Sám Hối và Hoà Giải
Tối hôm qua, con thấy
hàng giáo sĩ của Huế nghiêm túc đi xưng tội. Điều đó gợi nhớ cho con Ngày Năm
Thánh Giám Mục ở Rôma năm 2000. Có sáu giám mục Việt Nam được đề cử đi dự.
Chừng hai nghìn rưỡi giám mục khắp nơi trên thế giới đi viếng Vương Cung Thánh
Đường Thánh Phêrô. Các giám mục, với phẩm phục đầy đủ, mũ đỏ, băng đỏ, chen
chúc nhau vào trong các toà giải tội. Điều nầy gây xúc động bởi vì các vị lãnh
đạo Giáo Hội trên thế giới đã làm một gương tốt. Cũng như tối hôm qua, hàng giáo
sĩ Huế đã xét mình, và không bỏ sót một điều khoản nào trong bản xét mình nầy,
trước khi đi vào toà xưng tội.
Hôm nay, chúng ta suy
niệm về vấn đề “Sám Hối và Hoà Giải ”.
Thật là một thiếu sót
lớn, nếu trong cuộc cấm phòng mà không quyết tâm đổi đời, không quyết tâm điều
chỉnh nếp sống quá khứ và không muốn kết hợp mật thiết với Chúa ngày càng hơn.
Muốn thực hiện được mục đích hoán cải tâm hồn, đổi mới đời sống, mến Chúa và
yêu anh chị em nồng thắm hơn, chúng ta phải nghĩ trước tiên đến việc ăn năn đền
tội. Hay nói cách khác, chúng ta phải suy niệm về bí tích hòa giải, ăn năn sám
hối, để cảm nghiệm lòng thương xót vô bờ của Chúa, xưng thú mọi lỗi lầm, mọi
đớn hèn của mình hầu xin Chúa đổ tràn ơn Ngài xuống cho chúng ta, để trong
tương lai, trong những ngày sắp tới, chúng ta phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân
hữu hiệu hơn.
Toàn thể Kinh Thánh kêu
gọi sự trở về, sự hoán cải tâm hồn và muốn cho con người trung thành với Tình
Yêu Thiên Chúa. Hầu hết các tiên tri đều kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa
Yavê. Rồi gần đến giờ cứu rỗi của Chúa G, tiếng kêu gọi này trở nên cấp bách:
Thánh Gioan Tiền Hô rao giảng: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần
đến”. Chúa Giêsu khi rao giảng, câu đầu tiên thốt từ miệng Ngài cũng không
là gì khác hơn: “Hãy ăn năn thống hối và tin vào Phúc Âm”. Như vậy, việc
ăn năn thống hối, giao hòa với Thiên Chúa, với tha nhân, với Giáo hội là điều
tối quan trọng, nó không miễn trừ ai, kể cả các linh mục.
Chúng ta biết thiên
tình sử giữa Thiên Chúa và loài người viết lên những trang lâm ly bi đát. Thiên
Chúa là tình yêu, như thánh Gioan đã miêu tả, và vì yêu mà Thiên Chúa đã tạo
dựng con người, đã thương ban cho con người tất cả những ân sủng của Ngài.
Thiên Chúa đã muốn kết hôn với loài người. Nhưng con người đã nhiều lần phụ bạc
tình Chúa, đã phạm tội, trong số các tội nhân đó, có chúng ta.
Tội là gì ? Ở đây chúng
ta chỉ đề cập đến tội trọng, tội nặng. Tội trọng là những tội cắt đứt liên lạc
giữa con người và Thiên Chúa, là thái độ của một người bạn ngoại tình, của một
đứa con đãng tử đạp cửa ra đi trước sự đau xót và sững sờ của Cha già. Đó là
tội gây chết chóc, đổ vỡ, tan nát. Với ý thức và tự do, con người đã quay lưng
lại Chúa Nguồn sống, để lao đầu vào vực thẳm tuyệt vọng. Tội nặng làm cho con
người mất liên lạc với nguồn sống mình là Thiên Chúa, như nhành cây lìa khỏi
thân cây, trở nên khô héo, như chiếc đèn điện bị đứt cầu chì, không có dòng
điện qua lại, trở nên vô dụng vì không chiếu sáng. Đang là con cái Chúa, tội
nhân trở thành nô lệ cho ma quỷ.
