CỬ HÀNH TUẦN THÁNH VÀ TAM NHẬT VƯỢT
QUA
(Cập Nhật 19-4-2011)
Sau thời gian cử hành Mùa Chay
Thánh, trong đó Giáo Hội hướng về Đại lễ Phục Sinh bằng việc chuẩn bị các dự
tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm Sức Và Thánh Thể,
trong đêm Vọng Phục Sinh; đồng thời dọn lòng con cái cho Đại lễ này với các
việc đọc Lời Chúa, tham dự phụng vụ, cầu nguyện, ăn chay hãm mình, canh tân trở
lại, sống bác ái và làm việc bố thí.
Bây giờ tới Tuần Thánh và Tam
Nhật Thánh là những ngày trọng đại nhất trong Năm Phụng vụ. Vì thế chúng ta tìm
hiểu ý nghĩa những ngày này để có thể cử hành xứng đáng và đem lại nhiều ơn ích
thiêng liêng.
Chúng ta cần lưu ý tới ba điểm
sau đây:
1. hiểu rõ ý nghĩa
của Tuần Thánh
2. cử hành sốt sắng
các lễ nghi Tuần thánh
3. một số lưu ý đặc
biệt
I. Ý nghĩa Tuần
Thánh
Hiểu rõ ý nghĩa Tuần Thánh và
Tam Nhật Thánh là một điều quan trọng, vì vô tri bất mộ. Chính vì nhận thấy sự
cần thiết này, nên Đức Giáo hoàng Piô XII đã cho cải tổ Lễ nghi Cử hành Tam
Nhật Thánh (năm 1951) và Lễ nghi Cử hành Tuần Thánh (năm 1955). Công đồng
Vatican II cũng đã lưu ý tới điều này trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh Công
đồng chung: “Mỗi năm một lần, Giáo Hội còn cử hành hết sức trọng thể vào dịp lễ
Phục Sinh sự sống lại cùng với cuộc Thương Khó của Người” (PV, 102).
Vậy Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh
có ý nghĩa như thế nào?
1. Thời gian cử hành
Về thời gian, Tuần Thánh bắt đầu
từ Chúa Nhật Lễ Lá, hay Chúa Nhật thương khó, ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư sau
đó, và sáng thứ năm. Bốn ngày này là những ngày cuối cùng của Mùa Chay Thánh.
Tam Nhật Thánh, bắt đầu từ Thánh
Lễ Tiệc Ly vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, tiếp theo là Thứ Sáu Tuần Thánh, THứ
BảY TUầN THÁNH và Chúa Nhật Phục Sinh.
Đây là tột đỉnh của Mùa Chay
Thánh và trung tâm của Năm Phụng vụ. Các Giáo phụ gọi Tuần Thánh là tuần trọng
nhất trong Năm Phụng vụ, tuần lễ mẹ các tuần lễ.
Nếu nhìn vào việc thành hình Năm
Phụng vụ, thì việc cử hành Ngày Chúa Nhật hằng tuần và việc cử hành Lễ Phục
Sinh mỗi năm là khởi điểm của Năm Phụng vụ. Các tín hữu thường tập họp mỗi ngày
Chúa Nhật để tưởng nhớ lại biến cố Chúa Giêsu chết và sống lại. Rồi mỗi năm có
việc cử hành các biến cố này một cách trọng thể hơn và đặc biệt hơn. Sau đó mới
dần dần thành hình các việc cử hành các ngày lễ khác, và các mùa khác trong Năm
Phụng vụ. Ngay trong việc thành hình các Sách Phúc Âm, thì đơn vị văn chương
tường thuật việc Chúa Kitô sống lại, và cuộc thương khó của Chúa cũng được coi là
đơn vị đầu tiên được viết ra cho cộng đoàn tín hữu sơ khởi. Các Thánh ký viết
phúc âm đã xử dụng các bài tường thuật cuộc thương khó và phục sinh của Chúa
Kitô như là đỉnh chót của việc loan báo Tin Mừng về Chúa Kitô.
