng xem xét ý nghĩa của những sự kiện đó[5]".
Newman thấy trong những
khám phá này một “mối liên hệ gián tiếp với những ý kiến tôn giáo”. Theo tôi, một
ví dụ về mối liên hệ này: trong những năm Darwin đưa ra lý thuyết tiến hóa các
chủng loại, thì về phần ngài, ngài công bố giáo thuyết của mình về “sự phát triển
của học thuyết Kitô giáo”. Nhấn mạnh tính chất loại suy về điểm này giữa trật tự
tự nhiên và vật lý, với trật tự luân lý, ngài viết:
“Cũng như Đấng Tạo Hóa
nghỉ ngơi ngày thứ bẩy, khi công trình đã hoàn tất, tuy thế Ngài ‘vẫn còn làm
việc’, cũng vậy, Ngài đã vĩnh viễn trao ban Kinh Tin Kính ngay từ khởi thủy,
tuy thế Ngài vẫn cổ võ cho nó phát triển và làm cho nó được đào sâu thêm[6]”.
Giáo Hội Công giáo diễn
tả cụ thể thái độ mới mẻ và tích cực của mình đối với khoa học là thiết lập Hàn
lâm viện giáo hoàng về khoa học, ở đó, các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới,
có niềm tin hay không, gặp gỡ nhau để tự do tranh luận về những vấn đề đem lại
lợi ích chung cho khoa học và đức tin.
3. Con người cho vũ trụ hay vũ trụ cho con
người?
Nhưng, tôi lặp lại, ở
đây chúng ta không có ý đưa ra một phê bình tổng quát về chủ thuyết duy khoa học,
nhưng muốn làm sáng tỏ một khía cạnh đặc biệt của chủ thuyết này, vì nó có ảnh
hưởng trực tiếp và có tính quyết định cho việc Phúc Âm hóa: vấn đề chỗ đứng của
con người trong nhãn quan của chủ thuyết duy khoa học vô thần.
Từ nay, chúng ta thấy có
sự cạnh tranh giữa các nhà khoa học vô tín, nhất là giữa các nhà sinh vật học
và vũ trụ học, xem ai là người sẽ đi xa nhất khi quả quyết về tính chất bên lề
và vô nghĩa của con người trong vũ trụ và trong đời sống. Monod viết:
“Liên minh cũ đã bị cắt
đứt. Cuối cùng thì con người biết rằng nó chỉ có một mình trong sự bao la thờ ơ
của vũ trụ, mà từ đó nó tình cờ trồi lên… Vận mệnh của nó, bổn phận của nó
không được viết ra ở bất cứ nơi nào[7]”.
Một tác giả khác viết:
“Tôi luôn nghĩ rằng mình
là một hữu thể vô nghĩa. Khi biết các chiều kích của vũ trụ, tôi chỉ có thể biết
mình thực sự là như thế ở điểm nào… Chúng ta chỉ là một chút bùn trên hành tinh
thuộc thái dương hệ[8]”.
Người ta đi đến chỗ xem
xét và thậm chí mong muốn ý tưởng về một vũ trụ không có sự hiện diện của con
người, sự biến mất của 'hiện tượng con người'.
Blaise Pascal đã bác bỏ
luận đề này từ trước. Ông dùng một luận chứng vẫn còn có giá trị tới hôm nay:
“Con người chỉ là một
cây sậy, yếu ớt nhất trong thiên nhiên, nhưng đó lại là cây sậy biết suy tưởng.
Đừng để cho cả vũ trụ võ trang đè bẹp nó. Một chút hơi bốc lên hay một giọt nước
cũng đủ giết chết nó. Nhưng khi bị vũ trụ đè bẹp, con người vẫn cao quý hơn cái
đè bẹp mình, vì con người biết mình chết, và biết vũ trụ có ưu thế hơn mình.
Còn vũ trụ lại không biết gì về điều đó cả[9]”.
Theo nhãn quan duy khoa
học về thực tại, cả con người lẫn Đức Kitô bỗng dưng không còn là trung tâm vũ
trụ. Theo kiểu nói của Maurice Blondel, Đức Giêsu chỉ còn là "một tai nạn
lịch sử bị cô lập trong vũ trụ như một tập phim giả, một kẻ xâm nhập hoặc một kẻ
lạ nước lạ cái trong sự bao la đè nặng và thù địch của vũ trụ[10]".