Tội là một thực tại tai
hại và xấu xa như thế, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn luôn khoan dung nhân hậu.
Ngài đã bộc lộ tình Ngài trong Kinh Thánh, nơi Người con của Ngài là Chúa Giêsu
Chúa chúng ta. Ngài xót thương kẻ có tội, Ngài đưa má phải cho người vả má
trái. Ngài sẵn sàng tha 70 lần 7, nghĩa là tha luôn. Đứa con đãng tử đã được
tha ngay từ lúc nó bước chân ra khỏi cửa, được tha ngay khi nó phung phí tiền
của do mồ hôi nước mắt chà già làm ra, bỡi lẽ nó được Cha yêu thương và mong
đợi. Con chiên lạc đã được yêu mến ngay trong khi nó đi hoang, vì chủ chăn nhân
lành đã bỏ các chiên khác để lo ngày lo đêm đi tìm nó, và khi đã tìm gặp, vui
mừng vác nó trên vai và đem về ràn. Nói cách khác, Chúa yêu thương con người vô
điều kiện, Ngài yêu dẫu không được yêu lại, đó là ý nghĩa tròn đầy của tiếng ân
sủng, một tình yêu nhưng không. Ngài còn yêu bỡi vì Ngài không được yêu, đó là
cả một tấm lòng mà người ta gọi là ái tuất. Lý do nào khiến cho Ngài yêu chúng
ta đến như điên như dại ? Không có lý do nào khác ngoài lòng tốt vô biên của
Ngài. Ngài đã cho mưa sa, chiếu nắng ấm trên cánh đồng những kẻ nói phạm thượng
cũng như trên thửa vườn của các chị dòng kín. Ngài không là người chồng lựa
chọn vợ yêu thương mình, rồi chê bỏ vì vợ bất trung, rồi đem lòng tha thứ vì
thấy vợ ăn năn hối cải. Không, tình yêu của Ngài không phải là sự đáp trả,
không phải là một tiếng dội đơn thuần của một tình yêu khác, mà là một sáng
kiến, một sự tỏ tình luôn đi nước trước như thánh Gioan đã viết: “Thiên Chúa
yêu thương chúng ta trước”. Ngài chẳng những yêu thương, mà còn luôn tha thứ,
dẫu người yêu của Ngài thế nào đi nữa.
Chính con người, chính
chúng ta mới là những kẻ thay lòng đổi dạ, mới là những kẻ thất nghĩa bất
trung. Yêu thương rồi ghét bỏ, cho rồi lấy lại, hứa rồi nuốt lời. Nhận tiếng
“xin vâng” lúc được rửa tội rồi thay đổi thái độ, rồi bỏ cuộc, rồi gây đổ vỡ,
rồi đi hoang do tội phạm mà chúng ta gọi là tội nặng.
Thiên Chúa luôn luôn bỏ
cửa ngõ trống để ta trở về. Ngài không đóng sầm chốt cửa trước đứa con đi
hoang, trước người tình phụ đi theo tiếng gọi tình yêu bất chính. Hằng ngày,
Ngài ra trước cửa để ngóng chờ, luôn ở trong tư thế thứ tha, đón nhận. Để tha
thứ, chỉ cần có một bên là đủ, nhưng muốn hòa giải, phải có hai bên. Đồng tiền,
con chiên, là những vật không có lý trí và tự do, người chủ phải đi tìm, nhưng
đứa con, có ý thức, cha già đành phải đợi để đứa con trở lại.
Và một ngày kia, đứa
con đãng tử đã trở về. Luca viết: “Khi đứa con còn ở xa xa, thấy nó, người cha
động lòng thương, ông chạy đến ôm chầm lấy nó và hôn nó một hồi lâu.” Chính Đức
Kitô đã thay Chúa Cha nói lên dụ ngôn này.
Hòa giải với Chúa là
một điều dĩ nhiên, nhưng tại sao lại phải hòa giải với anh em ? Làm sao hòa
giải với Chúa, làm sao trở về nhà cha mà không hòa giải với những người con của
Ngài ? Thánh Phaolô khuyên dạy: “Tôi khuyên anh em trong Thiên Chúa hãy phối
hợp đời sống của anh em theo tiếng gọi mà anh em đã lãnh nhận. Trong hết sức
khiêm nhường và hiền dịu, với sự nhẫn nại, hãy chịu đựng lẫn nhau trong tình
mến, hãy cố giữ sự hiệp nhất tâm trí do dây an bình, chỉ có một thân thể và một
tinh thần, cũng như ơn gọi anh em kêu mời anh em đến cùng một niềm cậy trông
duy nhất” (Eph. 4,1-4).
