VI

“SẴN SÀNG TRẢ LỜI

VỀ NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA”

Câu trả lời của Kitô giáo

cho chủ thuyết duy lý

 

 

1. Lý trí tiếm đoạt

Vật cản thứ hai làm cho một phần rất lớn văn hóa hiện đại “kỵ” với Phúc Âm, chính là chủ thuyết duy lý. Chúng ta đề cập nó trong chương này.

Ngày 11/12/1831, tại Đại học Oxford, Đức Chân Phước Hồng y John Henry Newman đã đọc một bài diễn văn để đời, tựa đề “Sự tiếm đoạt của lý trí”. Tựa đề này, tự nó, chứa đựng định nghĩa về cái gọi là chủ thuyết duy lý[1]. Trong lời tựa ấn bản lần thứ ba năm 1871, nơi một ghi chú, tác giả cho biết ngài muốn nói gì qua tựa đề trên. Theo ngài:

“Chúng ta hiểu sự tiếm đoạt của lý trí là một lạm dụng nào đó hay có về quan năng này, tức là khi nói về tôn giáo mà không có một kiến thức thâm sâu và tương xứng về tôn giáo, hoặc không sử dụng những nguyên tắc căn bản của tôn giáo. Trong Kinh Thánh, “lý trí” mạo nhận này được gọi là “sự khôn ngoan của thế gian”, nói khác đi, luận chứng về tôn giáo được xây dựng trên những châm ngôn của thế tục, là những châm ngôn tự nội tại xa lạ với tôn giáo[2]”.

Trong một bài giảng khác ở đại học, tựa đề “Đối chiếu đức tin với lý trí”, Đức Newman cho thấy rõ tại sao lý trí không thể là quan tòa cuối cùng trong vấn đề tôn giáo và đức tin, khi ngài sử dụng loại suy với lương tâm:

“Không ai nói lương tâm đối nghịch với lý trí, và cũng không ai nói những mệnh lệnh của lương tâm không thể được làm dưới hình thức luận chứng. Tuy nhiên, qua đó, không thể cho rằng lương tâm không phải là một nguyên lý nguyên thủy, và đòi nó phải tùy thuộc vào những tiến trình tiên quyết của lý trí. Lý trí phân tích những nền tảng và động lực của hành động, nhưng không tạo nên động lực nơi mình. Cũng như lương tâm là một yếu tố tiên quyết của bản tính chúng ta, nhưng những hoạt động của nó được lý trí kiểm soát và dò xét, cũng vậy, đức tin có thể biết được, và những hành vi của nó có thể được lý trí biện minh, nhưng không vì vậy mà nó thực sự tùy thuộc vào lý trí […]. Khi người ta nói rằng Phúc Âm đòi hỏi một đức tin thuần lý, thì chỉ muốn nói rằng đức tin phù hợp với lý trí trong trừu tượng, chứ không nói rằng nó phát xuất từ lý trí trên thực tế[3]”.

Một so sánh khác, và lần này là với nghệ thuật. Ngài viết: “Phê bình nghệ thuật đánh giá cái mà sự phê bình ấy không thể tạo ra. Cũng vậy, lý trí có thể chấp thuận hành vi tin, nhưng không vì vậy mà nó là nguồn mạch từ đó phát sinh đức tin[4]”.

Phân tích của Newman mới mẻ và độc đáo trong một số phương diện, cho thấy lý trí có khuynh hướng bắt mọi khía cạnh của thực tại phải quy phục những nguyên tắc riêng của nó. Nhưng người ta cũng có thể xem xét chủ thuyết duy lý theo một quan điểm khác, có liên hệ chặt chẽ với quan điểm trên. Sử dụng lối ẩn dụ chính trị của Newman, người ta có thể định nghĩa chủ thuyết duy lý như một thái độ của chính sách biệt lập (isolationnisme), thái độ tự khép kín của lý trí. Thái độ này không ở chỗ xâm nhập các lãnh vực khác cho bằng không chấp nhận một lãnh vực khác hiện hữu bên ngoài lãnh vực của nó. Nói cách khác, không chấp nhận một chân lý nào bên ngoài chân lý do lý trí chứng thực.

Dưới khía cạnh này, chủ thuyết duy lý không xuất hiện thời Khai sáng, cho dù phong trào này đã giúp cho nó tăng tốc mà kết quả còn thấy được ngày nay. Đây là một khuynh hướng luôn đụng chạm đức tin. Không chỉ đức tin Kitô giáo, mà cả đức tin Do thái giáo và Hồi giáo, ít nhất ở thời Trung cổ, đã gặp thách đố này.

