BÍ TÍCH GIAO HÒA
ĐGM PHAOLÔ BÙI VĂN
ĐỌC
PHẦN IV: BÍ TÍCH GIẢI TỘI SAU CÔNG ĐỔNG TRENTÔ
A. BÍ TÍCH HÒA GIẢI TRONG ĐỜI SỐNG MỤC VỤ CỦA GIÁO
HỘI SAU CÔNG ĐỔNG TRENTÔ
Sau nỗ lực canh tân Giáo Hội của Công Đồng Trentô,
công việc mục vụ trong Giáo Hội dần dần phân biệt rõ làm hai loại : một loại
cho đám đông, một loại dành cho thiểu số ưu tú.
Mục vụ bí tích Hòa giải cũng theo chiều hướng này :
Đối với đám đông, các cha hay giảng về luân
lý và về tội, thúc giục dân chúng đi xưng tội. Điều các ngài nhắm là người dân
biết ăn năn tội, cách chẳng trọn cũng được, để rồi lãnh nhận bí tích và cố gắng
chừa bớt tội. Khoa thần học luân lý phục vụ tòa giải tội, nghiêng chiều về việc
giải "nố".
Mục vụ dành cho đám đông không đủ, còn cần mục vụ cho
hạng người ưu tú có vai trò trong xã hội cũng như Giáo Hội. Dòng Tên chú
trọng đặc biệt đến loại mục vụ này. Trong việc giáo dục những người trẻ, những
người quý tộc, các cha dòng Tên chú trọng nhiều đến việc giáo dục lương tâm,
việc xét mình và xưng tội hàng tháng. Các ngài nhấn mạnh sự xấu xa của tội, sự
chiến đấu để vượt thắng tội lỗi và được tự do ; nhấn mạnh nhiều đến sự
"trong sạch tâm hồn", cần thiết ngay cả đối với đời sống trí thức.
Các nhà thần nhiệm Tây-ban-nha cũng ảnh hưởng nhiều
trên mục vụ dành cho giới ưu tú. Thánh Têrêxa dAvila nhấn mạnh nhiều các đức
tính mà các cha giải tội cho tu sĩ phải có. Thánh nữ đặt nặng việc "linh
hướng", coi đó là phương thế đưa tới sự trọn lành nhờ bí tích Hòa giải.
Thánh Phanxicô Salêsiô mở rộng công việc này ra cho mọi tâm hồn ao ước nên
thánh.
Mục vụ cho giới ưu tú ngày càng phát triển, và
nhiều tác phẩm tu đức về đời sống thiêng liêng ra đời, giúp ích cho nhiều
người. Trong việc mục vụ này, thánh Têrêxa cũng như thánh Phanxicô đều nhấn mạnh
sự vâng lời và cởi mở đối với cha giải tội. Cha giải tội phải biết tư tưởng,
tình cảm, những đam mê, cả cuộc sống của con linh hướng.
Mục vụ loại này vẫn còn giá trị cho đến ngày hôm
nay. Nhưng xét về một phương diện, cả hai loại mục vụ đều khiếm khuyết, vì thiếu
chiều kích Giáo Hội, hơi nặng về từng cá nhân. Người giáo dân thường, và cả
người giáo dân ưu tú hay tu sĩ, không còn nhớ chiều kích Giáo Hội và xã hội của
tội lỗi. Việc sám hối cũng như việc cử hành bí tích Hòa giải mất hẳn chiều kích
Giáo Hội của thuở ban đầu.
Vào thế kỷ XIX, ngoài những yếu tố trên, trong Giáo
Hội xuất hiện một số cha giải tội thời danh như cha sở họ Ars chẳng hạn. Rõ
ràng đây là "đặc sủng" giúp cho nhiều người trong Giáo Hội vượt khỏi
óc vụ luật, duy luân lý của thời đó.
Thượng bán thế kỷ XX, với Sắc lệnh năm 1905 về việc
rước lễ thường xuyên, tạo ra được thói quen xưng tội thường xuyên trong Giáo
Hội, đặc biệt là nơi giới ưu tú ; họ xưng tội hàng tháng, có khi hằng tuần.
Cách thực hành này đã đóng góp rất nhiều trong việc đào tạo các thành phần dân
Chúa, nhưng cũng có một số điểm tiêu cực như "máy móc", "hình
thức". mà dần dần với thời gian, càng thấy rõ.