Thiên Chúa muốn chúng
ta yêu mến Ngài, đồng thời cũng muốn chúng ta yêu thương nhau, do đó khi nào ta
phạm tội nghịch với Chúa, thì ta cũng làm tổn thương anh em. Cho nên một khi
hòa giải, chúng ta phải hòa giải không những với Chúa, mà còn với tha nhân và
với chính mình nữa.
Nhưng cành cây gãy lìa
thân, khô héo, không thể tự mình ghép vào thân cây được, cầu chì đứt, không thể
tự nó nối lại được, phải nhờ một người khác, một bác làm vườn hay một thợ điện
chẳng hạn. Cũng thế, ngoài Chúa Cứu Thế ra, không ai có thể giúp chúng ta giao
hòa với Thiên Chúa, nối lại nhịp cầu đã đổ vỡ được. Chúa Giêsu giúp chúng ta
cách nào ? Hãy lần giở Kinh Thánh.
Gioan Tẩy Giả, theo
tinh thần của đạo cũ, đã ngăm đe những tội nhân tuôn đến cùng ngài trên bờ sông
Hòa giang. Ngài mắng họ: “Hỡi loài rắn độc, cơn thịnh nộ của Chúa hòng trút
xuống trên các ngươi, cái rìu đã đặt kề gốc cây”... Nhưng lạ thay, trong
nhóm tội nhân hôm đó, Gioan kinh ngạc thấy có Chúa Giêsu ở giữa. Ngài cũng
xuống sông xin Gioan làm phép rửa. Để tránh sự ngộ nhận. Gioan đã vội giảng
giải: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Gioan muốn nói Chúa
là Đấng vô tội, nhưng Ngài đành hy sinh hòa mình trong đám tội nhân để lãnh
phép rửa thống hối. Sau này, khi rao giảng Tin Mừng, Chúa cũng lập lại lời
Gioan: “Anh em hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã gần đến”, nhưng Ngài
bỏ mất câu chửi mắng của Gioan và cũng không nhắc lại lời ngăm đe trên kia, chỉ
thêm “Hãy tin vào Phúc Âm”. Thái độ khoan dung, cảm thông với những kẻ có tội
đã làm cho Gioan nghi ngờ lúng túng, không yên lòng, nên trong chốn lao lung,
nằm trong ngục thất, lo cho tương lai của nhân loại tội lỗi, Gioan đã sai các
môn đệ mình đi hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là đấng thiên hạ trông đợi hay
chúng tôi còn phải đợi đấng nào khác ?” Chúa Giêsu trấn an Gioan bằng cách mượn
lời tiên tri Isaia để trả lời: “Ngài đã sai tôi đi rao giảng tin mừng cho
người nghèo khó: đó là những người đui mù, điếc lác, què quặc, phung cùi, chết
chóc... Tất cả đều được nghe tin mừng, được chữa đã... Đó là những người tội
lỗi đáng thương được biểu trưng bằng những nỗi khốn cùng trong nhân loại” (Lc
8,18).
Chưa hết, hãy theo dõi
Chúa trên con đường rao giảng tin mừng. Matthêô tự thuật đời mình như sau: “Chúa
Giêsu thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, một Matthêô Lêvi nào đó” (Mt
9,9). Một nhân viên thuế vụ đang làm việc khai thác dân, là cộng sự viên đắc
lực của đế quốc La Mã, đang rình mò dân chúng qua lại để bóc lột, một người
đang bị bắt phạm tội quả tang mà không biết xấu hổ và không có chút ý muốn bỏ
cuộc.
Nhưng ông đã bỏ cuộc, ý
nghĩ bỏ cuộc do chính Chúa Giêsu gợi lên khi Ngài đi ngang qua đó. Chính Ngài
cũng đã gợi lên ý nghĩ bỏ cuộc đó cho người thiếu phụ xứ Samari, cho người đàn
bà ngoại tình, cho Maria Mađalêna, cho Giakêu, cho Phêrô và cho người trộm
lành.