2. Nội dung của Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh
Chúng ta có thể nói ngay: đó là
những biến cố vượt qua của Chúa Giêsu Kitô: việc Chúa chịu đau khổ, chết trên
thập giá và sống lại. Mầu nhiệm Vượt qua là trung tâm điểm của các việc cử hành
trong Năm Phụng vụ, của Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh. Công đồng chung Vatican
II đã nhấn mạnh nhiều tới điều này trong Hiến chế về Phụng vụ (các số 5. 6. 61.
102). Văn kiện Những quy luật tổng quát năm phụng vụ (= QLTQNPV) nói một cách
hết sức rõ ràng: “Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại và tôn
vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo, nhất là nhờ Mầu nhiệm Vượt qua của Người...
Chính Tam nhật Vượt qua, nhằm tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa,
sáng chói lên như tột đỉnh của cả Năm phụng vụ” (số 18; x. số 19). Như vậy cử
hành mầu nhiệm này là cử hành công cuộc cứu chuộc chúng ta và toàn thể nhân
loại.
3. Xét về cách thế cử hành
Đi từ cách xếp đặt Tuần Thánh,
cũng như Tam nhật Vượt qua, và nội dung cử hành, một hệ luận tất nhiên suy diễn
ra từ đó ra, là phải cử hành rất long trọng, làm sao cho đúng với tầm quan
trọng của nội dung cử hành này (x. QLTQNPV, 1). Từ đây chúng ta thấy Tuần Thánh
và Tam Nhật Thánh có những lễ nghi đặc biệt và đã có từ lâu đời trong truyền
thống phụng vụ. Lễ nghi không chỉ gồm việc cử hành thánh lễ, nhưng còn gồm các nghi
lễ, phụ tích khác, giúp làm sáng tỏ mầu nhiệm và biến cố chứa đựng mầu nhiệm
đó. Các lễ nghi này gợi hứng từ các biến cố cuối đời của Chúa Giêsu, thêm vào
đó những hình ảnh lấy từ biến cố vượt qua của người Do Thái xưa, nhằm làm sáng
tỏ biến cố cuối cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian. Việc dùng các biểu hiệu rất
phong phú, như biểu hiệu lá cây trong Chúa nhật đầu Tuần Thánh, nến phục sinh
trong Đêm Vọng Thứ Bảy Tuần Thánh. Âm nhạc, nhất là bình ca cũng được sáng tác
hợp với diễn tiến buổi cử hành. Thời gian cử hành cũng cố gắng hết sức theo sát
diễn tiến của các biến cố thánh, khác hẳn với thời gian các buổi cử hành trong
cả năm. Tất cả nhằm làm sáng tỏ nội dung thần học của việc cử hành, và giúp tín
hữu đi vào mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô một cách sâu xa hơn.
II. Cử hành Tuần
Thánh và Tam Nhật Thánh thế nào?
Với những chỉ dẫn trên đây,
chúng ta nhận ra tầm quan trọng của Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh, và từ đây, ý
thức về việc cử hành những ngày này phải thực sự rõ ràng: làm sao để cử hành
các lễ nghi Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh hết sức long trọng và làm sao để giáo
hữu tham dự hết sức đông đảo, và tham dự cách tích cực. Về điểm này, chính Công
đồng chung Vaticanô đã nhắc tới: “... Giáo Hội còn cử hành hết sức trọng thể
vào dịp Lễ Phục Sinh sự sống lại cùng với cuộc thương khó hồng phúc của Người”
(PV, 102).