Nhãn quan này về con người
bắt đầu có những hệ quả cũng cụ thể, trên bình diện văn hóa và tâm thức. Chính
vì vậy mà chúng ta hiểu lý do của một số hành vi thái quá trong chính sách bảo
vệ môi trường, với khuynh hướng đặt quyền lợi của thú vật, thậm chí của cây cối,
ngang hàng với quyền lợi của con người. Có những con vật được nuôi dưỡng và đối
đãi tốt hơn hàng triệu trẻ em. Ảnh hưởng này cũng ghi dấu trong lãnh vực tôn
giáo. Có những hình thức mang tính tôn giáo được nhiều người thực hiện, trong
đó sự tiếp xúc và hài hòa với những năng lực của vũ trụ thay thế cho sự tiếp
xúc với Thiên Chúa, như một con đường tìm đến cứu độ. Điều Phaolô nói về Thiên
Chúa: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống,
cử động và hiện hữu” (Cv 17,28), thì ở đây người ta áp dụng cho vũ trụ vật
chất.
Xét theo một vài khía cạnh
thì đây là trở lại với nhãn quan tiền-Kitô giáo, theo lược đồ Thiên Chúa – vũ
trụ – con người, trong khi lược đồ của Kinh Thánh và Kitô giáo là Thiên Chúa – con
người – vũ trụ. Vũ trụ là cho con người, chứ không phải con người cho vũ trụ. Một
trong những điều triết gia ngoại giáo Celsô mạnh mẽ tố cáo người Do Thái và người
Kitô hữu, là quả quyết rằng
“Có Thiên Chúa, rồi sau
đó là chúng ta, vì chúng ta được Ngài tạo dựng, giống Ngài như đúc. Mọi sự tùy
thuộc vào chúng ta: đất, nước, không khí, các vì sao, mọi sự được tạo dựng cho
chúng ta, và được sắp xếp để phục vụ chúng ta[11]”.
Tuy vậy, có sự khác biệt
sâu xa. Theo tư tưởng cổ đại, nhất là tư tưởng Hy lạp, con người dù tùy thuộc
vào vũ trụ, vẫn có một phẩm giá cao quý, như tác phẩm đồ sộ của Max Pohlenz, L’homme grec (con người Hy lạp) làm sáng
tỏ[12];
còn ở đây, ngược lại, có vẻ như người ta muốn hạ thấp con người và tước bỏ bất
kỳ tuyên bố nào về sự vượt trội của con người so với các loài khác trong thiên
nhiên. Ít ra về phương diện này, theo tôi, phải coi đây là một hình thức phản
nhân bản (antihumanisme), thậm chí một hình thức “giải nhân bản vô thần”
(déhumanisme athée), tệ hơn thuyết nhân bản vô thần (humanisme athée) nữa.
Hãy nhìn lại nhãn quan
Kitô giáo. Celsô đã không lầm khi cho rằng nhãn quan này phát xuất từ quả quyết
của sách Sáng thế 1,21 về con người, được tạo
dựng “theo hình ảnh và giống” Thiên
Chúa[13].
Nhãn quan Kinh Thánh được diễn tả đẹp đẽ nhất trong Thánh vịnh 8:
“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì
con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm.
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm
mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự
dưới chân.”
Thánh
Phaolô bổ túc nhãn quan này bằng cách chỉ ra chỗ đứng của con người Đức Kitô
trong đó: “[…] cả thế gian này, sự sống,
sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về
Đức Kitô và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3,22-23)
Việc tạo dựng con người
theo hình ảnh Thiên Chúa có những hệ lụy, rối tung ở một số phương diện, trên
quan niệm về con người mà cuộc tranh luận hiện nay thúc giục chúng ta làm sáng
tỏ. Tất cả dựa trên mạc khải của Đức Kitô về Ba Ngôi. Con người được tạo dựng
theo hình ảnh Thiên Chúa, có nghĩa là con người được tham dự vào yếu tính thâm
sâu của Thiên Chúa. Yếu tính này là tương quan tình yêu giữa Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần. Chỉ có con người, với tư cách là ngôi vị có thể có những
tương quan, mới được tham dự vào chiều kích ngôi vị và tương quan của Thiên
Chúa.
Điều này có nghĩa là: Ở
cấp độ bất thụ tạo, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong yếu tính của
mình như thế nào, thì, ở cấp thụ tạo, con người trong yếu tính của mình cũng như
thế ấy. Con người được tạo dựng là “con người” chính do nòng cốt lý trí (noyau rationnel)
khiến anh ta có khả năng đón nhận mối tương quan mà Thiên Chúa muốn thiết lập với
anh ta, đồng thời, anh ta trở thành người tạo ra những mối tương quan với người
khác và với thế giới. Hiển nhiên có một hố ngăn cách hữu thể học giữa Thiên
Chúa và con người. Tuy nhiên, nhờ ân sủng (đừng bao giờ quên điều này!), hố
ngăn cách này được lấp đi, đến nỗi nó không sâu bằng hố ngăn cách giữa con người
và phần còn lại của thụ tạo.