Chống lại yêu sách muốn tuyệt đối hóa lý trí, ở thời nào cũng có những tiếng nói không chỉ nơi những người có đức tin, mà cả nơi những người bảo vệ tích cực cho lý trí, là các triết gia và khoa học gia. Pascal viết: “Đề xuất cuối cùng của lý trí là nhận ra rằng có vô số sự việc vượt qua lý trí[5]”. Chính lúc lý trí nhận ra những giới hạn của nó, nó vượt ra bên ngoài và vượt qua chúng. Chính nhờ lý trí mà sự thừa nhận này xảy ra, do đó tạo thành một hành vi thực sự thuộc lý trí. Theo đúng nghĩa đen, sự thừa nhận này là một sự “vô tri thông thái[6]” (savante ignorance), tức là không biết khi “biết lý do”, biết rằng mình không biết.

Vậy phải nói rằng ai không nhận ra khả năng vượt qua chính mình này, người đó đặt ra một giới hạn cho lý trí và hạ nhục nó.

Kierkegaard viết:

“Cho tới lúc này, người ta luôn nói như sau: ‘Nói rằng không thể hiểu việc này việc kia, nói như vậy là không làm khoa học thỏa mãn, vì khoa học muốn hiểu. Sai lầm là ở đó. Chính xác phải nói ngược lại: nếu khoa học không muốn thừa nhận rằng có một cái gì đó mà nó không thể hiểu, hoặc nói rõ hơn, một cái gì đó mà rõ ràng nó có thể hiểu rằng nó không thể hiểu, thì lúc đó thế giới đảo ngược. Vậy thuộc kiến thức của con người là hiểu rằng có vô số sự việc, và những sự việc ấy nó không thể hiểu[7]”.

2. Đức tin và ý thức về Thiêng Thánh

Phải thấy trước là sự đối kháng theo kiểu mẫu này giữa đức tin và lý trí sẽ còn tiếp tục trong tương lai. Mỗi thời kỳ sẽ lại tạo ra con đường riêng cho mình, là điều không thể tránh, nhưng các nhà duy lý và các tín hữu sẽ không thu phục được nhau bằng những luận chứng của mình. Phải tìm ra một con đường để phá vỡ vòng luẩn quẩn này, giải thoát đức tin khỏi sự lệ thuộc này. Trong cuộc tranh luận giữa đức tin và lý trí, chính lý trí áp đặt sự lựa chọn của mình, cưỡng ép đức tin cách nào đó vào cuộc chơi ở bên ngoài lãnh vực của nó, và đức tin phải ở trong tư thế tự vệ.

Đức Hồng y Newman ý thức rõ điều này. Trong một bài giảng khác ở đại học, ngài muốn người ta lưu ý đến nguy cơ thế tục hóa đức tin vì muốn chạy theo lý trí. Ngài tuyên bố mình hiểu, ngay cả khi về cơ bản ngài không thể chấp nhận điều đó, lập luận của những người bị cám dỗ hoàn toàn rút đức tin ra khỏi cuộc nghiên cứu thuộc lý trí, khi "những đối kháng và chia rẽ được khơi dậy do những luận chứng và tranh cãi, sự tự tin kiêu hãnh được cổ võ bởi sức mạnh của khả năng lý luận, sự lỏng lẻo của ý kiến thường đi kèm với việc nghiên cứu các bằng chứng, sự nhạt nhẽo, tính hình thức, tinh thần thế tục và duy vật; và đàng khác khi họ nhớ rằng Kinh Thánh nói về tôn giáo như về một đời sống thần linh, bén rễ trong những tình cảm và biểu lộ qua những ân sủng thuộc linh[8]."

Trong tất cả những lần Newman đề cập tương quan giữa đức tin và lý trí, lúc ấy chưa được nói đến nhiều như ngày nay trong các cuộc tranh luận, người ta thấy ngài cảnh giác: không thể chống lại chủ thuyết duy lý bằng một chủ thuyết duy lý khác, ngay cả có dấu vết chống lại. Vậy phải tìm ra một con đường khác, con đường này không tìm cách thay thế con đường bảo vệ đức tin theo lý trí, nhưng đồng hành và bổ sung cho nó, không chỉ vì những người tiếp nhận lời loan báo Kitô giáo thuộc thành phần trí thức, có khả năng tham gia vào cuộc đối đầu kiểu này, nhưng còn có đông đảo những người thờ ơ với nó và tỏ ra nhạy cảm hơn với các lập luận khác.