Sự biến chuyển nhanh chóng của thế giới ngày càng
cho thấy rõ cách thực hành đó đến thời kỳ khủng hoảng, cần được xét lại rất
nhiều ; chỉ giữ lại những gì cốt yếu, làm nổi bật đặc tính "dấu chỉ"
của bí tích, để con người hiện nay hiểu và chấp nhận.
B. THẦN HỌC VỀ BÍ TÍCH GIẢI TỘI SAU CÔNG ĐỔNG
TRENTÔ
Điều đắc thủ quan trọng của Công Đồng Trentô là coi
những hành vi của hối nhân như lành thành phần của bí tích Hòa giải.
Khẳng định rõ ràng sự hữu hiệu của bí tích mang lại
ơn tha tội làm cho lý thuyết về "giá trị tuyên bố" của lời xá giải
trở nên hoàn toàn lỗi thời.
Đà canh tân của Công Đồng đã thúc đẩy nhiều công
trình nghiên cứu lịch sử, đặc biệt bắt đầu từ học giả Morin (1681). Đầu thế kỷ
XX, nhiều tác giả Công giáo đã có những công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh về
bí tích Hòa giải.
Công Đồng Trentô đã không đưa ra một giải đáp đầy
đủ về tương quan giữa hối nhân và hành vi của Giáo Hội. Vấn đề này được các
thần học gia sau Công Đồng chú trọng nhiều hơn. Trong thực tế, suy tư thần học
tập trung vào hối nhân, vào cách thức ăn năn tội đòi hỏi phải có để được công
chính hóa, trong và ngoài bí tích.
Để được công chính hóa mà không có bí tích, các
thần học gia đều đòi hỏi phải ăn năn tội cách trọn với lòng ao ước lãnh nhận bí
tích. Nhưng có người đòi hỏi lòng thống hối mãnh liệt và không ngơi phát xuất
từ lòng mến ; người khác chủ trương không bó buộc phải có lòng mến trọn vẹn
theo "nghĩa hẹp", thống hối có thể bắt nguồn từ những lý do khác như
biết ơn, sự công bằng, miễn là nhằm mục đích cuối cùng là Thiên Chúa. Có người
chủ trương dung hòa hai giải đáp này.
Về sự công chính hóa nhờ bí tích, có tranh luận dữ
dội về bản chất của sự ăn năn tội chẳng trọn cần thiết để lãnh nhận ân sủng bí
tích.
Trong các thế kỷ XVII-XVIII hầu như mọi người nhận
rằng sự ăn năn tội chẳng trọn mà có đức tin và dốc lòng chừa với hy vọng được
ơn tha thứ, thì đủ để chuẩn bị cho hối nhân lãnh nhận ơn bí tích. Nhưng vẫn còn
những vấn nạn đặt ra như sau : sự ăn năn chỉ do sợ hình phạt hay phải có một
chút lòng mến Chúa nào đó ? Nếu có thì lòng yêu mến đó thuộc loại nào ?
Các giải đáp có thể quy về ba loại :
1) chủ trương "ái hối cực đoan"
(contritionisme rigide), đòi hỏi phải có lòng ăn năn phát xuất từ đức ái, được
gọi là ăn năn không trọn nhưng hoàn toàn khác với ăn năn vì sợ (Morin, Berti,
Bazzanigni)
2) chủ trương "ái hối trung dung"
(contritionisme mitigé), đòi hỏi nơi hối nhân một tình yêu khởi đầu, chưa phải
là lòng mến, là tình bằng hữu, vì chưa mạnh đủ. Lòng mến này không đủ để công
chính hóa ngài bí tích (Billuart)
3) chủ trương "úy hối" (attritionisme)
chỉ đòi hỏi "ăn năn tội chẳng trọn" theo "nghĩa hẹp" : chỉ
cần "dục ái" (amor concupiscentiae erga Deum). Có người cho rằng tình
yêu này phải minh nhiên được biểu lộ ; người khác nghĩ rằng chỉ cần mặc nhiên.
Nhưng tất cả đều công nhận phải có "dốc lòng chừa" và "hy vọng
được ơn tha thứ". Lập trường này là của Alphongse de Liguori và rất nhiều
tác giả. Theo Đức thánh cha Alexandre VII, thì đây là "ý kiến chung"
(sententia communior).
Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận sôi động trở lại.
Người ta trở lại các lập trường của Tôma và Duns Scott. Nhưng phần đông chủ
trương "úy hối", vì phái "ái hối trung dung" không giải
thích được thế nào là thứ tình yêu ở giữa tình yêu tự nhiên và lòng mến siêu
nhiên. Còn thuyết "ái hối cực đoan" thì không giải thích được vai trò
của lời xá giải. Gần đây lại có một chuyển hướng tích cực khác. Người ta suy
nghĩ nhiều hơn về tội và hậu quả của tội.
Mỗi tội trọng đều tạo ra một sức phá hoại, đưa con
người tới chỗ xa lìa Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa. Chính vì thế, sự hoán
cải không thể nào có được nếu không có ân sủng ; đồng thời là một hành trình
dứt bỏ rất đau đớn thân phận tội lỗi của mình, quy hướng về Thiên Chúa tự trong
thâm sâu. Dứt bỏ quá khứ là điều rất khó khăn ; tạo cho mình một "hướng đi
cơ bản" quy về Thiên Chúa cũng là đòi hỏi không kém gắt gao.
Quan điểm sống động và thực tiễn này có được là nhờ
những đóng góp của khoa Kinh Thánh đào sâu quan niệm hoán cải trong Mạc Khải,
của các khoa nhân học và tâm lý học giúp hiểu biết về con người tường tận hơn.
Quan điểm này có vẻ như trở lại chủ trương trung dung giữa thuyết "úy
hối" và thuyết "ái hối cực đoan". Nhiều tác giả khẳng định rằng
ăn năn tội cách chẳng trọn đủ để lãnh nhận ơn bí tích. Lòng úy hối này luôn
luôn kèm theo niềm hy vọng được ơn tha thứ, do đó đòi hỏi phải từ bỏ tội lỗi,
thực tâm hướng về Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa là Đấng Thiện Hảo (amor
concupiscentiae : dục ái). Những tác giả này cũng đưa ra thêm hai khẳng định :
Khẳng định 1 là chỉ có một con đường công
chính hóa, đó là hoán cải trọn vẹn phát xuất từ lòng mến. Sự hoán cải trọn vẹn
này không loại trừ mọi lý do úy hối. Trong thực tế, các lý do ái hối và lý do
úy hối không tách rời nhau, dục ái và bác ái cũng không thể tách rời. Ngay từ
đầu, sự ăn năn tội chẳng trọn, tự nó, đã hướng về hoán cải trọn vẹn.
Khẳng định 2 là khi lãnh nhận bí tích Hòa
giải, lòng thống hối chưa trọn của tội nhân trở thành trọn vẹn, nhờ tác động
hữu hiệu của lời xá giải bí tích. Đó là những tác giả lớn như Dondaine, Flick,
K. Rahner, Schmaus, Anciaux, Alszeghy, Martimort.
C. HUẤN QUYỀN SAU CÔNG ĐỔNG TRENTÔ
Thời Đức thánh cha Alexandre VII, Sắc lệnh của Bộ
Thánh Vụ ngày 05.5.1667 tìm cách chấm dứt những tranh luận gay gắt giữa các phe
chủ trương ái hối và phe úy hối. Sắc lệnh cho rằng chủ trương úy hối là "ý
kiến chung" (sententia communior, D 2070).
Triều đại Giáo hoàng Alexandre VIII, Sắc lệnh của
Bộ Thánh Vụ ngày 07.12.1690 lên án những sai lầm của phái Jansénistes, trong đó
có những sai lầm về bí tích giải tội, ví dụ : "Ăn năn tội chẳng trọn,
do sợ hỏa ngục và hình phạt, mà không có tình yêu Thiên Chúa vì chính mình
Người, thì không là một hành vi tốt và siêu nhiên" (D 2315)
Tông huấn "Unigenitus Dei Filius"
của Đức giáo hoàng Clément XI ngày 18.9.1713, lên án những sai lầm của Paschase
Quesnell (thuộc phái Jansénistes) : "Nếu chỉ có sự sợ hãi hình phạt làm
cho sám hối, thì càng sám hối mãnh liệt bao nhiêu, càng dẫn đến tuyệt vọng bấy
nhiêu" (D 2460) - "Ai từ bỏ sự dữ chỉ vì sợ hình phạt, thì đã
phạm điều ác ấy trong lòng và đã có tội trước mặt Thiên Chúa" (D
2462).