Tại sao Chúa lại gợi
lên ý nghĩ bỏ cuộc, bỏ nghề bỉ ổi để đổi đời cho những người tội nhân trên,
những người đã hơn một lần làm mất lòng Chúa ? Bởi vì Chúa là hiện thân của
Thiên Chúa, nguồn tình yêu thương, bởi vì Chúa Giêsu chính là tình yêu nhập
thể.
Trước bàn giấy ghê tởm,
con người bị dân chúng oán ghét, bàn tay thọc vào bao bạc được thu tích cách
bất lương, người qua lại tránh né và như muốn bịt mũi bước nhanh nữa là khác,
thế mà Thiên Chúa lại gần. Cung cách của Ngài, cái nhìn của Ngài, bàn tay đon
đả giơ ra, tất cả đều là chiếu cố, là vồn vã, là yêu thương; tất cả là tha thứ
nhân danh Chúa và nhân danh nhân loại. Và đây, Ngài còn cất tiếng ngỏ lời với
người tội lỗi, cung giọng đầy tin tưởng, kính trọng, thân tình và mời gọi, ngắn
gọn nhưng chí tình: “Hãy theo Ta”.
Ai hiểu được lòng Chúa
yêu thương ? Ngài tha thứ là một việc tốt rồi, thế mà còn kêu gọi người có tội
theo Ngài ? Ngay cả Matthêô cũng không hiểu nổi. Ông kinh ngạc: Tiên tri Giêsu
biết ông, ngỏ lời với ông ngay trong lúc ông hành nghề bỉ ổi, ngay trong đớn
hèn của ông. Chúa đã muốn hiện diện trong đời ông, mặc dù ông đang dãy dụa
trong vũng bùn. Chúa đã muốn kéo ông ra, muốn lôi ông lên, ủy lạo, an ủi ông vì
ông đang bị mọi người phỉ nhổ, bị cộng đoàn Do Thái khai trừ, bị coi như là một
tên Do Thái gian, cấu kết với ngoại bang đế quốc để bóc lột dân. Trong lúc đó
chỉ có một mình Chúa cảm thông và đã cho ông biết Thiên Chúa yêu thương ông,
một con người bất xứng.
Lập tức dẹp nghề, xô
bàn ghế, đứng dậy đi theo Chúa dưới mắt căm phẩn của những người lành, họ bất
mãn vì sao Chúa lại như thế. Trước mắt đầy kinh ngạc của những người tội lỗi,
họ đâm bối rối và như vừa trải qua một giấc mộng, thật hay mơ đây.
Sau đó, là cả một đám
đông những người tội lỗi đổ xô đến với Chúa. Matthêô đãi tiệc tại nhà ông, bởi
vì Tin Mừng Tha Thứ đã nổ tung trong đời ông và trên thế giới. Chúa Giêsu ở
giữa, các tông đồ ngồi gần Chúa, vây quanh Ngài là cả đám tội nhân đủ cỡ, những
người cảm thấy mình được chiếu cố. “Người ta xưng thú lỗi lầm với nhau và
người ta tỏ lòng thống hối ăn năn với Chúa, người ta liên hoan vì Thiên Chúa đã
giao hòa chúng ta với Ngài qua Đức Giêsu Kytô” (2Cor 5,18).
Những người Pharisêu và
ký lục, những người tự coi mình là những người lành, tức tối, nên Chúa phải
giải thích: “Không phải những người khỏe mạnh cần thầy thuốc, nhưng những
người đau yếu. Tôi không đến để kêu gọi những người lành mà những người tội lỗi”
(Mc 2,13-17).
Nếu Chúa đã nếm lấy
những thất bại chua cay trong đời Ngài, đó chính là nơi những người tự xưng
mình là người lành của thời Ngài.