Pascal đã đề ra con đường của con tim: “Con tim có những lý lẽ mà lý trí không biết[9]”. Những thành phần lãng mạn (chẳng hạn Schleiermacher) thì đề ra con đường tình cảm. Thiết tưởng còn một con đường khác cần được xét đến: con đường của kinh nghiệm và chứng từ. Ở đây, tôi không nói đến kinh nghiệm cá nhân, chủ quan, về đức tin, nhưng nói đến kinh nghiệm phổ quát, khách quan. Kinh nghiệm này có thể có giá trị đối với những người còn xa lạ với đức tin. Nó không đưa ta tới sự viên mãn đức tin, một đức tin cứu độ, tức là tin vào Đức Kitô đã chết và sống lại, nhưng nó có thể giúp ta tạo ra những điều kiện tiên quyết để đạt tới ơn cứu độ. Những điều kiện này là mở lòng mở trí đón nhận mầu nhiệm, nhận ra điều gì đó vượt lên trên thế giới và lý trí.

Sự đóng góp đáng kể nhất của khoa hiện tượng học hiện nay về tôn giáo cho đức tin, nhất là dưới hình thức của khoa này trong tác phẩm cổ điển “Le Sacré” (Cái Thiêng Thánh)[10] của Rudolph Otto, là đã cho thấy rằng sự khẳng định từ trước tới nay (là có một điều gì đó lý trí không cắt nghĩa được) không phải là một định đề (postulat) lý thuyết hoặc định đề của đức tin, nhưng là một dữ kiện kinh nghiệm tiên khởi.

Có một tình cảm đi kèm với nhân loại ngay từ đầu, hiện diện trong mọi tôn giáo và văn hóa. Tác giả gọi nó là tình cảm về thần thiêng (numineux). Đây là một khái niệm cơ bản, không thể giản lược vào bất cứ tình cảm hay kinh nghiệm nào khác. Nó làm con người run sợ khi mà, trong một hoàn cảnh bên ngoài hay bên trong, con người đứng trước mạc khải về siêu nhiên vừa khủng khiếp vừa vừa hấp dẫn (mysterium tremendum et fascinosum).

Thần thiêng biểu lộ ở các mức độ tinh tuyền khác nhau: từ giai đoạn thô sơ nhất là phản ứng đáng ngại do các câu chuyện về linh hồn và bóng ma gây ra, đến giai đoạn tinh tuyền nhất là sự thánh thiện của Thiên Chúa – Qadosh của Kinh Thánh – được bày tỏ, như trong cảnh nổi tiếng về ơn gọi Isaia (Is 6,1tt).

Thánh Augustinô đã cho thấy trước trực giác này của các học giả hiện đại về hiện tượng học tôn giáo. Ngài viết trong Confessions:

"Khi con bắt đầu biết Chúa, Chúa đã lôi con lên tới Chúa. [...] Chúa làm con lóa mắt bởi ánh hào quang mạnh mẽ của Chúa, và con run lên vì yêu và sợ (contremui amore et horrore)[11]”.

Ngài làm sáng tỏ tính chất siêu nhiên của kinh nghiệm này:

"Ai sẽ có thể hiểu được điều kỳ diệu này? Ai sẽ có thể kể về nó? Ánh sáng này là gì mà từng lúc chiếu sáng con và đánh vào trái tim con mà không làm tổn thương nó; con run sợ và nóng bỏng vì yêu (et inhorresco et inardesco): run sợ, vì con rất khác nó; nóng bỏng vì yêu, vì con giống nó?[12]"

Để chỉ đối tượng của kinh nghiệm này, Otto dùng tính từ “phi lý tính” (non-rationnel hoặc irrationnel) (Tác phẩm có tựa đề phụ là : Yếu tố phi lý tính trong ý tưởng về thần linh và về mối liên hệ của nó với yếu tố lý tính). Thế nhưng trong suốt tác phẩm, tác giả chứng minh rằng ý nghĩa mà ông gán cho chữ “phi lý tính” không phải là “ngược với lý trí”, nhưng là “bên ngoài tôn giáo”, không thể dịch bằng những hạn từ thuần lý.

Nếu đúng như vậy, cần phục hồi ý thức về sự thiêng thánh trong việc tái Phúc Âm hóa một thế giới đã bị tục hóa. Sở dĩ chủ thuyết duy lý (lý do và hậu quả của nó) có đất dụng võ là vì người ta đã mất ý thức về sự thiêng thánh. Do đó Giáo Hội phải giúp con người tái khám phá sự hiện diện và vẻ đẹp của thiêng thánh. Theo Charles Péguy, sự thiếu thốn kinh khủng về sự thiêng thánh là dấu ấn sâu xa của thế giới hôm nay, cách riêng trong nghệ thuật, văn chương, và tiếng nói hàng ngày. Đối với nhiều tác giả, coi ai là người “giải thần thiêng hóa” (“désacralisant”) không còn là hành vi xúc phạm nữa, mà là một lời khen.