Để cụ thể hoá việc cử hành hết
sức trọng thể Tuần Thánh và Tam nhật Vượt qua, chúng ta cần nhớ các điểm sau
đây:
1. Phải tôn trọng thời gian cử
hành, nơi cử hành và cơ cấu các buổi cử hành, như đã được quy định trong Sách
Lễ Rôma. Các yếu tố này có một ý nghĩa biểu hiệu của chúng và đã có một truyền
thống lâu đời. Chúng ta cần lưu tâm để không đem những sáng kiến cá nhân vào,
làm lệch lạc cơ cấu, mất ý nghĩa nội tại của chúng.
2. Phải chuẩn bị trước các đồ
dùng cần thiết cho mỗi buổi cử hành. Các thừa tác viên, nhất là các linh mục
chủ sự phải biết rõ các nghi lễ cử hành. Các người giúp lễ phải được tập dượt
trước để biết các việc phải làm và các cử chỉ, điệu bộ phải có. Linh mục nên
dành thời giờ để đọc trước nghi lễ sẽ cử hành, các bản văn phụng vụ, các lời
kinh phải đọc, nhất là khi có các lời kinh khác nhau có thể chọn lựa. Con số
người giúp lễ cũng phải liệu con số đầy đủ để có thể nói là buổi cử hành trọng
thể nhất trong năm. Thay vì chỉ có linh mục và một người giúp lễ mà thôi.
3. Giáo dân cần được giải thích
trước để hiểu ý nghĩa các lễ nghi mà mỗi năm họ chỉ tham dự một lần mà thôi. Vì
thế, nếu được nên có những lời giải thích, vào những ngày trước khi cử hành,
hoặc trước giờ cử hành các nghi lễ.
Phần vụ dành cho tín hữu: các
lời đọc, đối đáp, phận vụ phụng vụ, những bái hát, cần để cho họ tham dự và
thực hiện, thay vì một số người làm hết, hát hết, thay cho cộng đoàn.
4. Tính cách cộng đoàn cần phải
được tôn trọng hết sức. Vì thế, các lễ nghi riêng rẽ, cần giảm bớt, nếu không
vì lý do mục vụ chính đáng và luật phụng vụ cho phép. Các nhóm nhỏ, cũng phải
hy sinh các sinh hoạt riêng rẽ trong Tuần Thánh để dành tất cả thời giờ cho
việc chuẩn bị và tham dự các lễ nghi Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh với cộng đoàn
giáo xứ. Không nên cử hành riêng một lễ nghi cho một nhóm nào.
5. Tại nhà thờ chính tòa, tất cả
các nghi thức phải được cử hành do giám mục giáo phận chủ sự. Đức Thánh Cha đã
chủ sự các lễ nghi từ Chúa Nhật Lễ Lá và Tam Nhật Thánh tại Rôma. Nếu vai trò
chủ sự của giám mục cần thiết cho các buổi cử hành khác có tính các giáo phận,
thì trong Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh vai trò chủ sự này càng quan trọng hơn
và ý nghĩa hơn (x. Sách Cử hành Phụng vụ của Giám mục, Caeremoniale
episcoporum, số 296).
6. Tính cách trọng thể được biểu
lộ qua việc hát trong khi cử hành. Vì thế, các ca trưởng phải chọn lựa bài
thánh ca cho từng buổi cử hành đã được Hội đồng Giám mục chấp thuận, và chọn
theo ý nghĩa của mỗi lễ nghi, mỗi buổi cử hành. Các phần chung, cần tìm các bài
hát thật dễ cho cộng đoàn cùng hát. Các phần dành cho linh mục, thừa tác viên
cũng cần được hát do các vị này.
7. Kèm với các buổi cử hành, cần
có bầu khí và sự chuẩn bị tâm hồn: vì thế cố tạo bầu khí hồi tâm, cầu nguyện,
trước khi cử hành các lễ nghi Tuần thánh. Thói quen nói truyện cho tới lúc cử
hành phụng vụ làm cản trở bầu khí cần thiết này.
