III
MÙA CHAY THÁNH,
KHÍA CẠNH PHỤNG VỤ VÀ TU ĐỨC
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, với việc làm phép tro và bỏ
tro, Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay thánh. Chúng ta đã sống qua
nhiều Mùa Chay thánh, nhưng mỗi năm Giáo Hội muốn chúng ta đi sâu hơn vào ý
nghĩa của Mùa phụng vụ quan trọng này.
Vì thế hôm nay chúng ta
cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa Mùa phụng vụ quan trọng này, để có thể từ đó sống
Mùa Chay với những tâm tình như Giáo Hội mong muốn nơi chúng ta.
1. Thời gian Mùa Chay thánh
Mùa Chay Thánh bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kết
thúc vào sáng Thứ Năm Tuần thánh, với việc cử hành thánh lễ làm phép Dầu bệnh
nhân, Dầu dự tòng và thánh hiến Dầu thánh. Sau đó với
Thánh Lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh : Kỷ niệm việc Chúa
Giêsu lập phép Thánh Thể, Giáo Hội bắt đầu Tam Nhật thánh.
Mùa Chay gồm có những ngày thứ năm, thứ sáu và
thứ bảy sau Lễ Tro, 5 Chúa Nhật và tuần lễ I, II, III, IV và V, cùng với Chúa
Nhật Lễ Lá và ba ngày đầu Tuần Thánh.
Xét về nguồn gốc Mùa
Chay thánh, chúng ta phải đi từ việc thành hình Năm phụng vụ. Đầu
tiên Cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đã mừng Lễ Phục Sinh, hằng tuần vào các Ngày
Chúa Nhật, và hằng năm vào Đại lễ Phục Sinh. Dần dần việc mừng Lễ Phục Sinh
đã được chuẩn bị với những tuần lễ trước đó, nhất là vào đầu thế kỷ thứ tư, khi
Giáo Hội được tự do sau ba thế kỷ bị bách hại, Giáo Hội chuẩn bị các dự tòng để
họ lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo (Rửa Tội, Thêm Sức, và Thánh Thể)
vào Đêm Vọng Phục Sinh, thì Mùa Chay đã có thêm một ý nghĩa mới. Từ đây việc tổ
chức Mùa Chay được tiến hành theo những chiều hướng trên đây và Mùa Chay có một
thể chế rõ ràng, mang tầm quan trọng đặc biệt trong Năm Phụng vụ. Như vậy Mùa
Chay đã bắt đầu rất sớm, sát liền với Lễ Phục Sinh và bao gồm thời gian chuẩn
bị các dự tòng (hoặc chầu nhưng).
2. Ý nghĩa Mùa Chay thánh
Nói về ý nghĩa Mùa Chay thánh, Công Đồng chung
Vaticanô II đã xác định như sau : ²Hai đặc tính của Mùa
Chay là việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép rửa tội,
chuẩn bị các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe Lời
Chúa và chuyên chăm cầu nguyện hơn. Hai đặc tính trên phải được trình bày rõ
ràng hơn cả trong Phụng vụ lẫn giáo lý phụng vụ². (Hiến
chế phụng vụ số 109).
Theo lời chỉ dẫn trên đây, chúng ta nhận ra hai
đặc tính truyền thống của Mùa Chay thánh : đó là
·
sám hối
·
và hướng về các bí tích
khai tâm Kitô giáo.
Tất cả đều nhằm chuẩn
bị tín hữu chuẩn bị mừng Lễ Phục Sinh. Với tín hữu, thì việc
chuẩn bị này được thể hiện qua thái độ và tâm tình sám hối nội tâm, cũng như
việc nhớ lại các bí tích khai tâm Kitô giáo đã lãnh nhận. Với các dự tòng,
thì việc chuẩn bị này được thể hiện qua các giai đoạn khác nhau của thể chế dự
tòng (hoặc chầu nhưng), đã được Công Đồng Vaitcanô II lấy lại (xc. Hiến chế
phụng vụ, số 64).