4. Sức mạnh của chân lý
Chúng ta thử xem làm thế
nào để có thể trình bầy nhãn quan Kitô giáo về mối liên hệ giữa con người và vũ
trụ, trên bình diện Phúc Âm hóa? Trước hết là xem xét sơ khởi. Dionysiô Arêôpagô
đã xướng lên chân lý quan trọng này:
“Đừng nghĩ rằng bạn chiến
thắng vì bạn đang xúc phạm một giáo phái và ghét một học thuyết mà bạn đánh giá
cả hai là đáng lên án [...] Nếu bạn tin tôi, đây là những gì bạn sẽ làm: bạn sẽ
chấm dứt tất cả tranh cãi, nhưng bạn sẽ dạy sự thật[14]".
Không thể gán cho nguyên
tắc này một ý nghĩa tuyệt đối, nhưng đúng là trình bầy chân lý theo cách tích cực
thì thường hữu hiệu hơn là bác bỏ sự sai lầm ngược lại. Tôi nghĩ là cần phải lưu
ý đến tiêu chuẩn này trong việc Phúc Âm hóa, đặc biệt trước ba vật cản là chủ
thuyết duy khoa học, chủ thuyết duy tục và chủ thuyết duy lý. Trong việc Phúc
Âm hóa, trình bầy nhãn quan Kitô giáo cách bình thản, dựa vào sức mạnh nội tại
của nhãn quan này, kèm theo một sự xác tín sâu xa, và làm điều này “với sự hiền hòa và kính trọng”, như lời
khuyên của thánh Phêrô (1Pr 3,16), như vậy thì có hiệu quả hơn là dùng bút chiến
chống lại chúng.
Cách diễn tả cao quý nhất
về phẩm giá và ơn gọi của con người theo nhãn quan Kitô giáo được cô đọng trong
giáo lý về sự thần hóa con người. Giáo lý này không có tầm quan trọng như nhau
trong Giáo Hội Chính thống và trong Giáo Hội La tinh. Các Giáo Phụ Hy lạp coi
việc thần hóa là nền tảng của linh đạo, trong khi thần học La tinh ít nhấn mạnh
hơn điều đó. Theo Từ điển về Tu đức (Dictonnaire de Spiritualité):
“Mục đích của đời sống
mà các Kitô hữu Hy lạp nhắm đến là được thần hóa, còn mục tiêu mà các Kitô hữu
Tây phương theo đuổi là thủ đắc sự thánh thiện […] Theo người Hy Lạp, Ngôi Lời
đã trở nên người phàm là để làm cho con người giống với Thiên Chúa, điều mà tội
Ađam đã làm mất đi, để thần hóa nó. Còn theo người La Tinh, Ngôi Lời đã trở nên
người phàm để cứu chuộc nhân loại… một món nợ phải trả chiếu theo sự công bình
của Thiên Chúa[15].”
Để đơn giản hóa tối đa,
có thể nói thần học La tinh, theo chân Augustinô, nhấn mạnh hơn việc Đức Kitô đến
để xóa bỏ tội lỗi. Còn thần học Hy lạp nhấn mạnh hơn điều Ngài đem đến cho con
người: hình ảnh Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần và sự sống thần linh.
Không nên quá nhấn mạnh
sự đối chọi này, như một số tác giả Chính thống giáo đôi khi đã làm. Linh đạo
La tinh đôi khi cũng diễn tả lý tưởng này, cho dù không dùng hạn từ thần hóa xa
lạ với Kinh Thánh. Trong Giờ Kinh Sách Lễ Giáng Sinh, chúng ta nghe lại lời của
thánh Lêô Cả nói lên chính nhãn quan này về ơn gọi của người Kitô hữu:
“Hỡi người Kitô hữu, hãy
ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây, bạn đã được thông phần bản tính của Thiên
Chúa, đừng để mình bị thoái hóa qua việc trở lại với lối sống bất xứng đã qua.
Bạn hãy nhớ Đấng nào là Đầu của bạn, và bạn là chi thể của Thân Thể nào[16]”.