Kinh Thánh đôi khi bị tố cáo là đã “giải thần thiêng hóa” thế giới, khi xua đuổi các tiên nữ và thần thánh ra khỏi núi rừng, biển cả, biến họ thành những thụ tạo thuần túy để phục vụ con người. Không sai. Chính khi đánh tan ngộ nhận của họ cho mình là thần linh, Kinh Thánh đã phục hồi bản tính đích thực của họ là “dấu chỉ” của thần linh. Kinh Thánh đả phá việc tôn thờ các thụ tạo như ngẫu tượng, chứ không đả phá tính thần thiêng của họ.

Được "tục hóa" như vậy, thụ tạo còn có khả năng hơn kích động kinh nghiệm về thần thiêng và thần linh (numineux et divin). Theo tôi, câu nói nổi tiếng của Kant, đại diện lừng lẫy nhất của chủ thuyết duy lý triết học, mang dấu ấn của loại kinh nghiệm này.

“Hai điều làm cho trái tim tôi ngưỡng mộ và tôn kính ngày càng mới mẻ và gia tăng, khi sự suy tư càng gắn bó và thích hợp với chúng, đó là: bầu trời đầy sao phía trên tôi và luật đạo đức trong tôi. [...] Điều  đầu tiên khởi sự tại chỗ của tôi trong thế giới bên ngoài các giác quan, và mở rộng kết nối nơi tôi ở với không gian bao la, với những thế giới bên kia các thế giới và những hệ thống các hệ thống, và hơn nữa, vào những lúc không giới hạn của chuyển động tuần hoàn, lúc bắt đầu và thời gian kéo dài của chúng[13]."

Francis Collins, nhà khoa học hiện nay, mới được bổ nhiệm làm thành viên của hàn lâm viện giáo hoàng, trong cuốn “Language of God” (Ngôn ngữ của Thiên Chúa)[14], đã mô tả thời điểm ông trở lại đạo như sau:

“Vào một ngày mùa thu đẹp trời, lúc tôi đang đi dã ngoại ở vùng núi Cascade phía tây Mississippi, vẻ uy nghi và mỹ miều của cảnh vật Thiên Chúa tạo thành đã khuất phục tôi. Tôi hiểu rằng cuộc tìm kiếm của tôi chấm dứt. Sáng hôm sau, tôi quỳ trên nội cỏ còn ướt đẫm sương mai, lúc mặt trời vừa mọc, và tôi phó mình trong bàn tay của Chúa.”

Những khám phá lạ lùng, ngay cả của khoa học và kỹ thuật, không làm cho người ta thất vọng, nhưng đúng hơn, là cơ hội để thán phục và có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Cũng tác giả Collins còn tuyên bố: nhờ tìm lại được đức tin, thời điểm tìm ra quy luật bộ gen đơn bội (génome) là một “kinh nghiệm ca ngợi khoa học” đồng thời cũng là một “kinh nghiệm thờ phượng tôn giáo”. Trong số những việc lạ lùng của tạo thành, không gì lạ lùng hơn con người, và nơi con người, không gì lạ lùng hơn trí khôn do Thiên Chúa tạo dựng.

Từ đây, khoa học không hy vọng đạt tới giới hạn cuối cùng trong việc khám phá cái lớn vô cùng là vũ trụ và cái nhỏ vô cùng là nguyên tử. Một số người dựa vào những “bất cân xứng” này để chứng minh Thiên Chúa không hiện hữu và con người là vô nghĩa. Còn đối với các tín hữu, chúng lại là những dấu chỉ tuyệt vời cho thấy cả sự hiện hữu lẫn những thuộc tính của Thiên Chúa: sự bao la của vũ trụ là dấu chỉ của sự cao cả vô biên và siêu việt, sự nhỏ bé của nguyên tử là dấu chỉ của sự khiêm nhường, thể hiện qua việc Con Thiên Chúa nhập thể, trở thành thai nhi trong lòng một người mẹ, và một mẩu bánh nhỏ trong đôi bàn tay linh mục.

Trong đời sống hàng ngày, không thiếu cơ hội để có thể cảm nghiệm một chiều kích “khác”, chẳng hạn lúc phải lòng nhau, lúc đứa con đầu lòng chào đời, lúc có được niềm vui lớn lao… Cần giúp cho người ta mở to đôi mắt và tìm lại được khả năng ngạc nhiên, thán phục. Có một câu châm ngôn được gán cho Chúa, nhưng không tìm thấy trong Phúc Âm: “Ai ngạc nhiên, người ấy sẽ cai trị[15]”. Trong cuốn tiểu thuyết “Anh em nhà Karamazov”, Dostoievski thuật lại những lời của viên sĩ quan Zosime, trước đó đã xúc động vì ân sủng, nói với những người hiện diện, lúc ông từ bỏ cuộc song đấu với kẻ thù:

“Thưa quý vị, quý vị hãy nhìn đến công trình của Thiên Chúa, bầu trời thanh quang, không khí trong lành, đồng cỏ xanh mướt, chim trời ca hót trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Chỉ có chúng ta, những người vô đạo khờ dại, chúng ta không hiểu rằng đời sống là một thiên đường. Chỉ cần chúng ta muốn hiểu điều đó để thấy nó trong tất cả vẻ đẹp của nó. Khi ấy, chúng ta sẽ ôm lấy nhau mà khóc[16]”.

