VII
KITÔ GIÁO VÀ CHỦ THUYẾT DUY TỤC
Câu trả lời của Kitô giáo
cho chủ thuyết duy tục
1. Sự tục hóa và chủ thuyết duy tục
Trong bài suy niệm này,
chúng ta sẽ xem xét cạm bẫy thứ ba mà việc Phúc Âm hóa phải đối mặt trong thế
giới phương Tây hiện đại: sự tục hóa. Qua Tự sắc thiết lập Hội đồng Giáo hoàng
nhằm cổ võ công cuộc tân Phúc Âm hóa, chúng ta được biết Hội đồng này “phục vụ
các Giáo Hội địa phương, đặc biệt trong những miền có truyền thống Kitô giáo,
nơi người ta thấy rõ có hiện tượng tục hóa[1].
Tục hóa (sécularisation)
là một hiện tượng phức tạp và lưỡng giá. Nó có thể chỉ sự tự trị của những thực
tại trần thế, tách biệt vương quốc của Thiên Chúa với vương quốc của Cêsarê.
Theo nghĩa này, nó không đi ngược lại Phúc Âm đã đành, mà còn có gốc rễ sâu xa
trong Phúc Âm nữa. Tuy vậy, nó cũng có thể chỉ toàn bộ thái độ ngược lại với
tôn giáo và đức tin. Trong trường hợp này, nên gọi nó là chủ thuyết duy tục
(sécularisme). Chủ thuyết duy tục so với tục hóa cũng giống như chủ thuyết duy khoa
học so với khoa học tính và chủ thuyết duy lý so với lý tính.
Xem xét những trở ngại
và thách đố mà đức tin gặp phải trong thế giới hôm nay, chúng ta phải hiểu sự tục
hóa hoàn toàn theo nghĩa tiêu cực. Tuy vậy, sự tục hóa cũng mang nhiều bộ mặt
tùy như nó xuất hiện trong lãnh vực nào: thần học, khoa học, đạo đức học, chú
giải Kinh Thánh, văn hóa tổng quát, cuộc sống hàng ngày. Trong bài này, chúng
ta hiểu tục hóa theo nghĩa tiêu cực. Quả thực, cũng như chủ thuyết duy tục, sự
tục hóa phát xuất từ chữ la tinh “saeculum”.
Theo nghĩa thông thường, saeculum cuối cùng có nghĩa là thời gian hiện tại – “éon actuel” như Kinh Thánh nói, đối nghịch
với vĩnh cửu – “éon futur” hoặc “muôn thuở muôn đời” trong Kinh Thánh. Theo nghĩa
này, chủ thuyết duy tục đồng nghĩa với chủ thuyết trần thế
(temporalisme), nghĩa là chỉ còn hiểu theo
chiều kích trần thế.
Việc thu hẹp chân trời
vĩnh cửu hoặc sự sống vĩnh cửu tác dụng trên đức tin Kitô giáo như cát đổ vào lửa:
nó bóp nghẹt và dập tắt ngọn lửa. Thế nhưng tin vào sự sống vĩnh cửu lại là một
trong những điều kiện để có thể Phúc Âm hóa. Phaolô nói:
“Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô mà chỉ vì đời này mà thôi, thì
chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15,19).
2. Sự thăng trầm của ý tưởng về vĩnh cửu
Chúng ta nhắc lại những
nét lớn về lịch sử niềm tin vào sự sống đời sau, nhờ đó chúng ta hiểu thêm sự mới
mẻ mà Phúc Âm mang lại trong lãnh vực này.
Trong Do thái giáo của Cựu
Ước, niềm tin này được xác quyết muộn màng. Chỉ sau thời lưu đầy, khi thấy những
chờ đợi ở đời này không đem lại kết quả gì, dân Chúa mới nghĩ tới sự sống lại của
thân xác, và phần thưởng ở đời sau dành cho những người công chính. Tuy nhiên, không
phải ai cũng chia sẻ niềm tin này, trong đó có nhóm Sađốc.
Như vậy, những người như
Feuerbach, Freud… đã sai tỏ tường, khi cho rằng
tin vào Thiên Chúa cũng như mong được phần thưởng đời đời, tất cả chỉ là
phóng chiếu vào đời sau những gì mong ước ở đời này mà không có được. Là vì, Israel đã tin vào Thiên Chúa hàng thế
kỷ trước khi tin vào phần thưởng đời đời ở thế giới bên kia. Thế nên, không phải
vì muốn được phần thưởng trên trời mà người ta tin Thiên Chúa, nhưng chính vì
tin Thiên Chúa mà người ta tin có phần thưởng trên trời.