Đáng buồn là có vài tác
giả Chính thống giáo vẫn còn sống trong bầu khí bút chiến của thế kỷ XIV giữa
Grêgoriô Palamas và Barlaam, và dường như không biết đến truyền thống thần bí của
Giáo Hội La tinh. Giáo thuyết của thánh Gioan Thánh giá chẳng hạn, theo đó người
Kitô hữu được Đức Kitô cứu chuộc và trở thành con trong người Con, được dìm
trong dòng chảy những hoạt động của Ba Ngôi, và tham dự vào đời sống thân mật của
Thiên Chúa, giáo thuyết ấy không kém giáo thuyết về thần hóa, cho dù được diễn
tả cách khác. Giáo thuyết về những ơn hiểu biết và khôn ngoan của Chúa Thánh Thần,
rất quen thuộc với thánh Bonaventura và với những tác giả thời Trung cổ, được gợi
hứng đó làm cho sống động. Người ta thấy học thuyết và thuật ngữ thần hóa (deificari) chẳng hạn nơi thánh Bênađô,
người coi chúng như cấp độ cuối cùng của tình yêu đối với Thiên Chúa trong khảo
luận De diligendo Deo.
Tuy vậy, cũng phải thừa
nhận rằng, về điểm này, linh đạo Chính thống giáo có điều gì đó để dạy cho phần
còn lại của Kitô giáo, cho thần học thệ phản hơn là cho thần học công giáo. Quả
vậy, nếu có gì thật sự đối nghịch với nhãn quan Chính thống giáo về người Kitô
hữu được ân sủng thần hóa, thì đó là quan niệm của Thệ phản, đặc biệt của phái
Luthêrô, về sự công chính hóa ngoại tại và pháp lý, theo đó người được cứu chuộc
“vừa nên công chính vừa là tội nhân” (iustus simul peccator), tội nhân nơi
mình, công chính trước mặt Thiên Chúa.
Đặc biệt người ta có thể
học với truyền thống Đông phương điều này: không dành lý tưởng cao cả của đời sống
Kitô giáo cho một nhóm ưu tú về đường thiêng liêng được kêu gọi đi theo những
con đường của thần bí, nhưng là dành cho mọi người được rửa tội, biến nó thành
đối tượng của huấn giáo cho dân chúng, đối tượng của việc đào tạo tôn giáo
trong các chủng viện và tập viện. Khi tôi nghĩ lại những năm đào tạo của mình,
tôi thấy người ta nhấn mạnh gần như hoàn toàn độc quyền về một hình thức khổ chế
tất cả chỉ nhằm sửa chữa những tật xấu và đạt được các nhân đức. Trước thắc mắc
của một môn sinh về mục đích tối hậu của đời sống Kitô giáo, thánh Sêraphim
Sarov người Nga không lưỡng lự nói ngay:
“Mục đích thật sự của đời
sống Kitô giáo là thủ đắc Chúa Thánh Thần, còn kinh nguyện, chay tịnh, canh thức,
bố thí và mọi hoạt động khác của con người nhân danh Đức Kitô, chỉ là những
phương thế để thủ đắc Chúa Thánh Thần[17]”.
5. “Nhờ Người vạn vật được tạo thành”
Chúng ta phải trình bầy
lại, cho chính chúng ta và những người khác, lý tưởng này, một di sản chung của
Kitô giáo. Từ sự nhập thể của Ngôi Lời, các Giáo Phụ Hy lạp thấy thần hóa là điều
có thể. Thánh Athanasiô không ngừng lặp lại rằng: Thiên Chúa đã trở nên người
phàm, để chúng ta có thể trở nên Thiên Chúa[18]”.
Còn Grêgoriô Nazianzê thì viết: “Người đã nhập thể và con người trở nên Thiên
Chúa vì được kết hợp với Thiên Chúa[19]”.
Với Đức Kitô, con người, “hình ảnh của Thiên Chúa”, một hình ảnh làm cho con
người đứng trên các thụ tạo khác, được phục hồi và được đưa vào lại trong ánh
sáng.
Tôi vừa cho thấy ở trên
tính chất bên lề của con người tự động lôi kéo theo tính chất bên lề của Đức
Kitô, trong vũ trụ và trong lịch sử. Cũng về phương diện này, nhập thể là phản
đề triệt để nhất của nhãn quan duy khoa học. Gioan đã công bố: “Nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không
có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3). Phaolô thì nói: “Tất cả đều
do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người” (Cl 1,16). Giáo Hội đã thu nhận mạc khải này và
dạy chúng ta lặp lại trong Kinh Tin Kính: “Per
quem omnia facta sunt” (nhờ Người mà muôn vật được tạo thành). Trong
khi chung quanh chúng ta, người ta chỉ biết lặp lại: “Thế giới” tự biện giải về
mình, không cần giả thiết có một Đấng Tạo Hóa, hoặc: Chúng ta chỉ là kết quả của
tình cờ và bắt buộc (le hasard et la nécessité), thì nghe lại những lời mạc khải
ấy chắc chắn gây đụng chạm, nhưng một sự hoán cải và niềm tin thoát thai từ một
sự đụng chạm thuộc loại này lại dễ hơn là từ một luận chứng hộ giáo dài dòng.