Đúng là một con người ý thức về sự thiêng thánh của thế giới và của sự sống!

Người Ý chúng ta không buộc phải tìm đến văn học Nga để thấy những kinh nghiệm về thần thiêng được mô tả. Chúng ta có một ví dụ - có lẽ đẹp nhất trong mọi văn chương - bằng ngôn ngữ của chúng ta: bài thơ “Vô tận” của Giacomo Leopardi[17]. Sau những gì chúng ta đã nói, việc nghe lại nó có thể giúp chúng ta khám phá ra một điều mà chúng ta đã không chú ý khi học trong lớp.

Ngọn đồi hiu quạnh này

và hàng giậu che khuất bao nhiêu vạt chân trời xa xăm

vẫn luôn thân thương đối với tôi.

Nhưng khi ngồi và chiêm niệm,

vượt ra ngoài nó, trong ý nghĩ, tôi khàm phá ra

những khoảng không vô hạn, những im lặng siêu phàm

và một sự tĩnh lặng sâu thẳm;

nơi con tim khó mà không sợ.

Và khi tôi nghe thấy tiếng gió xào xạc

trong những tán lá này,

tôi sẽ so sánh sự im lặng vô tận này với giọng nói này:

trong tôi, sự vĩnh cửu, những mùa chết và mùa hiện tại đang sống, sự kêu vang của nó, đang trở lại.

Như vậy,

trong sự mênh mông này, ý nghĩ của tôi chìm nghỉm:

và sự chìm đắm thì êm dịu đối với tôi trong vùng biển này.

Chúng ta tìm lại được trong những vần thơ này tất cả nội dung của mầu nhiệm "khủng khiếp và hấp dẫn" của Rudolph Otto, khía cạnh của hấp dẫn và tình yêu ("và sự chìm đắm thì êm dịu đối với tôi trong vùng biển này") cũng như khía cạnh sợ hãi thánh. ("con tim khó mà không khiếp sợ"). Là Kitô hữu, chúng ta chỉ còn cách đặt một tên cho "vùng biển" này. Nó là đại dương vô tận, không đáy và không bến bờ, của tình yêu Thiên Chúa.

Đối với các tín hữu, một cơ hội đặc biệt để trải nghiệm về thần thiêng hẳn là phụng vụ lúc một trong những thì mạnh của nó. Trong một số bài giảng cổ xưa về lễ Vượt Qua, như của Méliton de Sarde ở thế kỷ thứ II, người ta đã sáng chế ra kiểu nói "thần hiện phụng tự" (épiphanie cultuelle). Vào lúc tột đỉnh của phụng vụ, nó cho thấy các Kitô hữu đã trải nghiệm về sự hiện diện sống động của Đấng Phục Sinh ở giữa họ. Người ta nhận rằng tiếng kêu Maranatha trong tiếng araméen, được phát âm với các dấu nhấn khác nhau (Maran-athâ, thay Maranâ-thâ) đã được sử dụng chính xác để diễn tả tâm tình tập thể này. Khi ấy không còn là một lời kêu cầu “Lạy Chúa, xin hãy đến!” cho bằng một câu hô "Chúa đã đến rồi! Chúa ở đó!".

3. Cần những chứng nhân

Khi một kinh nghiệm về thiêng thánh và thần linh chợt đến với chúng ta, nếu được chúng ta thực sự đón nhận và vun trồng, nó sẽ trở thành một kinh nghiệm sống của chúng ta. Chính như vậy mà có những “chứng nhân” về Thiên Chúa là các thánh, đặc biệt là một hạng người trong số các ngài, đó là những nhà thần bí hay thần nghiệm.

Theo câu định nghĩa nổi tiếng của Đionysiô Arêôpagô, nhà thần bí là người “chịu đựng nổi Thiên Chúa” (pati divina), nghĩa là có kinh nghiệm và sống thực tại thần linh. Các ngài giống như những người thám báo, lén lút vào Đất hứa, và khi về thì kể lại những điều tai nghe mắt thấy về một miền đất chảy sữa và mật, để thúc giục dân Chúa vượt qua sông Giođan (Ds 14,6-9). Nhờ các ngài mà những ánh sáng đầu tiên của đời sống vĩnh cửu đến với chúng ta trong cuộc đời này.