Để chuẩn bị nội tâm xứng đáng,
một việc phải thực hiện, đó là thanh tẩy tâm hồn qua Bí tích Thống Hối và Hoà
Giải. Việc xưng tội là một yếu tố quan trọng để cử hành Mầu nhiệm Vượt qua, để
lãnh nhận dồi dào ơn thánh từ mầu nhiệm này. Bức thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II gửi các linh mục trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm 2001 đã nói về Bí tích
Hoà Giải, như là biểu lộ lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, chính
các linh mục phải ý thức điều này, năng lãnh nhận Bí tích Thống Hối và Hòa
Giải, giúp giáo dân ý thức về tội, và các linh mục cũng phải siêng năng ngồi
toà giải tội. Vì thế, mỗi tín hữu cần cử hành bí tích này với tất cả ý thức về
tầm quan trọng của bí tích, về hiệu lực thanh tẩy tâm hồn khỏi tội, và xưng thú
tội tội của mình với linh mục. Và tránh để đến giờ phút chót của ngày Thứ Bảy
Tuần Thánh.
8. Các buổi cử hành các việc đạo
đức bình dân, có ý nghĩa và mục đích riêng của chúng. Tuy nhiên, không được lấn
át việc cử hành phụng vụ, đặc biệt Phụng vụ Tuần Thánh. Việc ngắm nguyện, nếu
nơi nào còn giữ, cần tổ chức cho hoà hợp với buổi cử hành phụng vụ. Việc ngắm
Đàng Thánh Giá cũng thế. Phải khuyến khích tham dự đầy đủ buổi cử hành phụng vụ.
Phải có khoảng thời gian thích hợp giữa buổi cử hành phụng vụ và việc đạo đức
bình dân như ngắm nguyện, nhất là khi việc ngắm nguyện kéo dài. Như vậy, giáo
dân có khoảng trống thinh lặng và thanh thản để suy niệm, nghiền ngẫm, cầu
nguyện, để tham dự và lãnh hội ơn thánh từ các buổi cử hành phụng vụ và các
việc đạo đức bình dân.
III. Một số lưu ý
đặc biệt
Sau đây là một số điểm lưu ý đặc
biệt liên hệ tới các buổi cử hành trong Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh.
1. Chúa Nhật Lễ Lá
Nghi thức của ngày Chúa Nhật Lễ
Lá gồm có việc rước kiệu tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách
trọng thể và tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, rồi việc công bố trọng thể bài thương
khó của Chúa Giêsu theo Thánh Mathêô (năm A), Marcô (năm B) và Luca (năm C), và
sau cùng là Thánh lễ. Ba nghi thức này nói lên vinh quang của Chúa Kitô và đồng
thời chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa. Tất cả cho thấy hành trình của Chúa
Kitô trong những ngày cuối cùng cuộc đời Ngài. Ngài được tôn vinh qua thập giá.
Lễ nghi cần có đủ thừa tác vụ, phó
tế, nếu có, để cử hành cuộc rước kiệu bình thường, để cầm thánh giá, đèn nến,
bình hương và tàu hương, sách lễ; ba phó tế, hoặc ca viên để công bố bài Thương
khó. Nghi thức làm phép lá nên cử hành tại một nơi khác ngoài nhà thờ, để sau
đó có thể đi kiệu vào nhà thờ. Các Thánh vịnh 23 và 46 nên được chọn hát khi đi
kiệu để tôn vinh Chúa chiến thắng. Khi công bố bài Thương khó, không dùng
hương, không lời chào ban đầu; được công bố do ba phó tế, hay do hai ca viên và
linh mục giữ vai Chúa Giêsu. Không được bỏ giảng sau bài Thương khó.