Tông huấn "Auctor Fidei" của Giáo
hoàng Piô VI ngày 28.8.1794 lên án những sai lầm của Thượng Hội Đồng Pistoia :
- Chủ trương có hai loại tình yêu : bác ái và dục
ái ; bất cứ điều gì do dục ái đều xấu và có tội (D 2623).
- Chủ trương sự sợ hình phạt hoàn toàn là xấu và
đáng luận phạt (D 2625)
- Chủ trương phải có "bác ái" trước khi
lãnh nhận phép Xá giải.
Năm 1907, Sắc lệnh "Lamentabili"
của Bộ Thánh Vụ lên án các sai lầm của phái Duy tân, trong đó có mấy mệnh đề về
bí tích Hòa giải :
"Trong Giáo Hội sơ khai, không có tư tưởng hòa
giải tội nhân do quyền bính của Giáo Hội. Nhưng Giáo Hội mất rất nhiều thời gian
để làm quen với quan niệm này. Hơn thế nữa, sau khi việc "hòa giải"
được nhận là do Giáo Hội thiết lập, nó vẫn không được gọi là bí tích, lý do là
vì nó được coi như một dấu chỉ nhục mạ" (D 3446).
"Lời Chúa trong Ga 20,22-23 không có liên hệ
gì tới bí tích Giải tội, dù các nghị phụ Công Đồng Trentô đã khẳng định là
có" (D 3447)
Đức Thánh Cha Piô XII, trong thông điệp "Mystici
Corporis" (1943) bênh vực giá trị và lợi ích của việc xưng tội thường
xuyên các tội nhẹ (D 3818).
Hiến chế về Phụng vụ thánh của Công Đồng
Vaticanô II đòi hỏi phải canh tân việc cử hành bí tích Hòa giải : "Nghi
lễ và công thức bí tích Giải tội phải được duyệt lại để diễn tả rõ ràng hơn bản
tính và hiệu quả của bí tích này" (PV 72).
Hiến chế tín lý về Giáo Hội có những suy tư
phong phú và mới mẻ hơn về bí tích Hòa giải, có thể làm nền tảng vững chắc cho
việc canh tân sau này. Việc cử hành bí tích Hòa giải được coi như một hành vi
phụng tự do cả Giáo Hội cử hành với chức tư tế công đồng, kết hợp với chức tư
tế thừa tác. Lumen Gentium là văn kiện Huấn Quyền đầu tiên sau Trentô
coi hậu quả của bí tích Hòa giải vừa là hòa giải tội nhân với Thiên Chúa, vừa
hòa giải tội nhân với Giáo Hội. Công Đồng chưa xác định tương quan giữa hai
điều đó. Quan điểm của Vaticanô II đương nhiên khiến Công Đồng nói đến sự cộng
tác của cả Giáo Hội trong việc sám hối của tội nhân, bằng đức ái, bằng gương
sáng và bằng lời cầu nguyện : "Những ai đến lãnh nhận bí tích Cáo Giải
đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời họ được
giao hòa cùng Giáo Hội mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Những Giáo Hội hằng nỗ
lực lấy đức ái, gương lành và kinh nguyện để hoán cải họ" (GH 11).
Ordo Paenitentiae
1. Mầu nhiệm hòa giải trong lịch sử Cứu Độ
Chúa Cha biểu lộ lòng thương xót, hòa giải thế gian
lại với mình nhờ Đức Kitô, nhờ máu đã đổ ra trên thập giá, mang lại bình an cho
mọi loài trên trời dưới đất.
Con Thiên Chúa làm người, ở giữa loài người để giải
thoát họ khỏi ách nô lệ tội lỗi, và mời gọi họ rời bỏ tối tăm, đi vào thế giới
ánh sáng huyền diệu. Vì lý do đó, Con Thiên Chúa đã khởi đầu sứ vụ bằng việc
rao giảng thống hối : "Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng"
(Mc 1,15).
Sự mời gọi hoán cải ấy, mà các tiên tri đã nhiều
lần gióng lên, giờ đây chuẩn bị tâm hồn con người cho Nước Thiên Chúa đến qua
lời nói của Gioan Tẩy-giả "rao giảng phép Rửa sám hối để cầu ơn tha
tội" (Mc 1,4).