Đọc tác phẩm của các nhà vô thần và duy lý, chúng ta thấy những luận chứng tinh tế nhất của họ xa lạ, thậm chí ngây ngô, như thế nào. Đối với người duy lý, chúng ta cảm thấy ngạc nhiên và bực bội, như đứng trước một người đang nói về những gì mà rõ ràng người đó không biết. Người đó giống như người nghĩ rằng diễn giả liên tục nói sai văn phạm, trong khi diễn giả thực sự đang nói một ngôn ngữ khác. Nhưng chúng ta cảm thấy không mong muốn bắt đầu bác bỏ chúng, vì ngay cả những lời lẽ bênh vực Thiên Chúa vào lúc đó cũng trống rỗng và không đúng lúc.

Các nhà thần bí là những người đã khám phá ra Thiên Chúa “hiện hữu”, hoặc đúng hơn, chỉ mình Ngài thực sự hiện hữu, còn “thực” hơn đến vô cùng cái quen gọi là thực tại. Chính là điều đã xẩy ra với Edith Stein, người Do Thái, vô thần xác tín (bây giờ là thánh nữ Bênêđicta Thánh Giá), đồ đệ thân tín của Husserl ông tổ của hiện tượng luận, một đêm kia đã khám phá ra Thiên Chúa hằng sống. Cô là khách của các bạn Kitô hữu. Một đêm kia các bạn phải đi vắng, chỉ có mình cô ở lại nhà, không biết làm gì, cô lấy đại một cuốn sách trên giá để đọc. Đó là cuốn Tự thuật của thánh nữ Têrêxa Avila. Cô đọc say mê suốt đêm, và khi gấp sách lại, cô chỉ biết lẩm bẩm: “Chân lý là đây!”. Vừa tảng sáng, cô vội ra phố, tìm mua một cuốn sách giáo lý công giáo và một cuốn sách nguyện. Đọc xong những sách này, cô tìm đến ngôi nhà thờ ở gần đó, xin linh mục ban phép rửa tội cho mình.

Tôi cũng đã có một chút kinh nghiệm về sức mạnh mà các nhà thần bí có, để giúp bạn chạm ngón tay vào thực tại siêu nhiên. Đó là năm có nhiều cuộc thảo luận về cuốn sách của một nhà thần học, có tựa đề "Có Thiên Chúa không?" (Existiert Gott?); đọc xong cuốn sách, rất ít người sẵn sàng thay đổi dấu chấm hỏi thành dấu chấm than. Trên đường đi tham dự một đại hội, tôi mang theo cuốn sách gồm các tác phẩm của Chân Phước Angela Foligno mà tôi chưa được biết. Tôi thực sự bị lóa mắt vì nó; Tôi đã mang nó đến các hội nghị. Tôi mở lại bất cứ lúc nào và, để kết thúc, tôi gấp lại, tự nhủ: "Có Thiên Chúa không? Không những Ngài hiện hữu, mà Ngài thực sự là một ngọn lửa thiêu rụi!".

Đáng buồn là có một kiểu cách văn chương cuối cùng lại vô hiệu hóa “chứng cứ” sống động về sự hiện hữu của Thiên Chúa là các nhà thần bí. Để làm điều này, người ta đã dùng một phương pháp rất kỳ lạ: không giảm thiểu nhưng gia tăng con số, không hạn chế hiện tượng nhưng nới rộng nó quá mức. Tôi muốn nói về những người, chỉ lướt sơ qua các nhà thần bí trong các tuyển tập thơ văn của các ngài hoặc trong sách lịch sử khoa thần bí, xếp các ngài bên cạnh nhau, như thuộc vào cùng một loại hiện tượng: Thánh Gioan Thánh giá bên cạnh Nostradamus (nhà tiên tri người Pháp ở thế kỷ XVI), các thánh bên cạnh những nhân vật kỳ quặc, thần bí Kitô giáo xen lẫn với huyền bí học, thông thiên học, các hình thức phiếm thần, thậm chí cả thuật luyện đan[18]. Những nhà thần bí đích thực là chuyện khác, và Giáo Hội có lý do để xét đoán nghiêm túc về các ngài.

Nhà thần học Karl Rahner dường như lấy lại một câu của Raimondo Pannikar, đã quả quyết: “Người Kitô hữu ngày mai sẽ là một nhà thần bí, hoặc không là Kitô hữu”. Qua đó, cha muốn nói rằng, trong tương lai điều giữ cho đức tin được sống động là chứng từ của những người có kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa, hơn là dùng lý trí chứng minh rằng đức tin có thể chấp nhận được.