3. Tổ chức các hoạt động của Mùa Chay
Thánh
Như trên đã nói, Mùa
Chay thánh có hai đặc tính là sám hối và rửa tội. Tất
cả phụng vụ trong Mùa này đều làm nổi bật hai đặc tính này.
Vậy để
thực hiện hai đặc tính này, Giáo Hội đã xếp đặt Mùa Chay thánh theo những cách
thế sau đây :
a) Mùa Chay : Mùa sám hối và canh tân
nội tâm
Hành trình Mùa Chay là hành trình nhìn nhận
tội lỗi và những sa ngã của con người : từ nguyên
tổ, qua suốt lịch sử con người, lịch sử Dân Chúa chọn, và lịch sử từng cá nhân.
Ý thức về tội lỗi trên đây càng cần được nhấn mạnh hơn nữa
trong thế giới ngày nay, khi con người tự mãn, mất dần ý thức về tội lỗi.
Vì thế Mùa Chay càng có ý nghĩa sâu xa trong bối cảnh của một thế giới tục hóa,
có những hành động chống lại Thiên Chúa, nhưng đồng thời không biết nhìn nhận
tội lỗi của mình.
Tuy nhiên nhìn nhận tội
lỗi chưa đủ, con người còn cần sám hối, xưng thú, và đền bù tội lỗi đã
phạm tới Thiên Chúa.
Sau cùng, con đường sám hối Mùa Chay bao gồm
một tâm thức biết quay trở về với Thiên Chúa, từ bỏ con đường cũ, từ bỏ
con người cũ và biến đổi con người để trở về với tình trạng nguyên thủy vô tội
trong sạch, để được sống trong niềm vui vô tận của Thiên Chúa và Chúa Kitô phục
sinh. Như vậy hành trình sám hối được thể hiện như những hành dộng trở về của
người con hoang đàng trong Phúc âm thánh Luca (xc.ch. 15).
Phụng vụ Mùa Chay đã
giúp tín hữu sống tâm tình sám hối này cách rất cụ thể thiết thực.
Ngay đầu Mùa Chay, vào Thư Tư Lễ Tro, Giáo Hội
đưa tín hữu vào tâm tình sám hối bằng một biểu hiệu : lãnh nhận tro trên
đầu, và nghe lời Giáo Hội khuyên nhủ : ²Hãy ăn năn sám hối và
đón nhận Tin mừng² (Mc 1,15) ; hoặc ²Ta là thân cát bụi, sẽ
trở về cát bụi² (xc. St 3,19). Đồng thời cho hát những bài đầy tâm tình thống hối ăn năn. Tro bụi đã được Kinh thánh xử dụng như là dấu hiệu của
việc sám hối và quay trở về chính lộ, như dân thành Ninivê xưa đã làm, sau khi
nghe lời ngôn sứ Giona khuyên bảo.
Trong chính ngày thứ tư đầu Mùa Chay, Giáo Hội
buộc mọi tín hữu phải ăn chay kiêng thịt (Giáo luật, khoản 1251),
cùng với ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Việc ăn chay kiêng thịt còn mang những ý
nghĩa khác nữa, nhưng chắc chắn việc kiêng hãm của ăn phần xác, phải cho thấy
tâm tình sám hối và canh tân nội tâm của tín hữu. Trong từ
ngữ thần học phụng vụ, Mùa này được gọi là Mùa Chay.
Ngoài ra còn có những biểu hiệu bên ngoài khác
cho thấy tinh thần sám hối canh tân trong Mùa Chay, như :
việc bỏ trưng bông trên bàn thờ, trừ các lễ trọng ; hoặc việc không
dùng đàn phong cầm hoặc các loại đàn khác tương tự, trong Mùa này, trừ
khi xử dụng một cách hết sức giới hạn để giúp cộng đoàn hát mà thôi.
Trong Mùa Chay, bỏ hát Kinh Vinh Danh
và bỏ hát Câu xướng Alleluia và thay vào đó bằng một câu tung hô khác. Trong Các giờ kinh phụng vụ, cuối các bài đọc
của giờ độc vụ, không hát Kinh Lạy Thiên Chúa (Te Deum) .