2. Thánh lễ làm phép và thánh hiến các loại dầu
Thánh lễ làm phép và thánh hiến
dầu nói lên biểu hiệu của dầu thánh trong các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Truyền
Chức Thánh và Xức Dầu Bệnh Nhân, cũng như một số phụ tích như Nghi thức Thánh
hiến Nhà thờ và Bàn thờ. Ngoài ra thánh lễ làm phép dầu cũng biểu lộ sự hiệp
thông giữa giám mục và linh mục đoàn trong giáo phận. Vì thế, các linh mục cố
gắng đến đồng tế với giám mục trong thánh lễ này tại nhà thờ chính toà, ít là
các vị có trọng trách đặc biệt trong giáo phận, như các cha quản hạt, cha
sở.... Giáo dân cũng được mời gọi tham dự đông đảo hết sức. Vì thế, nếu không
cử hành Thánh lễ Dầu vào sáng thứ năm được, thì cử hành vào một ngày nào gần
nhất trước Thứ Năm Tuần Thánh, hoặc sau Chúa Nhật Phục Sinh để có sự tham dự
đông đảo hơn từ linh mục và giáo dân.
Tín hữu cũng được giải thích cho
biết ý nghĩa các loại dầu thánh dùng để cử hành các bí tích ban ơn cứu rỗi. Dầu
cũ được đốt đi và cha sở lấy dầu mới về. Nên có nghi thức để tiếp đón dầu
thánh, như một nghi thức vắn tắt tiếp đón dầu thánh tại giáo xứ, trước Thánh lễ
Tiệc ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh. Cũng có thể cử hành vào một thời gian khác
với buổi phụng vụ lời Chúa để tôn kính dầu thánh và giúp giáo dân hiểu thêm ý
nghĩa các loại dầu thánh. Dầu phải được cất giữ tại một chỗ xứng đáng trong
phòng thánh, trong hộc có khóa kỹ và dễ nhận ra khi cần dùng tới.
3. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh
Trong Thánh lễ Tiệc ly chiều Thứ
Năm Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành nghi thức rửa chân, thánh lễ tưởng niệm việc
Chúa Kitô lập phép Thánh Thể và chức linh mục, cũng như ban bố giới luật mới
tức là giới luật yêu thương. Sau cùng có việc kiệu Thánh Thể và chầu Thánh Thể
tại nhà nguyện nhỏ cho tới nửa đêm.
Các linh mục ngụ trong giáo xứ,
hay ở các cộng đoàn nhỏ của tu sĩ linh mục trong giáo xứ được mời cùng đồng tế
trong thánh lễ tưởng niệm bữa tiệc ly này. Trong ngày thứ năm, các linh mục
không được làm lễ riêng. Nếu nhu cầu mục vụ thực sự đòi hỏi, giám mục giáo phận
có thể cho phép cử hành một thánh lễ khác, cho những người không thể tham dự lễ
chiều được, nhưng không được cho phép làm cho một nhóm mà thôi. Thánh lễ có hát
kinh Vinh danh, có kinh “Cùng hiệp thông” riêng (Communicantes), cũng như kinh
“Vậy lạy Cha” (Hanc igitur) riêng nếu đọc Kinh nguyện Thánh Thể I. Các thừa tác
viên cũng phải có đủ, để giúp lễ và công bố Lời Chúa. Theo truyền thống, các
người được chọn để rửa chân là những người đàn ông. Chuông, đàn được dùng cho
tới hết kinh Vinh danh. Trước thánh lễ, cần để nhà tạm Mình thánh trống. Liệu
đủ bánh lễ để truyền và dùng cho buổi cử hành phụng vụ ngày thứ năm và ngày hôm
sau. Nhà tạm để chầu Mình Thánh nên dọn đơn sơ, không quá nhiều hoa, nến, nhưng
trưng bày có mực độ. Tại nhà nguyện chầu Thánh Thể, cần có sách hát, sách Kinh
Thánh để cộng đoàn dùng khi chầu Thánh Thể. Trong các giờ chầu, nên dành giờ để
cầu nguyện và suy niệm riêng trong thinh lặng xen kẽ với việc đọc Kinh Thánh,
như các chương 13–17 của Phúc Âm Thánh Gioan, hát xen kẽ, đọc kinh. Sau nửa đêm
thì hết chầu công cộng. Và chỉ còn chầu riêng mà thôi, cho tới giờ cử hành
phụng vụ chiều thứ sáu.
