THIÊN CHÚA YÊU TA
1. Thiên Chúa là Tình yêu
Nhìn
vào cạnh sườn của Đức Giêsu bị đâm thâu, mà Gioan nói đến (Ga 19,51), có thể
giúp chúng ta hiểu lời mà cũng chính tác giả này khẳng định: “Thiên Chúa là
Tình yêu” (1 Ga 4,8).
Đúng
vậy, Thiên Chúa là Tình yêu. Không rõ ai đã quả quyết rằng, nếu tất cả những cuốn
Kinh thánh trên thế giới bị hủy hoại, vì một thiên tai hay nhân tai nào đó (như
chính sách phần thư của Tần Thủy Hoàng, phong trào đập phá ảnh tượng thế kỷ 8,
nhóm Hồi giáo quá khích hiện nay phá hủy tất cả những dấu tích Kitô giáo..), mà
chỉ còn sót lại một cuốn, và ngay cả cuốn này cũng bị hư hại nặng, chỉ còn một
trang tương đối không việc gì, và trang còn sót này cũng nhòe mờ, chỉ còn một
dòng chữ có thể đọc được, và nếu dòng đó là câu trích trong thư Gioan trên đây (Thiên
Chúa là Tình yêu), thì bằng ấy cũng đủ để cho rằng Kinh thánh được cứu vãn, vì
tất cả được chứa đựng trong câu ấy.
Tình
yêu của Thiên Chúa là ánh sáng, hạnh phúc, sự sống tràn đầy. Đó là dòng nước mà
tiên tri Êdêkiel thấy vọt ra từ hông bên phải đền thờ, chảy tới đâu thì đem lại
sự sống tới đó. Đó cũng là nước được hứa ban cho người phụ nữ xứ Samari, để người
ta không còn khát nữa. Đức Giêsu cũng lặp lại cho chúng ta lời Ngài đã nói với
người phụ nữ: “Nếu ngươi nhận ra hồng ân của Thiên Chúa”. Hồng ân của Thiên
Chúa cũng chính là tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu ấy ở trong tầm tay ta, có
thể soi sáng mọi sự, sưởi ấm mọi sự trong đời sống của ta, nhưng, buồn thay,
chúng ta lại sống trong bóng tối lạnh lẽo. Đó là lý do thực sự duy nhất khiến
cho cuộc đời chúng ta ảm đạm.
Thiên
Chúa là Tình yêu, và thập giá Đức Kitô là bằng chứng tối thượng của tình yêu ấy,
là chứng minh tình yêu ấy trong lịch sử.
Theo
Nicola Cabasilas, một tác giả Kitô giáo nổi tiếng bên Đông phương, có hai cách
chứng minh tình yêu của mình đối với ai đó. Cách thứ nhất là làm điều tốt cho
người mình yêu, chẳng hạn tặng quà. Cách thứ hai, đòi hỏi hơn, là chịu khổ vì
người đó. Thiên Chúa đã yêu ta theo cách thứ nhất, tức là, bằng một tình yêu quảng
đại, khi tạo dựng Ngài đã ban cho chúng ta vô vàn hồng ân, bên trong cũng như
bên ngoài. Ngài cũng yêu ta theo cách thứ hai, khi chịu khổ hình để cứu chuộc
ta. Ngài đã tự hủy mình, dám chịu những đau khổ khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất,
để lấy tình yêu của mình mà chiến thắng tội lỗi của ta. Do đó, chính trên thập
giá mà ta chiêm ngắm sự thật này: Thiên Chúa là Tình yêu.
Chữ
“khổ nạn” (passio) có hai nghĩa. Nó có thể chỉ một tình yêu mạnh mẽ đến đam mê,
hoặc một sự đau khổ chết người. Có một sự liên tục giữa hai hình thức đó. Kinh
nghiệm thường ngày cho thấy từ hình thức này sang hình thức kia cũng dễ lắm.