Về mầu áo và đồ thờ
phượng trong mùa Chay, áo lễ linh mục mặc cử hành thánh lễ là mầu tím. Biểu
hiệu này cũng giúp tín hữu nhớ tới tình trạng tội lỗi của mình.
Các kinh nguyện trong Mùa Chay nhắc nhở rất
nhiều vể việc sám hối và quay trở về với Thiên Chúa, như lời kinh nhập lễ thứ
tư Lễ tro được đọc lên như sau : ²Lạy Chúa, ngày hôm nay,
tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng
liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để càng
ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần².
Trong Mùa Chay thánh này, Giáo Hội cũng khuyến
khích cử hành các Nghi thức thống hối, như các mẫu đề nghị trong
Sách Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải. Trong các buổi cử hành
nghi thức thống hối này, tín hữu được nghe các đoạn Kinh thánh nhắc nhở đến tội
lỗi, đến lời mời gọi thống hối, canh tân... Việc cử hành này cũng cần được thực
hiện do chính giám mục chủ sự.
Còn bí tích giải
tội phải là phương thế hữu hiệu nhất để sám hối và quay trở về với
Thiên Chúa và với Giáo Hội. Khi chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Giải tội, tín
hữu cùng anh chị em khác, nghe Lời Chúa, xét lại các lỗi phạm tới Chúa, tới tha
nhân, tới cộng đoàn. Nhớ lại không chỉ các tội riêng của
mình, nhưng cả những tội tập thể đã làm, hoặc cá nhân làm nhân danh tập thể, cả
những tội mang tính cách xã hội.
Sau cùng, Bí tích Thánh Thể được
coi là bí tích mang lại sự hòa giải, vậy trong Mùa Chay thánh, việc tham dự
thánh lễ, nếu có thể hằng ngày, được coi như là một cách thế ăn năn sám hối và
giao hòa với Thiên Chúa và cộng đoàn (xc. Nghi thức thống hối đầu lễ ; Kinh Nguyện Thánh Thể thứ III ; Kinh Nguyện Thánh Thể hòa
giải)..
b) Mùa Chay mang đặc tính liên hệ tới bí tích rửa tội
Đặc tính liên hệ tới Bí
tích Rửa tội được nhấn mạnh rất nhiều trong phụng vụ từ thời xa xưa và trong
các kinh nguyện Mùa Chay thánh.
Đối với các tín hữu, trong Mùa này, Giáo
Hội giúp họ nhắc lại Bí tích Rửa tội, Thêm sức, mà họ
đã lãnh nhận. Điều này được nhắc tới qua việc cử hành Bí tích Rửa tội cho trẻ
con trong họ đạo ; việc nhắc lại các lời hứa rửa tội trong Đêm Vọng Phục Sinh ;
việc làm phép Nước và rảy Nước thánh trong ngày Chúa Nhật, cũng như thói quen
lấy Nước thánh làm dấu thánh giá khi vào nhà thờ. Hoặc khi
tín hữu được mời giúp các dự tòng, hoặc tham dự các nghi lễ cử hành cho dự tòng
trong Mùa Chay này.