Sau các nghi lễ, thì lột hết các
khăn trên bàn thờ. Thánh giá được che bằng một tấm vải đỏ hay tím, nếu trước đó
chưa được phủ từ chiều thứ bảy trước Chúa nhật thứ 5 Mùa chay.
Không tổ chức kiệu và đặt Mình
thánh Chúa trong các nhà thờ không cử hành Nghi lễ chiều thứ sáu Tuần thánh
tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa Kitô.
4. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh
Tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đau
khổ và chết trên thánh giá. Vì thế, Giáo Hội hồi tâm, thinh lặng ăn chay kiêng
thịt để chia sẻ cuộc thương khó của Chúa và như là mở tâm hồn đón nhận ơn cứu
rỗi. Nếu có thể thì tại nhà thờ giáo xứ, cha xứ và giáo hữu cũng cử hành Giờ
Kinh sách và Kinh sáng chung với nhau tại nhà thờ; hoặc với giám mục tại nhà
thờ chính tòa. Sáng thứ bảy cũng nên cử hành các giờ kinh phụng vụ này.
Chỉ trao Mình Thánh vào buổi cử
hành phụng vụ sau trưa. Đối với bệnh nhân, thì có thể kiệu Mình Thánh bất cứ
lúc nào. Không cử hành bí tích nào, ngoài bí tích giải tội và xức dầu bệnh
nhân. Nếu phải cử hành nghi thức an táng, thì không có hát, đánh đàn, kéo
chuông.
Sau trưa vào khoảng 3 giờ, nơi
nào có thể, thì cử hành Nghi lễ Tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, nếu
không thì cử hành vào giờ thuận tiện sau đó, nhưng không cử hành sau 21 giờ.
Nghi lễ này gồm có Phụng vụ Lời Chúa mà cao điểm là việc công bố bài thương khó
theo Thánh Gioan; sau đó là Lời nguyện chung đại thể, rồi việc tôn kính Thánh
giá cách trọng thể, và sau cùng là việc rước lễ với Mình Thánh đã được truyền
phép hôm trước.
Các phần này được hiểu trong
tương quan với nhau, như sau: Lời Chúa và nhất là Bài Thương khó theo Thánh
Gioan, cho thấy ý nghĩa cuộc thương khó của Chúa; sau đó mọi người cầu nguyện
cho các hạng người, như là ơn cứu rỗi được thông ban cho mọi người; tiếp theo
Giáo Hội biểu lộ lòng tôn kính Đấng cứu thế qua việc tôn kính Thánh Giá, và sau
cùng, qua việc rước lễ, tín hữu kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô để tôn vinh
Chúa Cha.
Cần có đủ các thừa tác viên để
công bố Bài Thương khó, cử hành nghi thức tôn vinh Thánh Giá, kiệu Thánh Thể về
để rước lễ. Khi kiệu Thánh Giá và mở khăn che Thánh Giá, linh mục mời mọi người
cùng thờ lạy. Nên để giây lát để thờ lạy Thánh Giá trong thinh lặng. Thánh Giá
để hôn kính phải lớn đủ và nghệ thuật và chỉ dùng một thánh giá mà thôi, để cho
thấy ơn cứu rỗi chỉ từ Thánh Giá Chúa Kitô mà phát sinh ra. Nếu nhiều người
quá, thì dùng một Thánh giá, và sau khi một số người đã hôn kính, linh mục giơ
cao lên, nói vài lời và mọi người cúi đầu thờ lạy Thánh Giá. Sau Nghi thức, thì
lột khăn bàn thờ. Nhưng để Thánh Giá với 4 cây nến trên đó. Cũng có thể dọn một
nhà nguyện, để tín hữu tiếp tục đến suy niệm, hôn kính Thánh Giá.