Vấn đề quan trọng là: liệu
chúng ta, những người đang khao khát tái Phúc Âm hóa thế giới, có khả năng làm
nẩy nở đức tin trước những chiều kích chóng mặt này không ? Chúng ta có thực sự
hết lòng tin rằng “mọi sự đã được tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô” không?
Trong cuốn “Introduction au christianisme” (Dẫn nhập
Kitô giáo), tác giả J. Ratzinger viết như sau:
“Mục thứ hai của Kinh
Tin Kính cho ta thấy cớ vấp phạm đích thực của Kitô giáo. Chúng ta tuyên xưng
con người-Giêsu, một cá nhân đã bị xử tử khoảng năm 30 ở Palestina, là Đấng “Kitô”
(Đấng được xức dầu, được tuyển chọn) của Thiên Chúa, hơn thế nữa, là chính Con
Thiên Chúa, và như vậy là trung tâm và nền tảng quyết định của tất cả lịch sử
nhân loại. Phải chăng chúng ta thực sự có quyền bám vào một mầm mống yếu ớt của
một biến cố lịch sử độc nhất? Phải chăng chúng ta có thể liều mình để cho tất cả
cuộc đời của chúng ta, thậm chí tất cả lịch sử, tùy thuộc vào một cọng rơm của
một biến cố tầm thường trôi nổi trên đại dương bao la của lịch sử[20]?”
Chúng ta có thể trả lời
câu hỏi này không chút lưỡng lự. Đúng vậy. Đó có thể là nguồn mạch giải thoát
và hân hoan, không phải vì sức mạnh riêng của chúng ta, nhưng nhờ hồng ân vô
giá của đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận, và vì đó, chúng ta cảm tạ Chúa đến
muôn thuở muôn đời.
[1]
Đức Gioan Phaolô
II, Encyclique Fides et ratio no
88, 1998.
[2]
J. Monod, Le hazard et la
nécessité, Seuil, 1970.
[3]
M. Planck, La conoscenza del mondo
fisico, Bollati Boringhieri, Torino 1993, 155 (cité par R. Timossi,
L’illusione dell’ateismo. Perché la scienza non nega Dio, San Paolo, Cinisello
Balsamo 2000, 160).
[4]
J. H. Newman, “Lettre au chanoine J. Walker” (1868) in The Letters and Diaries, XXIV, Clarendon
Press, Oxford 1973, 77s.
[5]
J.H. Newman, Apologia pro vita sua,
Ad Solem, Paris 2010.
[6] J.H. Newman, Essai sur le développement de la doctrine chrétienne, Ad Solem,
Paris 2007.
[7] Monod,
Le hasard et la nécessité, op. cit.
[8] P. Atkins, cité par Timossi, L’illusione del ateismo, op. cit.
[9]
Pascal, Pensées, 347, éd.
Brunschwicg, Garnier Flammarion 1957, p. 47
[10] M. Blondel, - A. Valensin, Correspondance, Aubier. Paris 1957, p.
47.
[11]
Origen, Contra Celsum, IV, 23
(SCh 136, 238), et aussi IV, 74 (SCh 136, 366).
[12]
x. M. Pohlenz, L’uomo greco,
Firenze 1962.
[13]
Origen, Contra Celsum, IV, 30
(SCh 136, 254).
[14]
Denys l’Areopagite, Lettres 6.
[15]
G. Bardy, in Dictionnaire de
Spiritualité, ascétique et mystique,
III, Beauchesne, Paris 1937, col. 1389s.
[16]
Léon le Grand, Discours 1 sur
Noel (PL 54, 190s).
[17]
Entretien avec Motovilov in I.
Gorainoff, Séraphim de Sarov, Sa vie,
Spiritualité Orientale no 11, Abbaye de Bellefontaine 1975.
[18]
Athanase d’Alexandrie, Sur
l’incarnation du Verbe, SCh 199bis.
[19]
Grégoire de Nazianze, Discours
théologique 1 à 3, III, Sch 247.
[20] Joseph Ratzinger, Foi chrétienne hier et aujourd’hui, Cerf, Paris 2005.