Đối với các dự tòng, đặc tính liên hệ tới Bí
tích Rửa tội càng được thể hiện cách rõ rệt, khi Giáo Hội qua các giai đoạn,
trực tiếp chuẩn bị các dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo, mà tột
điểm vào Đêm Vọng Phục Sinh. Như chúng ta nói trên đây, Công Đồng
Vaticanô II đã lấy lại định chế về thời gian dự tòng, trong đó có việc huấn
giáo và việc cử hành một số lễ nghi phụng vụ cho người dự tòng. Sách
Nghi thức khai tâm Kitô giáo được ban hành năm 1973, và đã được dịch sang tiếng
Việt
Trước tiên có việc công bố Tin Mừng của Chúa
Kitô ; người nghe sẽ tin vào Chúa Kitô, học hỏi thêm
về Ngài và giáo lý của Ngài. Từ đây bắt đầu giai đoạn thứ I, tức
là tiếp nhận với lễ nghi tiếp nhận vào bậc dự tòng ;
sang giai đoạn thứ II : tức là thời gian chuẩn bị tích cực
để dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm kitô ; ở đây có
lễ nghi tuyển chọn và ghi danh. Sau cùng là giai đoạn thứ III : khi cử hành các bí tích khai tâm Kitô giáo và
thời gian nhiệm huấn sau khi lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo. Giai
đoạn II nằm trong bối cảnh Mùa Chay, từ Chúa Nhật I đến Tuần Thánh
; và giai đoạn III nằm trong Đêm Vọng Phục Sinh và thời gian sau đó. Trong giai đoạn II, có những lễ nghi, như đặt tên, trừ ma quỷ, khảo
hạch nhiều lần, tức là khảo hach về ý hướng ngay lành của dự tòng, chúc lành
cho dự tòng. Ngoài ra còn có việc trao Kinh Lạy Cha và Kinh
Tin kính, và các dự tòng phải trả lại, tức là đọc trước
Giám mục và cộng đoàn.
Vì thế cần lưu tâm để cử hành các bí tích khai
tâm Kitô giáo vào Đêm Vọng Phục Sinh ; ít ra là có
việc rửa tội cho trẻ con.
4. Mùa Chay :
thời gian
tăng cường đời sống thiêng liêng
Để tín hữu đạt được hai mục tiêu trên đây, Giáo
Hội đã nhấn mạnh đến một số phương tiện khác, mà tín hữu phải lưu tâm để sống
Mùa Chay thánh và được gợi ý nhiều trong các kinh nguyện Mùa Chay. Các phương
thế đó là :
·
chuyên chăm đọc nghe Lời Chúa trong sa mạc của tâm
hồn mình ; biết dùng phương pháp đọc Lời Chúa được các giáo phụ và các dòng tu
thực hiện, quen gọi là Đọc Lời Chúa (Lectio divina) ;
·
tăng cường việc cầu nguyện riêng và chung trong cộng
đoàn ; họ đạo và gia đình ;
·
ăn chay hãm dẹp xác thịt và các hành động thống hối
khác ;
·
làm phúc bố thí cho kẻ nghèo khó ; sống bác ái cách sâu xa hơn
; tha thứ và hòa giải với nhau ; tham gia các công tác từ thiện, xã hội để
thăng tiến dân sinh ;
·
tham gia các buổi cử hành phụng vụ, thánh lễ, bí tích ;
·
thực hành các việc đạo đức bình dân :
như gẫm đàng thánh giá (cũng nên xét lại việc ngắm nguyện, làm sao để phù hợp
với tinh thần phụng vụ và không lấn át các buổi cử hành phụng vụ. Tôi thấy có
nơi giờ cử hành phụng vụ Tôn kính Thánh Giá vào chiều thứ sáu tuần thánh, rất
ít người tham dự, nhưng đến giờ ngắm đứng sau đó, thì lại đông người. Làm như
vậy không đúng tinh thần phụng vụ và không giúp huấn luyện đức tin trưởng thành
;
·
Sống hồi tâm, thinh lặng nhiều hơn để tìm gặp
Chúa, tìm gặp chính mình.
Đây là những phương thế Giáo Hội rút tỉa từ
Kinh Thánh và giáo huấn của các giáo phụ mà giới thiệu cho con cái mình.
5. Các thành phần dân Chúa sống Mùa Chay
thánh
Để Mùa Chay thánh mang
lại kết quả dồi dào, các thành phần dân Chúa được Giáo Hội khuyến khích cử hành
và sống Mùa Chay thánh này.