Cũng những người tự
xưng mình là đạo đức, ngay lành và công chính này, một ngày kia phẫn nộ đến
điên cuồng, đã lôi kéo đẩy xô một người đàn bà bị bắt phạm tội ngoại tình quả
tang, họ lôi bà ta đến cùng Chúa. Người đàn bà này đau khổ, xấu hổ rũ rượi vì
nhận biết tội lỗi của mình, chắc bà đang dọn mình chết, vì theo luật Do Thái,
người phụ nữ ngoại tình sẽ bị ném đá. Còn những ký lục và biệt phái cũng như đa
số dân chúng đã không ý thức về tội lỗi của họ. Để nhắc cho họ lắng nghe những
tiếng nói lương tâm, Chúa Giêsu cất tiếng: “Ai trong các ngươi thấy mình vô
tội, hãy ném đá người đàn bà này trước” (Ga 8,7).
Trong yên lặng, đột
nhiên Lời Chúa khai quang tâm trí mọi người, giúp cho mỗi người khám phá ra sự
cứng lòng của mình, sự xấu xa, đớn hèn, sự bất toàn bất túc của mình và ngay cả
sự đồng lõa phần nào thực sự và sâu đậm với tội ngoại tình của người đàn bà
này, vì biết đâu họ đã không tạo điều kiện để lành mạnh hóa xã hội, đã đưa
người đàn bà vào chỗ bế tắc, vào bước đường cùng, đành phải nuôi sống bằng cách
bất chính. ..
Và mỗi người hổ thẹn,
nhón gót rút lui êm thấm, và phúc âm gia lưu ý “những người già đi trước”.
Chúa hỏi người đàn bà “Không ai lên án chị sao ?” Lời này không phải trực tiếp
hỏi chị đàn bà, nhưng để công bố rằng giờ đây, mọi người đều ý thức thân phận
tội lỗi của mình, và thay vì làm quan tòa đoán xét, lên án, họ đã rút lui. Hành
động rút lui là hành động xưng thú lỗi lầm, tức họ cũng đã đứng về phía người
đàn bà tội lỗi.
Chỉ có một người vô tội
đó là Chúa Giêsu, nhưng Ngài cũng không lên án. Ngài nói với thiếu phụ “Không
ai lên án chị” và như vậy, không ai bị lên án cả, họ cũng không và chị cũng
không, bỡi vì tâm hồn của tất cả đều thay đổi. .. “Hãy về đi và từ nay đừng
phạm tội nữa”.
Thánh Gioan, người
thuật lại câu chuyện này, đã viết trong thư thứ nhất của Ngài: “Nếu ta tự
cho mình là người không có tội, chúng ta tự dối mình và sự thật không có trong
chúng ta. Nếu chúng ta xưng thú tội chúng ta, Thiên Chúa, Đấng trung tín và
thánh hóa, sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và sẽ rửa sạch chúng ta khỏi mọi tội lỗi”
(1,8-9). Và Ngài tiếp bằng những lời rất thân mật: “Hỡi các con yêu quý của
Cha, Cha cầu chúc các con đừng ai phạm tội, nhưng nếu có ai phạm tội, thì hãy
chạy đến cùng Thiên Chúa, qua Đấng binh đỡ, là Chúa Giêsu Kytô, Đấng công chính”
(2,1-2).
Như vậy giờ đây, chúng
ta đứng về phía nào, bên phía các biệt phái, ký lục hay bên phía tội nhân ?
Ngần ấy chứng từ trong Kinh Thánh đã quá đủ để chúng ta thấy lòng Chúa yêu
thương chúng ta bao la như thế nào, đủ để chúng ta thấy dù chúng ta đớn hèn đến
mức độ nào, Chúa cũng dũ lòng thương, với điều kiện chúng ta nhận và xưng thú
tội lỗi. Ngần ấy quá đủ để chúng ta phải biết cảm thông với những người có tội,
không làm bộ giả hình lên án gay gắt những người theo quan điểm của Chúa, là
đáng thương hơn đáng trách. Hãy khắc khe với chính mình, hãy yêu sách chính
mình, hãy thành thật với Chúa, hãy khiêm nhượng chấp nhận mọi yếu hèn và hãy
khoan dung với người khác. Đó là những bài học chúng ta rút tỉa từ những đoạn
Kinh thánh mà chúng ta vừa suy niệm trên.