Có thể ngắm đàng Thánh Giá, học
suy niệm về các sư đau khổ của Mẹ Maria, trong những lúc khác, ngoài Nghi thức
Phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
5. Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh
Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo
Hội ở bên mộ Chúa để suy ngắm cuộc tử nạn của Chúa Kitô, việc Ngài xuống mồ,
biểu hiệu tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi của Ngài, và chờ mong Chúa sống
lại, qua việc cầu nguyện và ăn chay. Có thể cử hành giờ Kinh sách và Kinh sáng
như sáng Thứ Sáu Tuần Thánh.
Hôm nay chỉ cho rước lễ như của
ăn đàng mà thôi. Không cử hành lễ cưới và các bí tích khác trừ Bí tích Giải Tội
vá Xức Dầu Bệnh Nhân.
Trong nhà thờ có thể để cho tín
hữu kính viếng ảnh Chúa chịu nạn, ảnh Chúa bị chôn trong mồ, ảnh Đức Mẹ sầu bi.
Chiều đến Giáo Hội cử hành canh
thức vọng đón chờ Chúa Kitô sống lại. Đây là buổi Canh thức chính yếu, là mẹ
các buổi canh thức khác. Giáo Hội chờ Chúa sống lại và cử hành các bí tích khai
tâm kitô giáo (Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể). Buổi canh thức Vọng Phục Sinh
cũng mang tính cách cánh chung, vì Giáo Hội chờ ngày Chúa sẽ đến trong vinh
quang.
Buổi Canh thức Vọng Phục Sinh cử
hành vào giờ đêm bắt đầu và phải kết thúc trước hừng đông ngày Chúa Nhật. Không
được cử hành vào giờ chiều, như vẫn cử hành Thánh lễ Chúa nhật vào chiều thứ
bảy.
Cơ cấu Canh thức Vọng Phục Sinh
gồm có Công bố Phục sinh, Phụng vụ Lời Chúa, Phụng vụ các Bí tích khai tâm Kitô
giáo, và Phụng vụ Thánh Thể.
Các dấu hiệu được dùng trong
buổi cử hành này, cần được thực hiện một cách nghiêm chỉnh: nến phục sinh phải
là một cây nến mới cho mỗi năm, và bằng sáp. Tránh những hình thức giả tạo. Rồi
việc làm phép lửa mới, rước nến phục sinh cũng cần thực hiện theo Sách Lễ Rôma,
thế nào để cho thấy biểu hiệu Chúa Kitô sống lại là ánh sáng trần gian.
Thày phó tế hay một ca viên khác
công bố Tin Mừng Phục Sinh với sự trang trọng và làm cho mọi người nhận ra ý
nghĩa siêu nhiên của đêm canh thức này. Khi một ca viên không phải là pho tế
công bố Bài Tin Mừng Phục Sinh, thì không xin phép lành của linh mục chủ sự.
Các bài sách thánh trích từ Cựu
ước (7) Tân ước (1) và bài Phúc Âm, để giáo huấn tín hữu và dự tòng về biến cố
vượt qua của Chúa Kitô, việc cứu rỗi con người, giao ước mới, tạo vật mới, đời
sống mới của những người được tái sinh trong Chúa Kitô. Vì lý do mục vụ có thể
bớt các bài đọc Sách Thánh này, nhưng phải đọc ít là 3 bài Cựu ước (sách Luật
và Ngôn sứ) và hai bài Tân ước, nhưng không bao giờ được bỏ đoạn 14 của sách
Xuất hành. Các Thánh vịnh đáp ca được chọn để suy niệm các bài Sách Thánh, vì
thế phải hát các Thánh vịnh này và không được thay thế bằng các bài hát khác.