Nơi Thiên Chúa cũng thế thôi. Origène viết : Có một cuộc Khổ nạn xẩy ra trước
việc Nhập thể. Đó là cuộc “khổ nạn của tình yêu”, luôn được Thiên Chúa dành cho
nhân loại. Khi thời gian tới hồi viên mãn, cuộc khổ nạn của tình yêu ấy đưa
Ngài xuống thế và chịu khổ vì ta.
2. Ba cấp bậc cao cả
Có
một cách mới biện minh cho đức tin kitô giáo, có lẽ là cách duy nhất có thể làm
hiện nay, và chắc chắn là cách hữu hiệu nhất. Nó không đưa những giá trị siêu
nhiên đối chọi với những giá trị tự nhiên, tình yêu của Thiên Chúa với tình yêu
của con người, eros với agape, nhưng cho thấy sự hài hòa nguyên
thủy giữa chúng, phải được chúng ta khám phá và không ngừng chữa trị, vì tội lỗi
và sự mỏng dòn của con người.
Trong
thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”, ĐGH Bênêđitô XVI viết: “Eros muốn đưa chúng ta, trong tình trạng
xuất thần, tới Thiên Chúa, vượt lên trên chính chúng ta, chính vì thế, nó đòi hỏi
con đường đi lên, từ bỏ, thanh luyện và chữa trị” (số 5).
Đúng
là Phúc âm có cạnh tranh với các lý tưởng của nhân loại, nhưng theo nghĩa đen,
tức là cạnh tranh trong việc thực hiện những lý tưởng ấy. Phúc âm chữa trị
chúng, nâng chúng lên và bảo vệ chúng. Phúc âm không khai trừ eros khỏi đời sống, nhưng khai trừ nọc độc
do sự ích kỷ của eros mang lại.
Theo
Pascal, có ba cấp độ hay thứ bậc nói lên sự cao cả. Cấp đầu tiên là cấp thể chất,
cấp thân xác. Đáng kể ở cấp này là người có thân hình tốt, như có sức khỏe của
lực sĩ, có vẻ đẹp của thiên thần. Đây là một giá trị không nên khinh thường,
nhưng vẫn chỉ là cấp thấp nhất.
Lên
trên là bậc thiên tài và thông minh, trong đó nổi bật nhất là các nhà tư tưởng,
người phát minh, khoa học gia, nghệ sĩ, thi sĩ. Cấp này có một phẩm chất khác hẳn.
Giầu hay nghèo, xấu hay đẹp, chẳng thêm gì cho thiên tài cả, cũng chẳng lấy mất
đi cái gì của họ. Hình dạng xấu xí kỳ dị của Socrates chẳng hạn, không liên hệ
gì đến nét đẹp tư tưởng của ông. [Hay như Stephen Hawking, sinh năm 1942, nhà vật
lý lý thuyết, vũ trụ học, người Anh, nổi tiếng thế giới, mắc bệnh về thần kinh
vận động liên quan tới hội chứng teo cơ, khiến cho ông hầu như tê liệt toàn
thân, ngồi vênh trên xe lăn, giao tiếp qua một thiết bị hỗ trợ giọng nói…]
Thiên
tài là một giá trị chắc chắn cao hơn cấp bậc thân xác, nhưng chưa phải là giá
trị tối thượng. Trên tất cà còn có một cấp vĩ đại khác, đó là cấp tình yêu, cấp
của sự tốt lành, được Pascal gọi là cấp thánh thiện và ân sủng. Theo Gounod, một
giọt nước thánh thiện còn hơn cả một đại dương thiên tài. Đẹp người hay xấu
dáng, thông minh hay thất học, không thêm gì cho vị thánh, cũng chẳng lấy mất
đi cái gì của người đó. Sự cao cả của người đó thuộc về một cấp bậc khác hẳn.