Đức Kitô đến mạc khải đầy
đủ về cuộc sống vĩnh cửu. Ngài không đặt nền móng cho sự chắc chắn của cuộc sống
này trên bản tính con người hay sự bất tử của linh hồn, nhưng trên “quyền năng
của Thiên Chúa”, Đấng không phải là “Thiên
Chúa của kẻ chết, nhưng của người sống” (Lc 20,27-38). Sau lễ Phục Sinh, các
Tông Đồ sẽ thêm vào nền tảng thần học trên đây nền tảng Kitô học: sự sống lại của
Đức Kitô từ cõi chết:
“Nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao
trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?...Nhưng không
phải thế, Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những kẻ đã an giấc
ngàn thu” (1Cr 15,12.20).
Cũng vậy, trong thế giới
Hy La, quan niệm về thế giới bên kia cũng tiến triển. Ý tưởng xa xưa nhất là sự
sống thật chấm dứt với cái chết; sau cuộc đời này, chỉ còn lại vẻ bề ngoài của
sự sống trong một thế giới âm u tối tăm. Với sự xuất hiện của tôn giáo theo
Orphê và Pythagorê, người ta thấy có gì đó mới mẻ. Theo tôn giáo này, cái tôi
thực sự của con người là linh hồn, một khi được giải thoát khỏi ngục tù (sema) của thể xác (soma), cuối cùng có thể sống cuộc sống đích thực của mình. Plato sẽ
đưa khám phá này vào trong triết học của mình bằng cách xây dựng nó trên bản tính
thiêng liêng, do đó bất tử, của linh hồn[2].
Tuy nhiên, niềm tin này
cũng chỉ có ở một số ít người, dành cho những người được khai tâm vào mầu nhiệm,
cũng như cho những môn sinh của các trường phái triết học đặc biệt. Còn đa số
dân chúng vẫn tin tưởng như xưa, cho rằng chết là hết.
Trong bối cảnh này, chúng
ta hiểu việc Kitô giáo loan báo một cuộc sống đời sau vô cùng thỏa mãn và vui vẻ
so với cuộc sống đời này, gây ảnh hưởng như thế nào; chúng ta cũng hiểu tại sao
ý tưởng và các biểu tượng của cuộc sống vĩnh cửu lại thường xuyên xuất hiện nơi
các mộ phần của người Kitô hữu trong các hang toại đạo.
Nhưng điều gì đã xảy ra
với ý tưởng của Kitô giáo cho rằng linh hồn và thể xác được sống vĩnh cửu, một
khi nó chiến thắng quan niệm của ngoại giáo về "nơi tối tăm âm u sau khi
chết"? Chủ thuyết vô thần hiện nay khác với thế kỷ XIX. Vô thần hiện nay
chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, đang khi vô thần ở thế kỷ XIX chủ yếu phủ
nhận thế giới bên kia. Lấy lại lời tuyên bố của Hegel, theo đó “các Kitô hữu
phí phạm cho cõi trời những năng lực lẽ ra phải dành cho cõi đất”, Feuerbach,
và nhất là Marx, đã chiến đấu chống lại niềm tin vào một cuộc sống sau khi chết,
lấy lẽ niềm tin này làm cho người ta không còn dấn thân vào cuộc sống trần thế.
Thay thế cho ý tưởng về một cuộc sống của cá nhân tiếp tục tồn tại nơi Thiên
Chúa sau khi chết, người ta nghĩ sự sống ấy nối dài trong chủng loại hoặc trong
xã hội tương lai.
Dần dần cùng với sự nghi
ngờ, từ vĩnh cửu rơi vào quên lãng, không được nhắc đến nữa. Chủ thuyết duy vật
và chủ thuyết tiêu dùng đã làm phần còn lại trong các xã hội giầu có, đến mức chính
việc nói về vĩnh cửu giữa những người có học và sống với thời đại của họ dường
như không phù hợp.