Trước tiên các
giám mục, được coi như chủ chăn, hướng dẫn dân Chúa tới mầu nhiệm vượt
qua, như Ông Maisen xưa. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Chay, các Ngài cử hành việc ghi
danh những người được cử đề lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo vào Đêm
Vọng Phục Sinh ; các ngài trực tiếp theo dõi các dự
tòng trong thời gian chuẩn bị gần này. Các Ngài chuyên cần
giảng dạy Lời Chúa cho dân chúng. Đi thăm viếng mục vụ
các giáo xứ. Chủ sự các thánh lễ Chúa Nhật Mùa Chay, tại các vùng, miền
chính, với sự tham dự đông đảo của các thành phần dân Chúa, như linh mục, phó
tế, các thừa tác viên và giáo hữu ; chủ sự các buổi thống hối chung. Thời xưa
các giám mục cử hành các lễ theo từng trạm (statio
quadragesimalis) được báo trước cho dân chúng đến tham dự,
Các linh mục cử hành thánh lễ, buổi
thống hối, nghi thức giải tội ; chuẩn bị chầu nhưng cách tích cực và trực tiếp
; thăm viếng bệnh nhân, người già cả, để họ cũng được tham dự vào sinh hoạt Mùa
Chay thánh với các anh chị em tín hữu khác. Chuyên cần đọc và dạy dỗ Lời Chúa ;
các bài giảng được soạn thảo kỹ lường rút từ các bài Sách thánh liên hệ tới
việc sám hối, Bí tích Rửa tội, lòng nhân từ của Thiên Chúa, việc trở về... ; tổ
chức tĩnh tâm cho giáo xứ. Cổ võ việc cầu nguyện nơi con chiên bổn đạo. Các phó tế và các thừa tác viên khác, các giáo lý viên, trợ giúp
các linh mục trong công tác mục vụ quan trọng này.
Giáo dân và các dự tòng tích cực tham dự sinh
hoạt Mùa Chay thánh trong giáo xứ và trong các hội đoàn. Năng tham dự thánh lễ,
lãnh nhận Bí tích Giải tội, thu xếp trước đừng để phút
chót mới đi xưng tội. Giữ hai ngày chay và kiêng thịt như luật buộc, vào Thứ Tư
Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh ; tuy nhiên còn giữ thêm
các ngày khác. Nếu không giữ được các ngày khác, thì bù vào bằng các việc hãm
mình khác, những việc thống hối và bác ái khác như Giáo Hội mong muốn (xc. Giáo luật,
khoản 1250 và 1251). Tăng cường việc đọc sách Kinh Thánh riêng hay
theo nhóm ; cầu nguyện riêng và trong gia đình.
6. Mùa Chay và Chúa Thánh Thần
Chúng ta gợi ra đây một vài điểm về Chúa Thánh
Thần để nhờ Ngài hướng dẫn bước vào cuộc hành trình Mùa Chay thánh, như Ngài đã
đưa Chúa Kitô vào trong sa mạc để ăn chay và chịu ma quỷ cám dỗ (xc.
Mc 1,12 ; Lc 41,1). Ngài là Đấng hướng dẫn
tất cả hành trình cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, cho tới chết trên thập giá, để
rồi sống lại cũng là do Chúa Thánh Thần.
Trên thập giá, khi tắt thở, Chúa Kitô đã trao
ban Thần khí của Ngài (xc. Ga 19,30),
để thiết lập Giáo Hội và các bí tích trong Giáo Hội. Chiều ngày sống lại, Chúa
Kitô đã thở hơi ban Chúa Thánh Thần để trao ban quyền đem ơn cứu dộ cho muôn
dân (xc. Ga 21,22).
Như Vậy Thánh Thần là Tác viên chính của hành trình vượt qua
của Chúa Kitô. Ngày nay Ngài cũng là Tác viên chính
của hành trình vượt qua của chúng ta trong Mùa Chay thánh này. Vậy chúng
ta hãy để Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta trên con đường sám hối,
sống ơn Bí tích Rửa tội và đi vào con dường đau khổ của Chúa, chịu chết và sống
lại của Chúa Kitô. Như vậy Thánh Thần sẽ làm cho con người cũ của ta chết đi và
sẽ sống lại trong con người mới cùng với Chúa Kitô sống lại.
Rôma, ngày 27.02.2001