Đức Giêsu không những kêu gọi con người thống hối,
từ bỏ tội lỗi và hướng tâm hồn họ lên với Thiên Chúa, mà còn đón tiếp các tội
nhân và giao hòa họ với Thiên Chúa. Ngoài ra, Ngài đã chữa lành các bệnh nhân
để biểu lộ dấu chỉ quyền tha tội. Hơn thế nữa, Ngài đã chết vì tội lỗi chúng ta
và sống lại để chúng ta được công chính. Chính vì thế, trong đêm Ngài bị nộp,
khi bắt đầu cuộc khổ nạn hồng phúc, Ngài đã thiết lập lễ hy tế Giao Ước Mới nhờ
Máu Ngài đổ ra để tha tội. Sau khi sống lại, Ngài đã sai Thánh Thần xuống với
các Tông Đồ, ban cho họ quyền tháo gỡ và cầm buộc. Họ lãnh nhận nhiệm vụ rao
giảng nhân danh Ngài, sự "thống hối" và ơn tha tội khắp muôn dân.
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, trong ngày lễ Ngũ
Tuần, thánh Phêrô đã rao giảng ơn tha tội nhờ phép Rửa : "Anh em hãy
sám hối và mỗi người trong anh em hãy chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để
được tha tội" (Cv 2,38). Vì lý do đó, Giáo Hội không bao giờ quên kêu
gọi mọi người hoán cải và bày tỏ việc Đức Kitô chiến thắng tội lỗi nhờ cử hành
bí tích Hòa giải.
Chiến thắng tội lỗi tiên vàn nơi phép Rửa tội. Nơi
đây, con người cũ cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô để thân xác tội lỗi bị hủy
đi và chúng ta không còn làm tôi cho tội nữa, nhưng nhờ phục sinh với Đức Kitô,
chúng ta được sống. Vì lý do đó, Hội Thánh tuyên xưng đức tin "có một
phép Rửa để tha tội".
Trong hy tế Thánh Thể, cuộc khổ nạn của Chúa được
cử hành : Thân Mình Ngài chịu nộp vì chúng ta và Máu Ngài đã đổ ra cho chúng ta
được tha tội lại được Giáo Hội dâng lên Thiên Chúa để cả thế giới được cứu rỗi.
Trong bí tích Thánh Thể, Đức Kitô hiện diện và được hiến dâng làm "của
lễ hòa giải chúng ta", để chúng ta, nhờ Thánh Thần của Ngài "được
hợp nhất cùng nhau".
Nhưng ngoài ra, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc
chúng ta, khi đã trao cho các Tông Đồ và những người kế vị các ngài quyền tha
tội, đã thiết lập bí tích Hòa giải, để các tín hữu lỡ sa ngã phạm tội sau phép
Rửa, được hòa giải với Thiên Chúa nhờ ân sủng được đổi mới. Giáo Hội "có
nước và nước mắt : nước phép Rửa và nước mắt thống hối".
2. Giao hòa các hối nhân trong đời sống Hội
Thánh
Giáo Hội thánh thiện đồng thời phải thanh luyện
không ngừng
Đức Kitô "đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp
mình vì Giáo Hội để thánh hóa Giáo Hội" (Ep 5,25-26) kết hiệp với Giáo
Hội như hôn thê. Ngài đổ tràn trên Giáo Hội là Thân Mình và sự Viên Mãn của
Ngài, đầy những hồng ân của Ngài, và nhờ Giáo Hội, Ngài ban bố chân lý và ân
sủng cho mọi người.
Nhưng các chi thể trong Giáo Hội vẫn bị cám dỗ và
thường sa ngã phạm tội cách đáng thương. Đức Kitô là "Đấng thánh thiện,
vô tội, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi" (Dt 7,26), "Đấng không biết
đến tội" (2 Cr 5,21), nhưng đến để đền tội của dân (x. Dt 2,17) ; còn
Giáo Hội thì bao gồm những tội nhân trong lòng của chính mình, vừa thánh thiện,
nhưng phải thanh luyện không ngừng.