Tất cả những điều đó có hậu
quả rõ ràng trên đức tin của các tín hữu, khiến cho niềm tin vào sự vĩnh cửu trở
nên rụt rè và miễn cưỡng. Bài giảng cuối cùng về đời sống vĩnh cửu, chúng ta đã
được nghe khi nào? Trong Kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tiếp tục tuyên xưng: “Tôi
trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, nhưng dường như không còn thấy những
lời đó là quan trọng. Kierkegaard đã có lý khi viết:
“Thế giới bên kia trở
thành trò cười, một đòi hỏi không chắc chắn, đến độ không ai còn tôn trọng nó nữa,
không ai muốn đối mặt với nó nữa, đến nỗi ngay cả nghĩ rằng đã có lúc ý tưởng về
đời sau làm biến đổi tất cả cuộc sống đời này, thì ý nghĩ ấy cũng khiến cho người
ta mỉm cười mà thôi[3]”.
Ý tưởng về vĩnh cửu lu mờ
đi như vậy đem lại hậu quả thực tế ra sao? Hậu quả ấy, thánh Phaolô coi là mục
tiêu của những ngươi không tin kẻ chết sống lại: “Chúng ta cứ ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết” (1Cr
15,32). Ước muốn tự nhiên được sống mãi bị biến dạng, trở thành ước muốn sống
cuộc đời này sao cho thỏa mãn, dù có gây thiệt hại cho người khác. Cả thế giới
giống như nước Ý mà thi sĩ Dante nói ở thời của ông: “Tiền bạc của thế gian làm
cho chúng ta thành dữ tợn”. Một khi chân trời vĩnh cửu biến mất, nỗi đau khổ của
con người xem ra vô lý gấp đôi, hết thuốc chữa.
3. Hoài niệm về vĩnh cửu
Về chủ thuyết duy tục
cũng như chủ thuyết duy khoa học, câu trả lời hữu hiệu nhất không phải là chống
đối sai lầm ngược lại, nhưng là làm cho người ta thấy rõ chắc chắn có đời sống
vĩnh cửu, bằng cách lợi dụng sức mạnh nội tại của chân lý, kèm theo chứng từ đời
sống. Một Giáo Phụ đã viết: “Người ta luôn có thể chống lại một tư tưởng bằng một
tư tưởng khác, một ý kiến bằng một ý kiến khác, nhưng có thể lấy gì để chống lại
một đời sống?”
Chúng ta cũng nên lợi dụng
trao đổi thư từ về một chân lý như thế bằng ước muốn sâu xa nhất của tâm hồn,
dù bị kìm nén. Một người bạn đã trách Miguel Unamuno (triết gia người Tây Ban
Nha) quá khao khát đời sống vĩnh cửu, gần như với một thái độ kiêu hãnh tự hào.
Tuy chắc chắn không phải là người bảo vệ đức tin, ông cũng đã trả lời trong một
lá thư:
“Tôi nói rằng điều đang
xẩy ra không làm cho tôi thỏa mãn, tôi khao khát vĩnh cửu, không có nó, tôi chẳng
thiết gì nữa. Tôi cần nó. Không có nó thì sống cũng chẳng vui vẻ gì, niềm vui
cuộc sống không có nghĩa gì cả. Thật quá dễ dãi khi nói : Phải sống, phải hài
lòng với cuộc sống. Thế những ai không hài lòng với nó thì sao[4]?”.
Cũng trong dịp này, tác
giả còn thêm : không phải người ao ước vĩnh cửu khinh chê thế giới và cuộc sống
trần gian này, ngược lại, chính người không ao ước mới khinh chê. “Tôi yêu cuộc
sống đến nỗi mất nó chính là điều xấu xa nhất. Những ai yêu cuộc sống mà không
quan tâm xem có bao giờ mình sẽ vĩnh viễn mất nó hay không, chính những người ấy
mới không yêu cuộc sống”. Thánh Augustinô cũng không nói khác hơn: “Cui non datur semper vivere, quid prodest
bene vivere[5]?” (Sống tốt thì ích lợi gì nếu nó không
đưa tới sự sống vĩnh cửu?). Một thi sĩ người Ý đã ca lên: “Mọi sự ở đời đều là
hư không, trừ ra sự vĩnh cửu[6]”.
Những người nào ở thời đại hôm nay cảm thấy nhu cầu về sự sống vĩnh cửu, nhưng
lại không có can đảm thú nhận với người khác, chúng ta có thể nói với họ bằng
những lời của Phaolô nói với dân Athêna: “Điều
quý vị không biết…tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17,23).
Câu trả lời của Kitô
giáo cho chủ thuyết duy tục, theo nghĩa chúng ta đang nói đây, không dựa trên
tư tưởng triết học như Platô, tức dựa trên sự bất tử của linh hồn, nhưng trên một
sự kiện. Thời thế kỷ Khai sáng, người ta đặt ra vấn đề nổi tiếng là: làm thế
nào để đạt tới vĩnh cửu, trong khi chúng ta đang ở trong thời gian, và làm thế
nào để đưa ra một khởi điểm lịch sử cho một ý thức vĩnh cửu[7].