Các linh mục có thể nói mấy lời dẫn giải trước các bài Sách Thánh, nhưng không
nên quá dài dòng, thay thế cho chính Lời Chúa. Sau các bài đọc cựu ước, tới
Kinh Vinh danh. Có thể kéo chuông nếu có tục lệ này.
Phần thứ ba của Nghi lễ Canh
thức Vọng Phục Sinh là cử hành các Bí tích khai tâm Kitô giáo. Nếu không có dự
tòng là người lớn, thì ít ra có việc rửa tội cho trẻ con. Trước khi làm phép
Rửa Tội, linh mục làm phép nước để dùng rửa tội và rảy trên giáo hữu trong đêm
vọng này và trong cả Mùa Phục Sinh. Nếu không có nghi lễ Rửa Tội, thì cũng có
thể làm phép nước, rồi rảy nước thánh cho tín hữu cùng với việc tuyên lại lời
hứa rửa tội. Khi tuyên lại các lời hứa rửa tội, mọi người đứng, cầm nến cháy và
trả lời các câu hỏi của linh mục. Sau đó linh mục rảy nước thánh trên cộng
đoàn.
Thánh lễ cử hành cách trang
nghiêm, sốt sắng và không vội vã, sợ rằng buổi lễ kéo dài quá. Việc rước lễ có
ý nghĩa đặc biệt trong Canh thức Vọng Phục Sinh vì để tín hữu kết hiệp với hy
tế của Chúa Kitô và sự sống lại của Ngài.
6. Chúa Nhật Phục Sinh
Chúa Nhật Phục Sinh là đại lễ và
phải cử hành hết sức trọng thể. Nên cử hành việc rảy nước thánh thay cho nghi
thức thống hối đầu lễ. Chiều Chúa Nhật Phục Sinh, có thể hát Kinh chiều kính
nhớ Bí tích Rửa Tội, trong đó, khi hát các Thánh vịnh, có cuộc rước kiệu xuống
giếng nước rửa tội. Các tân tòng được mời tham dự buổi Kinh chiều này và tham
dự các thánh lễ trong cả tuần Bát Nhật Phục Sinh. Thời xưa, đây là thời kỳ các
tân tòng được giải thích cho hiểu về các mầu nhiệm trong đạo, nên gọi là thời
kỳ nhiệm huấn. Nến Phục Sinh được đặt gần bàn thờ hay gần Toà Công bố Lời Chúa
và được đốt lên trong thánh lễ, kinh sáng và kinh chiều của các lễ lớn suốt Mùa
Phục Sinh. Sau giờ Kinh chiều II Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Nến Phục Sinh
được đặt tại Giếng rửa tội, và được đốt lên khi cử hành Bí tích Rửa Rội, đặt
bên quan tài người chết trong thánh lễ an táng. Ngoài hai dịp này, không đốt
nến phục sinh vào các buổi lễ khác và không để ở gian cung thánh hay trong
phòng thánh, để cho thấy ý nghĩa riêng biệt của biểu tượng này trong Mùa Phục
Sinh.
Tôi vừa ghi lại một số điểm liên
hệ tới ý nghĩa Tuần Thánh và Tam Nhật Thánh, việc cử hành Tuần quan trọng này
và một số những điểm chử đỏ đặc biệt. Tôi không muốn ghi lại hết các điểm chữ
đỏ. Những điều khác xin đọc trong Sách lễ Rôma, Bản văn các Quy luật tổng quát
về Năm phụng vụ, Thư của Bộ Phụng tự về việc chuẩn bị và cử hành Lễ Phục sinh
và Mùa phục sinh (ngày 16 tháng giêng năm 1988), hoặc Lịch phụng vụ công giáo
Việt Nam. Xin cầu chúc tất cả Tuần Thánh sốt sắng và Lễ Phục sinh tràn đầy ơn
sủng của Chúa sống lại.
Rôma ngày 4-4-2001
(Cập nhật: 19/04/2011 -
11:49:59)
ĐÔ. Ph. Borgia Trần Văn Khả