Kitô
giáo thuộc vào cấp thứ ba. Trong tiểu thuyết “Quo Vadis”, một người ngoại giáo hỏi Phêrô lúc ông vừa tới Rôma:
“Athènes đã cho chúng tôi sự khôn ngoan, Rôma đã cho chúng tôi quyền lực, còn
tôn giáo của ông thì cho chúng tôi cái gì?”
Phêrô trả lời: “Tình yêu”. Kitô giáo cho người ta tình yêu. Tình yêu là
một cái gì rất mong manh, giống như một đứa trẻ, tưởng như chẳng giúp được gì
so với muôn vàn thứ khác. Nhưng qua kinh nghiệm, có thể thấy : quyền lực, khoa
học, sức mạnh, thiên tài sẽ như thế nào, nếu không có tình yêu và lòng nhân.ái.
3. Tình yêu tha thứ
Cũng
thông điệp “Thiên Chúa là Tình yêu” viết: “Eros
của Thiên Chúa đối với con người cũng hoàn toàn là agape. Không chỉ vì eros
được ban tặng cách hoàn toàn nhưng không, không do một công trạng nào trước đó,
mà còn vì đó là tình yêu tha thứ” (số 10).
Đặc
tính này cũng sáng chói ở mức cao nhất trong mầu nhiệm thập giá: “Không có tình
thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”
(Ga 15,13). Nghe lời trên đây, hẳn chúng ta muốn kêu lên : Lạy Chúa, chắc chắn
có một tình yêu lớn hơn là hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu, đó là tình yêu của
Chúa. Chúa đã không hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu, mà là cho kẻ thù.
Phaolô nói rằng khó tìm được người nào sẵn sàng chết cho một người công chính.
Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết
vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng
Thiên Chúa yêu thương chúng ta (Rm 5,7-8).
Thế
nhưng, người ta sớm nhận ra rằng sự tương phản giữa bạn và thù chỉ là ngoài mặt.
Chữ “bạn hữu” theo nghĩa năng động chỉ những người yêu ta, theo nghĩa thụ động
chỉ những người ta yêu. Đức Giêsu gọi Giuđa là bạn (Mt 26,50), không phải vì
Giuđa yêu Ngài, nhưng vì Ngài yêu anh ta. Không có tình yêu nào lớn hơn là hy
sinh mạng sống mình cho người thù nghịch, khi coi họ là bạn hữu. Đó là ý nghĩa
câu nói của Đức Giêsu. Con người có thể cư xử như những kẻ thù của Thiên Chúa,
chứ Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thể là kẻ thù của con người.
Chúng
ta phải suy nghĩ một cách thức cụ thể, qua đó tình yêu của Đức Kitô trên thập
giá có thể giúp bao nhiêu người ngày hôm nay tìm ra con đường để sống và yêu.
Cách thức ấy là tình yêu thương xót, một tình yêu bỏ qua những lỗi lầm và tha
thứ, một tình yêu không muốn làm hại kẻ thù, nhưng là phá bỏ sự thù ghét (x.Ep
2,16).
Tiên
tri Giêrêmia, người gần gũi nhất với Đức Kitô chịu khổ nạn, khi bị người ta ngược
đãi, đã thưa với Chúa: “Con thấy Ngài trị tội chúng là đích đáng” (Gr 11,20).
Còn trên thập giá, Đức Giêsu lại cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ
không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Ngày
hôm nay, chúng ta cần đến lòng thương xót và khả năng tha thứ này, để có thể
chiến thắng bạo lực đang tràn lan trên thế giới.
Phaolô
viết cho các tín hữu Colossê: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa,
hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm
nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em
người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì
anh em cũng vậy, anh em phải biết tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13).
4. Bổn phận phải yêu thương
Tình
yêu của Thiên Chúa, biểu lộ qua thập giá Đức Kitô, còn dạy ta một bài học khác.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thì trung thành và mãi mãi. Người nói
với con người qua các tiên tri: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên
ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3), hoặc qua lời thánh vịnh: “Ta
quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín bất trung” (Tv
88/89,34). Thiên Chúa luôn dấn thân vào tình yêu. Người không còn được tự do
lui trở lại. Chính đó là ý nghĩa sâu xa của giao ước, đã trở thành “mới và vĩnh
cửu” trong Đức Kitô.