Hay có người bảo rằng
đọc Kinh Thánh, chúng ta chỉ thấy lòng khoan nhân vô bờ của Thiên Chúa, còn thái
độ của con người thì đầy mặc cảm lặng yên ? Không, Matthêô đã bỏ nghề cũ để
theo Chúa, Maria Mađalêna đã đổi đời, Giakêu đã phạt tạ, đã chia xẻ gia sản
mình cho kẻ khó để đền tội, Phêrô đã khóc lóc suốt đời mình và đã dùng cái chết
treo lộn ngược đầu trên thập giá để minh chứng lòng trung kiên của mình, đồng
thời sửa chữa những lỗi lầm xưa.
Và đây, hãy xem tấm
gương thống hối của Đavit: Vua Đavit là một người chăn chiên, đã được Chúa chọn
làm vua Israel để thay thế Saul. Trong những ngày tháng vinh quang nhất đời
ông, ông vui hưởng cảnh giàu sang phú quý và trong chính khi hưởng nhiều ơn
Chúa như vậy, ông đã sa ngã phạm tội. Ông đã phạm hai tội. Tội thứ nhất là muốn
khoe khoang, muốn kiểm tra dân số để biết công lao của mình đã chinh phục được
bao nhiêu thần dân. Chúa đã sai tiên tri đến báo tin Chúa sẽ phạt tội kiêu ngạo
của ông bằng cách trong một ngày, cho thần tru diệt đến giết các con cái
Israel. Khi thấy người ta chết quá nhiều, Đavit đã xin Chúa thà giết ông đi còn
hơn là để cho thần dân của ông, những người vô tội, phải vạ lây khủng khiếp như
vậy. Trong khi chúng ta phạm tội, liên đới trách nhiệm vẫn có trong cộng đoàn,
trong xã hội của chúng ta, biết bao trẻ sơ sinh, biết bao người lành phải chịu
cảnh khốn cùng để đền tội thay cho chúng ta, nỡ nào chúng ta kéo dài cảnh sống
đau thương cho những người vô tội như vậy. Chưa hết, Đavit còn phạm một tội
khác tầy trời, đó là tội giết Uria, người Hittit, để sang đoạt Bersabê làm vợ.
Ông đã làm việc này với một mưu mô xảo quyệt, đến độ không ai hay biết và ông
tưởng rằng mọi sự đã qua, lương tâm cũng yên ngủ trong tội lỗi. Chúa sai tiên
tri Nathan đến nhắc cho vua biết nhà vua đã phạm tội như vậy. Đavit đã không
chối cãi, không biện minh, mà đã khiêm nhường cúi đầu xưng thú: “Quả thật
tôi đã phạm tội mất lòng Chúa” và ông đã ăn năn thống hối thảm thiết, sẳn
sàng nhận mọi hình phạt Chúa giáng xuống trong suốt cả đời mình. Chúng ta thán
phục phản ứng của Đavit trước lời khiển trách và hình phạt của Thiên Chúa giáng
xuống ông. Đọc lại thánh vịnh thứ 50, chúng ta thấy Đavit đơn sơ, khiêm tốn
trong thống hối sâu xa và vẫn không ngã lòng, một mực tin tưởng vào lòng lân
tuất vô biên của Chúa. Chính vì vậy mà ông đã xin cho đứa con ngoại tình của
ông khỏi chết. Chúa đã không thể nhượng bộ trước một sự dữ có tính cách xã hội.
Ngài phải cất đi gương xấu do Đavit gây ra, đứa con đã chết, nhưng Ngài cho
Salomon lên kế vị Đavit, Salomon sinh ra do Bersabê, người vợ cũ của Uria. Một
lần nữa, ta thấy lòng khoan dung của Thiên Chúa là kỳ diệu.
Đã đến lúc không còn lý
thuyết suông, hay tìm kiếm dài dòng trong văn tự, mà phải đi vào thực tế, vào
cụ thể. Hãy dành trọn thì giờ ngày hôm nay để xét mình lại, để kiểm điểm đời
sống, để ăn năn và xưng thú tội lỗi, để giao hòa với Chúa, với Giáo hội và với
anh em trong giáo phận. Quyết tâm sửa sai, đổi đời và dùng mọi biện pháp thích
ứng để phạt tạ những lỗi lầm trong quá khứ và cố gắng sống thánh thiện trong
tương lai.
Nhưng đối với các linh
mục, những người đang sống tình nghĩa với Chúa, sao lại đề cập đến tội lỗi?