Khi Tông đồ Phêrô khuyên các tín hữu sẵn sàng “trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15), thì xét theo ngữ cảnh, chắc chắn ngài không muốn nói về cách trả lời dựa vào suy tư hay biện chứng, nhưng về cách trả lời thực tiễn, tức là bằng kinh nghiệm của họ về Đức Kitô, liên kết với chứng từ của các tông đồ bảo đảm cho kinh nghiệm ấy.

Phương châm hồng y của Newman Cor ad cor loquitur (Con tim nói với con tim) cũng có nghĩa là: "Chỉ điều gì xuất phát từ con tim của người loan báo mới đến được với con tim của mọi người". Trong bài giảng lần thứ năm tại đại học, Personal Influence, the Means of Propagating the Truth (Ảnh hưởng cá nhân, những phương tiện truyền bá chân lý), ngài viết:

"Chân lý được lưu lại trên thế giới không phải nhờ một hệ thống, không phải nhờ sách vở hay luận chứng, không phải nhờ công lao của quyền lực trần thế, nhưng nhờ ảnh hưởng của những người vừa là thầy dạy vừa là mẫu mực của nó[19]."

Xét cơ bản thì Đức Phaolô VI cũng không nói khác hơn, khi ngài quả quyết trong tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng)[20]: “Con người thời nay muốn nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, hoặc nếu có nghe các thày dạy, thì chính vì các vị này cũng là những chứng nhân”.

4. Làm cho đức tin vùng dậy

Tôi đã nói về những lần điều thần thiêng và siêu nhiên ùa vào trong đời sống. Không chỉ những người vô tín hay duy lý mới cần có những điều đó, để khám phá ra đức tin. Cả tín hữu chúng ta cũng cần nữa. Nguy cơ lớn mà những người có tôn giáo gặp phải, là giản lược đức tin vào các nghi lễ và công thức, có lẽ được lặp đi lặp lại cách chu đáo, nhưng có tính chất máy móc và không có được sự tham dự sâu sắc bằng tất cả con người của chúng ta. Qua miệng tiên tri Isaia, Chúa phải than phiền: “Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng, tôn vinh Ta bằng môi, còn lòng chúng thì xa Ta lắm. Chúng chỉ kính sợ Ta theo lệnh của người phàm, nhưng đó chỉ là sáo ngữ” (Is 29,13).

Giáng sinh có thể là dịp thuận lợi để làm cho đức tin vùng dậy. Đây là sự “hiển linh” lớn lao nhất của Thiên Chúa, một cách bày tỏ cao xa nhất của Thiêng Thánh.

Không may là hiện tượng tục hóa đang làm cho lễ này mất đi tính cách của một “mầu nhiệm vĩ đại” – tức  đưa con người đến chỗ kính sợ và tôn thờ (tremendum) – làm cho mầu nhiệm này chỉ còn lại khía cạnh hấp dẫn (fascinosum). Ngay cả khía cạnh này cũng có ý nghĩa thuần túy tự nhiên, chứ không siêu nhiên: một lễ của các giá trị gia đình, của mùa đông, cây cối, tuần lộc, của ông già Noel. Trong một vài quốc gia, người ta còn cố thay thế tên gọi Noel bằng “lễ ánh sáng”. Ít có dịp nào cho thấy rõ sự tục hóa hơn dịp lễ Giáng Sinh.

Đối với tôi, tính chất "thần thiêng" của lễ Giáng Sinh gắn liền với một kỷ niệm. Một hôm tôi tham dự Thánh lễ nửa đêm do Đức Gioan Phaolô II chủ sự ở đền thờ thánh Phêrô. Đến lúc hát bài Calendes, nghĩa là lời tuyên bố long trọng Đấng Cứu Thế sinh ra, bài ca có trong Tử đạo lục và được đưa vào lại trong phụng vụ Giáng Sinh sau Công đồng Vatican II:

"Nhiều thế kỷ kể từ khi thế giới được tạo thành [...]

Mười ba thế kỷ sau khi dân Israel ra khỏi đất Ai Cập [...]

Năm 752 từ ngày thành lập Roma,

năm thứ bốn mươi hai của đế quốc thời Cêsarê Augustô,

Toàn thể vũ trụ đang nghỉ ngơi trong an bình [...]

Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hằng hữu

và Con của Cha hằng hữu [...]

đã được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần,

chín tháng trôi qua kể từ khi được thụ thai,

Ngài sinh ra tại Belem xứ Giuđa,

làm người từ Đức Trinh Nữ Maria..."