Trong
thông điệp “Thiên Chúa là Tình yêu” Đức Bênêđitô XVI viết: “Để thăng tiến và
thanh luyện chiều sâu, tình yêu cần sự dứt khoát theo một ý nghĩa kép : theo
nghĩa độc chiếm – chỉ người này mà thôi – và theo nghĩa mãi mãi. Tình yêu bao
trùm toàn bộ cuộc sống trong mọi chiều kích của nó, kể cả chiều kích thời gian.
Điều này không thể khác được, vì sự hứa hẹn của nó nhắm vào sự dứt khoát : tình
yêu nhắm đến vĩnh cửu” (số 6).
Trong
nhiều xã hội hiện nay, người ta ngày càng tự hỏi xem có liên hệ nào giữa tình
yêu của đôi bạn trẻ với luật về hôn nhân chăng. Một tình yêu bộc phát giữa hai
người, muốn sống cho nhau, thì cần cái gì? Ngày càng có nhiều người không muốn
thể chế hôn nhân, chỉ muốn được tự do yêu nhau, chung sống với nhau, không có
gì ràng buộc hết.
Trả
lời thế nào? Chỉ có thể trả lời đúng đắn cho những vấn đề trên, chỉ có thể nói
cho người trẻ một lý do thuyết phục giúp họ đi vào con đường yêu nhau mãi mãi,
không sợ biến tình yêu thành bổn phận, nếu giúp họ thấy được mối tương quan sâu
xa, có tính chất sinh tử, giữa tình yêu và lề luật, giữa quyết định tự do của
cá nhân và thể chế.
Sau
Platon, triết gia Kierkegaard đã có những phát biểu rất hay về tình yêu. Ông
nói: “Chỉ khi có bổn phận phải yêu, thì tình yêu mới được bảo đảm mãi mãi không
hao mòn, mãi mãi được tự do trong độc lập hạnh phúc, mãi mãi hạnh phúc mà không
bao giờ phải thất vọng”.
Câu
trên muốn nói thế này : Con người chúng ta khi yêu, càng yêu mặn nồng thì càng
lo lắng, vì nhận ra mối nguy bắt gặp trong tình yêu. Mối nguy này không đến từ
người khác, nhưng từ chính chúng ta. Quả thực, ta biết rằng mình hay thay đổi lắm,
nay yêu mai có thể chán. Bây giờ đang yêu, sợ mai chán sẽ gây ra những mất mát
không thể sửa chữa. Thế nên ta đi bước trước bằng cách dùng luật mà ràng buộc
tình yêu của mình. Con người nhất thời có thể thay đổi, còn luật thì không. Nhờ
có luật bảo vệ mà tình yêu được bảo đảm. Hành vi yêu bắt đầu trong thời gian sẽ
bám sâu trong vĩnh cửu.
Lý
do ràng buộc này cũng tựa như lý do của Ulysse trong thần thoại Hy lạp. Sau nhiều
năm chinh chiến lưu lạc, Ulysse nhất quyết trở về quê hương, sống dưới mái nhà
xưa. Nhưng ông phải vượt qua vùng biển có nhiều nàng tiên cá. Những mỹ nhân ngư
này sẽ dùng tiếng hát quyến rũ làm lung lạc ông và đoàn thủy thủ, khiến tầu có
thể đâm vào đá ngầm. Vậy ông đã làm gì? Đã đổ sáp vào tai các thủy thủ và bảo họ
trói chặt ông vào cột buồm. Lúc đến chỗ các nàng tiên cá, ông quát các thủy thủ
mở trói cho ông, nhưng không một ai có thể nghe ông nói gì, vì lỗ tai họ đã bị
bít. Nhờ đó mà ông thoát hiểm, về lại được với vợ con.