Sám hối trong đời sống và phụng vụ của Giáo Hội
Dân Chúa thực hành sám hối không ngừng và bằng
nhiều cách. Có thể, bằng sự kiên nhẫn chịu đựng, hiệp thông với cuộc khổ nạn
của Đức Kitô, thực hành những việc nhân lành và bác ái, mỗi ngày một hoán cải,
sống theo Tin Mừng Đức Kitô nhiều hơn, là dấu chỉ sự trở về cùng Thiên Chúa
trong thế giới này. Điều đó, Giáo Hội sống, diễn tả và cử hành trong phụng vụ,
khi các tín hữu tự nhận mình có tội, khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa và
anh em, như thực hành trong các buổi thống hối, trong việc loan báo Lời Chúa,
trong cầu nguyện và trong những phần sám hối của thánh lễ.
Trong bí tích Hòa giải, các tín hữu "nhận
được, do lòng thương xót của Thiên Chúa, ơn tha tội phạm đến Người, đồng thời
được hòa giải với Giáo Hội, mà, khi phạm tội, họ đã làm cho bị thương tổn. Giáo
Hội cộng tác vào việc sám hối của họ bằng đức ái, gương sáng và lời cầu
nguyện" .
Hòa giải với Thiên Chúa và Giáo Hội
Vì tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa, làm đổ vỡ tình
bằng hữu với Người, nên "việc thống hối phải nhằm mục tiêu cuối cùng là
yêu mến Thiên Chúa và hoàn toàn tin tưởng phó thác cho Người". Tội nhân,
nhờ ân sủng lòng thương xót của Thiên Chúa, đi vào con đường sám hối, trở về
với Chúa Cha là "Đấng đã yêu thương chúng ta trước" (1 Ga
4,19), trở về với Chúa Kitô đã tự phó nộp vì chúng ta, và trở về cùng Chúa
Thánh Thần được đổ tràn đầy trên chúng ta.
Vì mầu nhiệm cứu độ cao cả và tốt lành, loài người
nên một với nhau trong sự liên đới siêu nhiên. Vì sự liên đới ấy mà tội của một
người làm hại cả những người khác, cũng như sự thánh thiện của một người mang
lại ơn ích cho những người khác. Cũng vậy, việc sám hối luôn kèm theo sự hòa
giải với anh em mà tội lỗi đã làm tổn thương.
Loài người, khi làm những điều bất công, thường
hành động chung với nhau ; thì cũng thế, khi thực hành sám hối, họ phải giúp đỡ
nhau, để được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ ân sủng của Đức Kitô ; cùng với mọi
người thiện tâm, mang lại công chính và hòa bình cho thế giới.
Bí tích Hòa giải và các phần khác nhau
Người môn đệ của Đức Kitô, sau khi phạm tội, được
Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đến lãnh nhận bí tích Hòa giải, trước tiên phải
"thật lòng trở về" với Thiên Chúa. Sự hoán cải sâu xa của trái tim bao
hàm việc ăn năn tội và quyết tâm thay đổi đời sống. Sự hoán cải ấy được diễn tả
bằng việc xưng tội với Hội Thánh, việc phải đền tội cân xứng và việc sửa đổi
đời sống. Chính Thiên Chúa ban ơn tha tội nhờ Giáo Hội, và Giáo Hội hành động
qua thừa tác vụ các linh mục.
1. Ăn năn tội. Trong
các hành vi của hối nhân, đầu tiên có việc ăn năn tội là "sự đau đớn và
ghét tội đã phạm, với quyết tâm không phạm tội nữa". Chúng ta chỉ có thể
vào Nước Trời nhờ sám hối, nghĩa là sự biến đổi sâu xa toàn diện con người, tư
tưởng, phán đoán và cách sống, được đánh động bởi sự thánh thiện và lòng mến
của Thiên Chúa, biểu lộ vào những ngày sau hết nơi người Con và được hoàn toàn
ban phát cho chúng ta (x. Dt 1,2 ; Cl 1,19 ; Ep 1,23). Sám hối thực sự tùy
thuộc vào việc ăn năn trong lòng. Sự hoán cải phải động tới con người cách thâm
sâu, để mỗi ngày soi sáng người ấy và làm cho người ấy ngày càng nên giống Đức
Kitô.
2. Xưng tội. Việc
xưng tội là thành phần của bí tích Hòa giải, do nhận biết tội mình trước mặt
Thiên Chúa và lòng thống hối ăn năn. Việc xét mình nội tâm và xưng tội bên
ngoài phải được thực hiện dưới ánh sáng của lòng Chúa thương xót. Việc xưng tội
đòi hỏi nơi hối nhân phải có ý cởi mở tâm hồn mình với thừa tác viên của Thiên
Chúa. Hành động thay mặt Đức Kitô, do "quyền chìa khóa", ngài phán
quyết tha hay buộc tội.