Trong quyển tự thuật " Một Tâm Hồn" Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã
ghi chép hai sự kiện rất hợp để nói về ý nghĩa của tội: có lần cha chị gọi chị
lại, lúc ấy chị đang đánh đu, chị đã trả lời với cha: "Thì cha lại đây,
con đang bận". Cha chị làm thinh bỏ đi. Chị Pauline nói với em:
"Sao em vô phép với ba như thế ?" Lập tức, Têrêxa nhảy bổ xuống khỏi
đu, chạy theo cha, năn nỉ xin lỗi. Lần khác chị đang nằm trong giường, mẹ chị
vào phòng muốn hôn con, nhưng thấy con đang ngủ, sợ đánh thức con nên thôi. Chị
Pauline thấy vậy, thưa với mẹ: "Em nó làm bộ ngủ đó, nó đang thức".
Mẹ liền đến bên Têrêxa cúi xuống toan hôn nhưng Têrêxa kéo mền phủ kín và lùng
bùng: " Tôi không muốn cho ai hôn tôi hết". Mẹ chị buồn bỏ ra
đi. Chị Pauline lại một lần nữa dạy em. Chị nói với Têrêsa: " Em làm
như thế là có lỗi với mẹ" Têrêxa lập tức chạy xuống lầu, tìm mẹ van
nài xin lỗi mẹ. Như vậy, tội là khước từ tình Chúa thương ta, là không để Chúa
hôn mình bằng những cử chỉ yêu thương của Chúa, mà lại che lấp mình bằng một
lòng ích kỷ, tự mãn, kiêu căng.
Sau Công Đồng Vatican
II, Giáo Hội dạy thêm vào kinh Cáo Mình câu: "và những điều thiếu
sót". Tội to lớn nhất trong các tội là lỗi đức bác ái. Nhưng có nhiều
người không để ý đến tầm quan trọng của hậu quả lỗi phạm. Chúng ta hãy nghe câu
chuyện dân gian Na-uy sau đây có tựa đề là "Chiếc lưới":
Một bữa nọ, bác đánh cá
gọi con gái mình là Hatta và bảo: “Con hãy đan cho cha một chiếc lưới mới và
nhớ mỗi gút phải cẩn thận gút thật chặt, vì lưới cần phải chắc. Còn cha thì vô
rừng đốn cây để làm một chiếc thuyền đánh cá mới. Thật gay go khi phải làm một
chiếc thuyền chống chọi được với ba đào, lướt được sóng gió dãi dầu sương nắng.
Nhưng cha muốn có một tấm lưới to và mới để sau Noel, cha sẽ ra khơi với anh
con là Axel. Con hãy lợi dụng những ngày hè để đan cho xong lưới. Con hãy dùng
10 ngón tay thành thạo và dẻo dai, với đôi mắt sáng để đan lưới. Cha rất cần
chiếc lưới vừa mịn vừa chắc. Hãy đặt hết tâm hồn con trong việc đan lưới, một
chiếc lưới không sai chạy ”. Hatta đã vâng theo lời cha, bắt đầu đưa tay
đan lưới, nhưng hai mắt cô có lúc mơ màng theo dõi những cánh chim bay tận đâu
đâu. Trái tim cô lại càng đi xa hơn, xa tít mãi cõi mộng nào đó, đố ai mà biết
được. Mặc dầu lưới vẫn được đan, nhưng đã có một số mắt sai chạy, những mắt
lưới đã không thắt chặt, lại có những lỗi lầm sơ sót. Nhưng cô thầm nghĩ, đan
lưới bắt cá mòi chứ có bắt cá voi cá mập đâu mà sợ, như thế cũng quá đủ chắc
rồi. Làm chi mà gút chặt, đau tay lắm, làm vừa phải thôi...
Một chiều đông ảm đạm,
chiếc thuyền mới rời bến cùng với một tấm lưới mới. Trời tối như mực, tối khắp
vùng biển cả, tối luôn cả con tim. Hatta đứng trên bến ghe, theo dõi con thuyền
từ từ như một bóng ma rời bến, lướt ra khỏi cửa. Cô thở dài nghĩ thương cho cha
già từng ấy tuổi phải cực nhọc, cố gắng đan lưới, dâng chúc công khó của mình
tuy chưa đủ nhưng cũng là một niềm an ủi. Còn ông già đánh cá, trán rộng hiên
ngang, đương đầu với gió với sương mù, vai mang lưới nặng, lưới căng phồng niềm
hy vọng, ông bảo người con trai: “Hãy thắp trên cột buồm cao nhất, chiếc đèn
dầu cá thu, chịu đựng được gió to bão lớn, sáng tỏ trong sương mù. Hatta thấy
từ bờ xa, một ngôi sao đang múa nhảy, lấp lánh trong đêm. Như vậy nó sẽ biết,
vì bầu trời đen mực, rằng cha già đang lên tiếng cảm ơn”.