Đây
chỉ là một câu chuyện hoang đường, nhưng cũng giúp ta hiểu vì sao cần có hôn
nhân bất khả đoạn tiêu, và, trên một bình diện khác, vì sao có những lời khấn
dòng.
Bổn
phận phải yêu bảo vệ cho tình yêu khỏi thất vọng, làm cho tình yêu được “độc lập
hạnh phúc”, theo nghĩa giúp cho người ta khỏi thất vọng vì không được yêu nhau
mãi mãi.
Cũng
Kierkegaard còn nói : anh hãy dẫn đến với tôi một người yêu thực sự, người đó sẽ
nói cho anh biết, trong tình yêu, có sự đối kháng giữa lạc thú và bổn phận
không, ý nghĩ về bổn phận phải yêu suốt đời có làm cho người yêu sợ hãi và lo lắng
không, hay đúng hơn, đem lại niềm vui và hạnh phúc.
Trong
một ngày Tuần thánh, Chúa Kitô đã hiện ra với Chân phước Angela Foligno (nhà thần
bí người Ý, thuộc dòng ba Phan sinh, qua đời năm 1309), và nói lời bất hủ: “Ta
đã yêu ngươi không phải là chuyện đùa”. Đức Kitô yêu ta cũng không phải chuyện
đùa. Tình yêu có chiều kích vui đùa, nhưng chính tình yêu lại không phải là
chuyện đùa.
Tình
yêu là chuyện nghiêm túc nhất, mà cũng gây ra nhiều hậu quả nhất trên thế giới.
Nhà viết kịch Eschyle so sánh tình yêu với một chú sư tử con nuôi trong nhà,
lúc đầu thì dễ dạy lắm đến nỗi trẻ em có thể vui đùa với nó, nhưng khi lớn lên,
nó có thể phá phách, thậm chí gây thương tích cho những người trong nhà nữa.
Những
điều nói trên sẽ không đủ để gây ảnh hưởng trên văn hóa thời thượng hiện nay, một
văn hóa ca ngợi sự tự do thay đổi tùy hứng, ca ngợi cách hành xử “dùng xong rồi
vất” được áp dụng ngay cả cho tình yêu. Dù sao, đối với những người thấy được vẻ
đẹp của tình yêu, thấy sự lựa chọn của mình là đúng, muốn quyết định sống đời
hôn nhân giữa một người nam và một người nữ theo ý Thiên Chúa muốn, thì những điều
trên đây giúp củng cố quyết định của họ, đồng thời củng cố những người trẻ nào
cũng muốn lựa chọn và quyết định theo một cách thức tương tự.
Giờ
đây, chúng ta cùng với Phaolô xướng lên bài ca ngợi tình yêu chiến thắng của
Thiên Chúa. Phaolô đã nhìn lại tất cả những tiêu cực và khó khăn trong cuộc đời
mình : gian truân, lo lắng, bách hại, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm
giáo. Ngài nhìn lại những điều đó và thấy Thiên Chúa thật sự yêu ngài, nên ngài
đã kêu lên: “Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng
ta” (Rm 8,37).
Tiếp
đó, ngài ngước mắt lên, nhìn ra thế giới chung quanh, nhìn tới vận mệnh của
toàn thể nhân loại, và một lần nữa mạnh mẽ xác quyết: “Đúng thế, tôi tin rằng :
cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài
thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Chúng
ta hãy nghe lời mời gọi của Phaolô, nhìn lại những trải nghiệm trong cuộc đời
mình, thấy rằng luôn được tình yêu của Chúa giúp sức và nâng đỡ, để rồi biết
thường xuyên xác quyết: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên
Chúa, trong Đức Giêsu Kitô”.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ Sáu Tuần thánh năm 2006, tại Vương cung Thánh đường
Thánh Phêrô)
Lm
Micae Trần Đình Quảng