3. Đền tội. Sám hối thực sự hoàn
tất nhờ việc đền tội, thay đổi đời sống và sửa chữa thiệt hại. Việc làm và mức
độ đền tội phải phù hợp cho mỗi hối nhân, để mỗi người xây dựng lại trật tự mà
họ đã phá đổ, được chữa lành bằng vị thuốc chữa bệnh đúng đắn. Hình phạt phải
là vị thuốc chữa tội và đổi mới cách nào đó cuộc sống. Hối nhân "khi
quên đi những gì ở phía sau để nhìn về phía trước" (Pl 3,13), lại tháp
nhập vào mầu nhiệm cứu rỗi và hướng về những sự đời sau.
4. Giải tội. Thiên
Chúa ban ân huệ của Người cho ai biểu lộ lòng sám hối trong bí tích Giải tội,
qua dấu chỉ xá giải, và như thế, bí tích Hòa giải được hoàn tất. Theo nhiệm cục
cứu độ của Thiên Chúa, lòng nhân đạo và nhân lành của Thiên Chúa chúng ta là
Đấng Cứu Thế, đã xuất hiện hữu hình cho loài người, Thiên Chúa muốn nhờ những
dấu chỉ hữu hình ban ơn cứu độ cho chúng ta và giao ước lại với chúng ta.
Nhờ bí tích Hòa giải, Chúa Cha đón nhận người con
trở về với mình, Đức Kitô mang chiên lạc trên vai và đưa về đàn chiên, và Chúa
Thánh Thần hiến thánh đền thờ trở lại hay cư ngụ cách viên mãn hơn. Điều kiện
này cuối cùng biểu lộ qua việc tham dự đổi mới và sốt sắng hơn vào bàn tiệc của
Chúa, nơi, vì người con từ xa trở về, có niềm vui lớn cho khách dự tiệc trong
Giáo Hội của Thiên Chúa.
Sự cần thiết và ích lợi của bí tích
Vết thương do tội lỗi thì khác nhau, đa dạng tùy
cuộc sống của cá nhân và cộng đoàn, phương dược mà bí tích Hòa giải mang lại
cho chúng ta cũng phải khác nhau. Những ai không được hiệp thông với tình yêu
Thiên Chúa nữa, do phạm tội trọng, nhờ bí tích Hòa giải, được có lại sự sống đã
mất ; còn ai phạm tội nhẹ, hằng ngày kinh nghiệm sự yếu đuối của mình, lấy lại
được sức mạnh nhờ cử hành sám hối, để đạt được sự tự do trọn vẹn của con cái
Thiên Chúa.
1. Để nhận lãnh phương dược cứu
rỗi của bí tích Hòa giải, theo sự sắp đặt của lòng nhân hậu Chúa, tín hữu phải
xưng ra với linh mục mọi tội trọng và từng tội trọng mà mình nhớ được khi đã
xét mình.
2. Ngoài ra, việc xưng tội thường
xuyên và siêng năng các tội nhẹ cũng rất hữu ích. Không là một sự lập đi lập
lại thuần túy nghi thức hay một sự tập luyện tâm lý, nhưng là nỗ lực làm cho
viên mãn ơn phép Rửa, để, khi chúng ta mang trong thân xác cái chết của Đức
Kitô, thì càng ngày sự sống của Ngài càng biểu lộ trong chúng ta. Trong những
lần xưng tội như thế, khi hối nhân thú nhận các tội nhẹ, họ cố gắng trở nên
giống Chúa Kitô và vâng nghe Chúa Thánh Thần cách chăm chú hơn.
Để bí tích sinh ơn cứu độ này có ảnh hưởng thật sự
trên người kitô-hữu, nó phải tác động trên cả cuộc sống như những rễ cây và
phải thúc đẩy phục vụ Thiên Chúa và anh em sốt sắng hơn.
Việc cử hành bí tích luôn là hành vi nhờ đó Giáo
Hội tuyên xưng đức tin của mình, cảm tạ Thiên Chúa vì tự do mà Đức Kitô ban
cho, và hiến dâng cuộc sống làm của lễ thiêng liêng để làm vinh danh Thiên
Chúa.