Ba ngày qua, ba ngày
thức suốt trong đêm đen, Axel la: “Cố lên các bạn, bắt cá mòi, cá nhiều lắm,
tôi thấy chúng bơi lội sáng rực trong đêm”. Vì quá vui mừng, Axel không kể
gì nguy hiểm, nghiêng mình quá thấp, ra khỏi thuyền, nên đã rơi tòm xuống biển.
Người cha già đang kéo lưới, nghĩ thầm, nó có xuống nước, nằm trong lưới, thì
chỉ ướt chút thôi, không hề gì, ta sẽ kéo nó lên, may quá, lưới của con gái
Hatta của lão, đan chắc, không sai chạy... Nhưng, bỗng tay ông lão đang cố kéo
sức nặng của con ông, vùng lên, rồi ông cảm thấy nhẹ tưng. Thôi lưới đứt, con
ông đã tuột khỏi lưới, qua những chỗ sơ hở Hatta đã đan.
Hatta không thấy anh
mình trở về, chỉ thấy cha già lưng còm và sầu muộn.
“Con ơi, con đã làm
gì cho anh con phải ra như vậy ?”
Đúng là câu Chúa hỏi
Cain trong cơn khủng hoảng. Hatta trả lời: “Con đâu có phải là kẻ giữ anh con
?” Ông lão nói: “Con nghe đây, nó rơi xuống biển nằm trong lưới con, cha cố vớt
lên, lưới đứt, nó đã chìm sâu trong đáy biển giữa đêm đen”.
Hatta rú lên một tiếng
hãi hùng. Cô ân hận: “Nếu tôi biết trước, tôi sẽ cố gắng tối đa đan lưới và
gút thật chặt. Tôi sẽ cẩn thận biết bao và đặt ở đó hết tình yêu thương...”
Ta nghe câu chuyện của
người đánh cá xứ Nauy, một non nước cách xa ta hàng vạn dặm, thế mà có một
tiếng dội thiêng liêng trong tâm hồn chúng ta. Biết bao lỗi lầm, biết bao điều
thiếu sót, hữu ý hay vô tình, mà ta đã làm thiệt hại người anh em chúng ta.
Tiếng người cha già có đập vào tai chúng ta hay không ? “Hatta, con hãy cố đan
lưới cho cẩn thận, gút thật chặt vào, vì cha cần lưới mới. Nhất là con hãy đặt
vào đó hết lòng con... một tấm lưới không sơ sót, không sai chạy”. Những ngày
qua, lạy Chúa, Chúa cũng nói với chúng con như vậy. Hãy làm việc với tất cả tâm
tình, sơ sót là lỗi bổn phận và có khi, hay nhiều khi, giết chết người anh em
chúng con. Hãy nhìn lên Chúa đã đốn gỗ, đã đẽo ra một chiếc thuyền mới, con
thuyền thập giá, với hơi thở của Thánh Linh, căng buồm ra khơi với tấm lưới mới
và chắc của chúng con. Liệu tấm lưới ấy có chắc thật không, có sơ sót không ?
Nhưng “Thưa Chúa, lưới chắc để làm gì ?” Con ơi, hãy tránh những lỗi lầm và
bỏ đi những mơ mộng viễn vông. Cha dùng lưới con để bắt các linh hồn đang đắm
chìm, cứu vớt những người anh em con đang chơi vơi...”. “Con hiểu rồi, Chúa ơi,
con sẽ cẩn thận hơn, sẽ đan lưới cuộc đời con bằng cả một niềm cẩn trọng và đặt
vào đó hết tâm tình”.
Đó thiết tưởng cũng là
điều dốc lòng của chúng ta trong kỳ phòng này.”
+ GM Phêrô Nguyễn Soạn
VietCatholic
News (28/02/2005)