Nói cách khác: làm sao người ta có thể biện minh cho yêu sách của đức tin Kitô
giáo là hứa hẹn một cuộc sống vĩnh cửu và đe dọa một hình phạt cũng vĩnh cửu, về
những việc đã làm trong thời gian?
Giải đáp duy nhất có giá
trị cho vấn đề dựa trên niềm tin vào sự Nhập Thể của Thiên Chúa. Trong Đức
Giêsu Kitô, vĩnh cửu đã đi vào thời gian, được tỏ bầy trong xác phàm. Trước sự
hiện diện của Ngài, người ta có thể có một quyết định liên hệ đến sự sống đời đời.
Chính như vậy mà thánh sử Gioan đã nói về sự sống đời đời: “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời,
sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bầy cho chúng tôi” (1Ga
1,2).
4. Vĩnh cửu, một hy vọng và một sự hiện diện
Đối với người tín hữu,
vĩnh cửu, như người ta thấy, không chỉ là một hy vọng, mà còn là điều đang có
trong hiện tại. Chúng ta cảm nghiệm được điều này, mỗi lần chúng ta làm một
hành vi tin thực sự vào Đức Kitô, vì ai tin vào Ngài thì “có sự sống đời đời” (1Ga 5,13); mỗi lần chúng ta rước lễ, trong đó
chúng ta “được ban bảo chứng về vinh quang mai hậu” (futurae gloriae nobis pignus datur); mỗi lần chúng ta nghe lời Phúc
Âm, là lời “đem lại sự sống đời đời”
(Ga 6,68). Thánh Tôma cũng nói rằng “ân sủng là khởi đầu của vinh quang[8]”.
Sự hiện diện của vĩnh cửu
trong thời gian được gọi là Chúa Thánh Thần, Người là “bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Ep 1,14 ; 2Cr 5,5), đã được
ban cho ta, để khi nhận được những của đầu mùa, chúng ta khát vọng sự viên mãn.
Thánh Augustinô viết:
“Đức Kitô đã ban cho ta
bảo chứng của Chúa Thánh Thần, qua đó, chính Ngài, Đấng không thể lừa dối ta,
đã muốn bảo đảm cho ta là lời Ngài hứa sẽ được thực hiện. Ngài đã hứa gì? Hứa sự
sống đời đời, mà Chúa Thánh Thần, Đấng Ngài ban cho ta, là bảo chứng[9]”.
Giữa đời sống đức tin ở
trần gian và đời sống vĩnh cửu có mối tương quan giống như giữa đời sống của
thai nhi trong lòng mẹ và đời sống của một đứa trẻ mới sinh. Cabasilas viết:
“Thế giới này sinh ra con
người mới bên trong, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng, con người đã được nặn
đúc và có hình hài ở trần gian này, được sinh ra hoàn hảo cho một thế giới hoàn
hảo và mãi mãi tươi trẻ. Cũng như thiên nhiên chuẩn bị phôi thai, nằm trong tối
tăm, cho một đời sống trong ánh sáng, cũng vậy là đời sống các thánh.[…] Tuy
nhiên, đối với phôi thai, sự sống tương lai tuyệt đối ở tương lai, không có ánh
sáng nào chiếu tới nó, không có gì của cuộc đời này đến với nó. Đối với chúng
ta thì không như vậy, vì thời tương lai đã như đảo ngược và hòa lẫn vào thời hiện
tại. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ, các thánh không những chuẩn bị sống, nhưng
là đang sống và hành động trong cuộc sống này[10]”.
Một câu chuyện nhỏ sẽ
minh họa cho sự so sánh này. Có hai anh em sinh đôi, một nam, một nữ, rất thông
minh và khôn sớm, đến độ khi còn trong bụng mẹ, chúng đã nói chuyện với nhau. Bé
gái hỏi bé trai: "Theo anh thì có một cuộc sống sau khi sinh ra không?".
Bé trai trả lời: "Đừng nói chuyện buồn cười như vậy. Điều gì khiến em nghĩ
có gì đó bên ngoài không gian chật chội và tăm tối này nơi chúng ta đang ở?"
Lấy hết can đảm, bé gái nhấn mạnh: "Ai mà biết được, có lẽ có một người mẹ,
tóm lại một ai đó đã đặt chúng ta ở đây và sẽ chăm sóc chúng ta chăng?" Bé
trai: "Em có thấy một người mẹ ở đâu đó không? Những gì em thấy là tất cả
những gì có". Bé gái lại hỏi: "Đôi khi, cả anh nữa, anh không cảm thấy
như một áp lực đè lên lồng ngực tăng lên từng ngày và thúc đẩy chúng ta tiến tới
sao?”. Bé trai trả lời: “Nghĩ cho kỹ, đó là sự thật; lúc nào anh cũng cảm thấy thế”.
Bé gái kết luận một cách đắc thắng: “Anh thấy đấy, nỗi đau này không thể là vô ích.
Em nghĩ nó chuẩn bị cho chúng ta một thứ gì đó lớn hơn không gian nhỏ bé của
chúng ta”. Chúng ta có thể sử dụng câu chuyện nhỏ đáng yêu này, khi chúng ta muốn
công bố sự sống vĩnh cửu cho những người không còn tin vào nó, trong khi vẫn nhớ
về nó và có lẽ đang chờ đợi Giáo Hội, như bé gái kia, giúp họ ý thức về mong muốn
của họ.
5. Ta là ai? Ta từ đâu đến? Ta đi đâu?
Có những câu hỏi mà con
người, xưa cũng như nay, chẳng trừ ai, không ngừng đặt ra cho mình : Ta là ai?
Ta từ đâu đến? Ta đi đâu?
Trong cuốn Historia ecclesiastica Anglorum (Lịch sử
Giáo Hội Anh quốc), thánh Bêđa Đáng Kính thuật chuyện đức tin Kitô giáo đã được
truyền vào miền Bắc nước Anh như thế nào. Khi các thừa sai từ Rôma đến vùng
Northumberland, vua Edwin đã triệu tập hội đồng các quan chức cao cấp để quyết
định xem có nên cho phép phổ biến sứ điệp mới hay không. Một cận thần lên tiếng:
“Tâu bệ hạ, xin bệ hạ
hình dung cảnh tượng này: bệ hạ đang dùng bữa với các quan chức cao cấp. Thời
tiết đang là mùa đông, căn phòng có lửa sưởi ấm, trong khi bên ngoài bão thổi và
tuyết rơi. Bỗng có một con chim nhỏ chui qua lỗ trên tường vào phòng, rồi lại
ra khỏi phòng qua một lỗ khác. Khi còn ở trong phòng, nó được bảo vệ khỏi cơn
bão mùa đông, nhưng sau một lúc sưởi ấm, nó lại bay đi, mất hút trong bóng tối
mùa đông. Đời sống con người trên trái đất cũng giống như thế. Chúng ta hoàn
toàn không biết điều sẽ xẩy ra hay đã xẩy ra. Nếu giáo thuyết mới này mang lại
cho chúng ta điều gì đó bảo đảm hơn điều ấy, thần cho rằng cần đón nhận nó”.
Ai mà biết được! Có thể
đức tin Kitô giáo rồi ra sẽ trở lại trên nước Anh và lục địa châu Âu, vì cùng một
lý do đã khiến nó du nhập vào đây, đó là: chỉ đức tin mới có câu trả lời bảo đảm
cho những vấn nạn quan trọng của cuộc đời trần gian. Cơ hội thuận tiện nhất
giúp cho người ta đón nhận sứ điệp này là dịp an táng. Dự nghi lễ an táng thì
ít chia trí hơn dự những nghi lễ khác, rửa tội hay hôn phối chẳng hạn. Đây
chính là dịp cho người ta tự vấn về số phận của mình. Khi khóc cho một người
thân, người ta cũng khóc cho chính mình. Nhân cái chết của mẹ mình là Monica,
Augustinô viết: “Con khóc thương số phận của bà và cho bà, khóc thương số phận
của con và cho con[11]”.
Có hôm tôi nghe đài BBC
phát thanh trực tiếp một nghi thức an táng “phần đời” hoặc “mang tính nhân văn”.
Vào một lúc định sẵn, người chủ sự nói với các người tham dự: “Chúng ta không
nên buồn. Sống một cuộc đời tốt đẹp trong 70 năm như người quá cố đây, quả là một
điều gì đó mà chúng ta phải mang ơn”. Tôi tự hỏi không biết phải mang ơn ai. Loại
nghi thức an táng này cho thấy rõ sự thất bại hoàn toàn của con người trước cái
chết.
Cơ hội rao giảng Phúc Âm
lúc an táng có thể bị phung phí theo hai cách, hoặc vì thừa tác viên của Giáo Hội
thiếu ý thức đích thực về nhân đạo giúp cho người ta quan tâm đến người chết, xót
thương nỗi đau buồn của từng người, như Đức Giêsu đã làm; hoặc vì người ta
không vượt quá lề thói của con người, không có can đảm loan tin quan trọng là Đức
Giêsu đã chiến thắng sự chết.
Hồng Y Newman giúp chúng
ta bổ túc suy tư của chúng ta bằng cách thêm vào một chân lý cho tới lúc đó bị
bỏ qua, bằng một bài thơ nhỏ “Giấc mơ của Géronte”, được nhạc sĩ lớn người Anh
là Edward Elgard phổ nhạc. Đây là một tuyệt phẩm có tư tưởng sâu sắc, có cảm hứng
trữ tình và cường độ phụng vụ và kịch tính.
Ngài mô tả giấc mơ của một
người cao niên biết mình sắp chết, và người ta hiểu người mơ là chính Newman, ở
một giai đoạn đặc biệt của cuộc đời. Chồng lên trên những suy nghĩ của ngài về
ý nghĩa của sự sống, sự chết, về vực thẳm của hư vô mà ngài đang rơi vào đó, là
những lời bàn tán của các người tham dự, lời cầu
nguyện của Giáo Hội: “Hỡi linh hồn người Kitô hữu, hãy ra khỏi đời này” (proficiscere,
anima christiana), những tiếng nói mâu thuẫn nhau của thiên thần
và ác quỷ cân nhắc cuộc đời của ngài và đòi bắt linh hồn ngài. Việc mô tả lúc
chết từ thời gian tới vĩnh cửu được thực hiện nhờ những hình ảnh rất có ý
nghĩa:
Tôi cảm thấy trong tôi một
sự nhẹ nhàng khôn tả và một ý thức về sự tự do,
như thể cuối cùng tôi được
là chính tôi
và trước đây tôi đã chưa
bao giờ như thế.
Bình lặng biết bao!
Tôi không còn nghe thấy
tiếng đập không yên của thời gian,
Không còn nghe thấy hơi
thở hổn hển của tôi cũng như những nhịp đập mạnh mẽ của tôi,
và một khoảnh khắc không
khác với lúc xa lánh nó[12]!”
Những lời cuối cùng mà
linh hồn nói trong bài thơ là những lời mà linh hồn nói khi tiến về hướng Luyện
ngục, lòng thanh thản và gần như bất nhẫn:
Ở đó, con sẽ ca tụng
Chúa vắng mặt của con và Tình Yêu của con:
Xin đưa con đi,
để con có thể sớm đứng dậy
và đi lên,
và thấy Người trong sự
thật của ngày dài vô tận[13]!"
Đối với hoàng đế
Hadrianô, chết là đi từ thực tại tới bóng tối; còn đối với Kitô hữu Newman, là
từ bóng tối tới thực tại, ex umbris et
imaginibus in veritatem (từ bóng tối và hình ảnh tới chân lý), câu mà ngài
muốn được khắc trên mộ của ngài.
Vậy đâu là sự thật mà
Newman kêu gọi chúng ta đừng im lặng? Đó là con đường vượt qua từ thời gian tới
vĩnh cửu không thẳng và bằng nhau cho mọi người. Phải đối mặt với một sự phán
xét, vốn có thể có hai kết quả rất khác nhau, địa ngục hoặc thiên đường. Linh đạo
của Newman là một linh đạo khắc khổ, đôi khi thậm chí là một linh đạo thuộc trường
phái nghiêm nhặt (rigoriste), giống như linh đạo Dies irae (“Ngày thịnh nộ”; hai chữ đầu của bài Ca tiếp liên Thánh
lễ an táng). Linh hồn của Géronte nói với thiên thần bản mệnh:
“Trong suốt cuộc đời trần
thế của tôi, ý nghĩ về cái chết và sự phán xét là điều khá khủng khiếp đối với
tôi, vì tôi đã luôn thấy nó và đã thấy vị Thẩm Phán nghiêm khắc ngay cả nơi Đấng
Bị Đóng Đinh”.
Nhưng lời nhắc nhở này
có ích như thế nào vào thời mà người ta có xu hướng coi nhẹ mọi thứ và đùa cợt khi
nghĩ về vĩnh cửu, như Kierkegaard nói.
Trong thế giới phương
Tây tục hóa của chúng ta, một số người tin rằng sự tái đầu thai (réincarnation)
đem lại một cách thoát khỏi sự nghiêm trọng khủng khiếp của sự sống và cái chết,
nhưng học thuyết này không phù hợp với đức tin Kitô giáo về sự phục sinh. Và
trên hết, cách mà sự tái đầu thai được diễn tả trong văn hóa của chúng ta là kết
quả của một sự hiểu lầm nghiêm trọng. Trong bối cảnh nguyên thủy khi học thuyết
này ra đời và tiếp tục được giảng dạy, nó không được hiểu như một phương tiện để
tận hưởng cuộc sống lâu hơn, nhưng là kéo dài sự đau khổ. Nó không phải là lý
do an ủi nhưng sợ hãi. Nó là một mối đe dọa và một sự trừng phạt. Nó giống như
nói với một tù nhân gần mãn hạn tù rằng bản án đã được làm lại và anh ta phải khởi
sự lại từ đầu. Người ta đã điều chỉnh học thuyết về sự tái đầu thai cho phù hợp
với não trạng duy khoái lạc và duy vật của phương Tây, và như vậy biến nó trở thành
một cái gì đó khác biệt tận căn. Kinh Thánh nghiêm túc cảnh báo chúng ta:
"Phận con người là phải chết một lần,
rồi sau đó chịu phán xét" (Dt 9,27)."
Ngay cả từ sự độc nhất của
cuộc sống con người, không may người ta có thể rút ra một kết luận hoàn toàn
trái ngược với kết luận của đức tin Kitô giáo. Kết luận này đã được phổ biến
trong cuốn tiểu thuyết "L’insoutenable
légèreté de l’être” (Sự coi nhẹ hữu thể không đương nổi) của nhà văn Milan
Kundera người Séc. Dựa trên câu tục ngữ Đức einmal
keinmal, theo đó những gì chỉ xảy ra một lần thì coi như chưa bao giờ xảy
ra, tác giả khẳng định "trọng lượng" của cuộc sống con người hoàn
toàn thiếu vắng, giống như một điều gì đó sẽ không bao giờ có thể tưởng tượng
được. Không có kiếp trước để học hỏi hay kiếp sau để sửa chữa, những lựa chọn
mà chúng ta đề ra dường như vô nghĩa - do đó mà chúng bị "coi nhẹ"; điều
đó làm cho việc cố gắng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chính là một nỗ lực
"không đương nổi".
Ngược lại, trong đức tin
Kitô giáo, chính sự kiện chỉ sống một lần mang lại cho cuộc sống con người “độ
đặc” (“consistance”) và sức nặng phi thường của nó! Đúng là chúng ta không có
kiếp trước để học hỏi và không có kiếp sau trên trái đất để sửa chữa, nhưng
chúng ta có rất nhiều thứ giúp chúng ta học cách sống, chẳng hạn luật tự nhiên,
kinh nghiệm của những người khác, kinh nghiệm cá nhân của chúng ta (cuộc sống
không chỉ kéo dài một ngày!). Đối với những ai tin, còn có lời Chúa và trên hết
là cuộc đời của một người như chúng ta, Đức Giêsu Nagiarét.
6. Chúng ta hãy đi về nhà Chúa
Tin đời sống vĩnh cửu, với
một sức mạnh mới, không những cần thiết cho việc Phúc Âm hóa, tức là loan báo Phúc
Âm cho người khác, nhưng tiên vàn cho việc tạo một đà tiến mới giúp cho hành
trình của chúng ta hướng tới sự thánh thiện. Sự suy sụt của ý tưởng về đời sống
vĩnh cửu cũng tác động lên các tín hữu, làm giảm khả năng can đảm đối mặt với
những đau khổ và thử thách của cuộc đời. Chúng ta đã đánh mất thói quen của thánh
Bênađô và thánh Ignatiô Loyola, là tự hỏi bản thân khi đối mặt với bất kỳ tình
huống nào: Quid hoc ad aeternitatem?
"Cái này liên quan gì đến vĩnh cửu?"
Lấy ví dụ về một người cầm
cân trong tay, những chiếc cân này được cầm bằng một tay và một mặt có khay để
đặt vật cần cân và mặt kia có vạch chia độ đỡ quả cân. Nếu quả cân rơi xuống đất
hoặc bị mất, tất cả những thứ người ta đặt trên khay sẽ làm cần nhấc lên và cân
nghiêng xuống. Bất cứ cái gì cũng thắng, dù chỉ một nhúm lông.
Đó là điều xẩy ra khi
chúng ta mất đối trọng, mất cái đo lường mọi sự là vĩnh cửu: những sự việc và
đau khổ ở trần gian dễ dàng ném linh hồn chúng ta xuống đất. Tất cả dường như
quá nặng đối với chúng ta. Đức Giêsu nói:
“Nếu tay anh hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném
đi. Thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai
chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc
mà ném đi, thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị
ném vào lửa hỏa ngục” (Mt 18,8-9).
Nhưng khi không còn nhìn
đến vĩnh cửu, chúng ta coi là quá đáng khi người ta đòi chúng ta nhắm mắt trước
một cảnh tượng vô luân.
Thánh Phaolô dám viết rằng:
“Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho
chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không
chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy,
những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời,
còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2Cr 4,17-18).
Sức nặng của gian truân
thì nhẹ nhàng, vì nó chỉ tạm thời, còn sức nặng của vinh quang thì vô hạn, vì
nó vĩnh cửu. Chính vì thế, cũng thánh Tông Đồ có thể quả quyết: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng
ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi
chúng ta” (Rm 8,18).
Trong bộ Thánh vịnh Do
thái giáo, có một nhóm Thánh vịnh được gọi là “những Thánh vịnh lên đền” hoặc
“những bài ca Sion”. Đây là những Thánh vịnh ca ngợi người Do thái hành hương
lên thành thánh Giêrusalem. Một trong số Thánh vịnh đó bắt đầu bằng câu: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi : ta cùng
trẩy lên đền thánh Chúa” (Tv 122/121,1). Từ đây, những Thánh vịnh này thuộc
về những người, trong Giáo hội, đang tiến về Giêrusalem thiên quốc. Chính là những
Thánh vịnh của chúng ta.
Khi chú giải những lời đầu
tiên của Thánh vịnh trên, thánh Augustinô nói với các tín hữu:
“Chúng ta chạy, vì sẽ đi
về nhà Chúa; chúng ta chạy, vì cuộc chạy này không làm chúng ta nhọc mệt, và
đích điểm cũng không có nhọc mệt. Chúng ta chạy đến nhà Chúa, và linh hồn chúng
ta vui mừng vì những người thấy quê trời trước chúng ta, và đang lặp lại cho ta
những lời ấy. Quả thực, các Tông Đồ đã thấy nó và nói với chúng ta: Anh em hãy
chạy đi, hãy mau lên, hãy theo chúng tôi. Nào chúng ta hãy đi về nhà Chúa[14].”
Đối mặt với mọi khó khăn
và vấn đề, chúng ta hãy cùng với thánh Bênađô lặp lại câu: Quid hoc aeternitatem? (Điều này liên quan gì đến vĩnh cửu?).
[1]
Ubicumque et semper, art. 2,
septembre 2010.
[2]
X. M. Pohlenz, L’uomo greco,
Firenze 1967, p. 173s.
[3]
S. Kierkegaard, Note finale, 4, in Oeuvres
Complètes, L’Orante, Paris 1966-1984.
[4] Miguel de Unamuno, Cartas inéditas de Miguel de Unamuno y Pedro Jiménez Ilundain, éd.
Hernan Benitez, Revista de la Universidad de Buenos Aires, vol. 3, no 9
(janvier-mars 1949), pp. 135. 150.
[5]
Augustinô, Traité sur l’évangile
de Jean XLV, 2 (PL 35, 1720).
[6]
Antonio Fogazzaro, “A Sera” in Le
poesie, Milano, Mondadori, 1935, p. 194-197.
[7]
G.E. Lessing, Uber den Beweis des Geistes und der Kraft, ed. Lachmann,
X, p. 36.
[8]
Tôma Aquinô, Somma teologica,
II-IIae, q. 24, art.3, ad 2.
[9] Augustinô, Sermon
CCCLXXVIII, 1 (PL 39, 1673).
[10]
N. Cabasilas, La vie en Christ,
SCh 355, 361, Le Cerf, Paris 1943.
[11] Augustinô, Confessions,
XII, 33.
[12]
J.H.Newman, Le songe de Géronte, Ed. L’âge d’homme – Le bruit du temps,
Paris 1989.
[13]
Ibid.
[14]
Augustinô, Enarrationes in Psalmos
CXXI, 2.