Nghe những lời cuối cùng này, tôi cảm nghiệm điều được gọi là “sự xức dầu của đức tin”: một sự sáng tỏ đột ngột trong tôi – tôi nhớ rõ – khiến tôi suy nghĩ tận đáy lòng: “Đúng! Tất cả những gì vừa hát đều đúng! Không chỉ là những từ. Vĩnh cửu đi vào thời gian. Biến cố cuối cùng của một loạt biến cố đã phá vỡ loạt ấy: nó tạo ra một "trước" và một "sau" không thể quay trở lại; những gì đã được hoàn thành trong thời gian và những gì trước đây xảy ra liên quan đến các sự kiện khác nhau (chẳng hạn các cuộc thi Olympique, các triều đại…), từ đây xảy ra liên quan đến một sự kiện độc nhất!" Xúc cảm bỗng ùa vào tất cả con người tôi và tôi không thể nói gì khác hơn là: "Tạ ơn Ba Ngôi Chí Thánh, và cũng xin tạ ơn Mẹ, Thánh Mẫu của Thiên Chúa!"

Tìm cho mình những khoảng không gian thinh lặng sẽ giúp ích rất nhiều, để biến Giáng Sinh thành một cơ hội cho đức tin vùng dậy. Cho dù bầu khí có vẻ động đạc, nhưng cũng có những yếu tố giúp chúng ta làm điều trên đây: ý nghĩa đích thực của phụng vụ, bài hát Stille Nacht, Silent Night (Đêm thinh lặng) rất quen thuộc và phổ biến trong mùa Giáng Sinh. Trong dịp này, chúng ta hãy coi lời Thánh vịnh sau đây là lời kêu gọi dành cho mỗi người chúng ta: “Dừng tay lại. Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa” (Tv 46.11).

Mẹ Thiên Chúa là mẫu gương hoàn hảo về sự thinh lặng trong dịp Giáng Sinh. Người “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Sự thinh lặng của Mẹ trong dịp này không chỉ có nghĩa là không nói, mà còn là một sự ngạc nhiên, tôn thờ, một sự thinh lặng có ý nghĩa tôn giáo. Cách giải thích chính xác nhất về sự thinh lặng của Đức Mẹ là từ các icônes (linh ảnh) xưa của Đông phương byzantin, trong đó Đức Mẹ yên lặng, bất động, với cái nhìn cố định, đôi mắt mở rộng của người đã thấy các sự việc không thể diễn tả bằng lời. Đức Mẹ là người đầu tiên dâng lên Thiên Chúa một “bài ca thinh lặng[21]”, theo kiểu nói của thánh Grêgôriô Nazianzê.

 



[1]  J.H. Newman, Oxford University Sermons, London 1900, p.54-74; trad. fr. Sermons Universitaires, de 1826 à 1843, Ad Solem, Paris 2007.

[2]  Op. cit. p. XV

[3]  Op. cit. p. 183

[4]  Ibidem.

[5]  B. Pascal, Pensées, 267, éd. Brunschwicg, Garnier Flammarion, Paris 1993.

[6]  Augustinô, Lettres, CXXX, 28 (PL 33, 505), Nabu Press-BiblioLabs, Charleston 2012.

[7]  S. Kierkegaard, Journal VIII A 11.

[8]  Newman, Oxford University Sermons, op. cit. p. 262

[9]  Pascal, Pensées, op. cit. 277

[10]  R. Otto, Das Heilige, Uber das Irrationale in der Idee des Gottlichen und seine Verhaltnis zum Rationalem, Trewendt & Granier, Breslau 1917 (Trd. Franc. Le Sacré, Payot, Paris 1995).

[11]  Augustin, Confessions, VII, 10, Flammarion, Paris 1993.

[12]  Op. cit. XI, 9.

[13]  Kant, Critique de la raison pratique, Gallimard Education, Paris 1989.

[14]  F. Collins, The Language of God, A Scientist presents Evidence for Belief, Free Press, New York 2006, p. 219 à 255.

[15]  In Clément d’Alexandrie, Les Stromates II, 9, SCh 38.

[16] F. Dostoievski, Les frères Karamazov, Bibliothèque de la Pléiade, Paris 1952.

[17]  Leopardi, Chants, Flammarion, Paris 2005.

[18]  Chính là trường hợp của E. Zola trong tuyển tập nổi tiếng Textes mystiques d’Orient et d’Occident, do S. Lemaitre giới thiệu, Plon, Paris 1955.

[19]  x. Newman, “Implicit and Explicit Reason” in University Sermons, XIII, cit., pp254-277.

[20]  No 41

[21]  Grêgôriô Nazianzê, Poèmes, XXIX, Cuf grecque, Belles Lettres, Paris 2004.


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều