KITÔ GIÁO VÀ CHỦ NGHĨA DUY TỤC
1. Sự tục hóa và chủ
nghĩa duy tục
Qua
Tự sắc thiết lập Hội đồng Giáo hoàng nhằm cổ võ công cuộc Phúc âm hóa mới,
chúng ta được biết Hội đồng này “phục vụ các Giáo hội địa phương, đặc biệt
trong những miền có truyền thống Kitô giáo, nơi người ta thấy rõ có hiện tượng
tục hóa.
Tục
hóa (sécularisation) là một hiện tượng phức tạp và lưỡng giá. Nó có thể chỉ sự
tự trị của những thực tại trần thế, tách biệt vương quốc của Thiên Chúa với
vương quốc của Cêsar. Theo nghĩa này, nó không đi ngược lại Phúc âm đã đành, mà
còn có gốc rễ sâu xa trong Phúc âm nữa. Tuy vậy, nó cũng có thể chỉ toàn bộ
thái độ ngược lại với tôn giáo và đức tin. Trong trường hợp này, nên gọi nó là
chủ nghĩa duy tục (sécularisme). Chủ nghĩa duy tục so với tục hóa cũng giống
như chủ nghĩa khoa học so với khoa học tính và chủ nghĩa duy lý so với lý tính.
Xem
xét những trở ngại và thách đố mà đức tin gặp phải trong thế giới hôm nay,
chúng ta phải hiểu sự tục hóa theo nghĩa tiêu cực. Tuy vậy, sự tục hóa cũng
mang nhiều bộ mặt tùy như nó xuất hiện trong lãnh vực nào : thần học, khoa học,
đạo đức học, chú giải Kinh thánh, văn hóa tổng quát, cuộc sống hàng ngày. Trong
bài này, chúng ta hiểu tục hóa theo nghĩa tiêu cực. Quả thực, cũng như chủ
nghĩa duy tục, sự tục hóa phát xuất từ chữ la tinh “saeculum”. Theo nghĩa thông thường, saeculum là thời gian hiện tại,
đối nghịch với vĩnh cửu. Theo nghĩa này, chủ nghĩa duy tục đồng nghĩa với chủ
nghĩa trần thế (temporalisme), nghĩa là chỉ còn hiểu theo chiều kích trần thế.
Việc
loại bỏ khía cạnh vĩnh cửu hay sự sống vĩnh cửu gây ảnh hưởng tai hại cho đức
tin Kitô giáo. Nó bóp nghẹt hoặc dập tắt đức tin này. Thế nhưng tin vào sự sống
vĩnh cửu lại là một trong những điều kiện để có thể Phúc âm hóa. Phaolô nói: “Nếu
chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô mà chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những
kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15,19).
2. Sự thăng trầm của ý
tưởng về sự sống vĩnh cửu
Chúng
ta nhắc lại đôi nét về lịch sử niềm tin vào sự sống đời sau, nhờ đó chúng ta hiểu
thêm sự mới mẻ mà Phúc âm mang lại trong lãnh vực này.
Trong
Do thái giáo của Cựu ước, niềm tin này được xác quyết muộn màng. Chỉ sau thời
lưu đầy, khi thấy những chờ đợi ở đời này không đem lại kết quả gì, dân Chúa mới
nghĩ tới sự sống lại của thân xác, và phần thưởng ở đời sau dành cho những người
công chính. Tuy vậy, không phải ai cũng chia sẻ niềm tin này, trong đó có nhóm
Sađốc.
Như
vậy, những người như Feuerbach, Marx, Freud.. đã sai, khi cho rằng tin vào Thiên Chúa cũng như mong được phần
thưởng đời đời, tất cả chỉ là phóng chiếu vào đời sau những gì mong ước ở đời
này mà không có được. Là vì, Israel đã
tin vào Thiên Chúa hàng thế kỷ trước khi tin vào phần thưởng đời đời ở thế giới
bên kia. Thế nên, không phải vì muốn được phần thưởng trên trời mà người ta tin
Thiên Chúa, nhưng chính vì tin Thiên Chúa mà người ta tin có phần thưởng trên
trời.
Đức
Kitô đến mạc khải đầy đủ về cuộc sống vĩnh cửu. Ngài không đặt nền cho sự chắc
chắn của cuộc sống này trên bản tính con người hay sự bất tử của linh hồn,
nhưng trên “quyền năng của Thiên Chúa”, Đấng không phải là “Thiên Chúa của kẻ
chết, nhưng của người sống” (Lc 20,27-38). Các Tông đồ thì dựa vào sự Phục sinh
của Chúa, để tin vào sự sống lại của thân xác và vào sự sống đời đời. “Nếu
chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong anh em
có người lại nói : không có chuyện kẻ chết sống lại?...Nhưng không phải thế, Đức
Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những kẻ đã an giấc ngàn thu” (1 Cr
15,12.20).
Cũng
vậy, trong thế giới Hy La, quan niệm về thế giới bên kia cũng tiến triển. Ý tưởng
xa xưa nhất là cái chết chấm dứt sự sống, chỉ còn lại vẻ bề ngoài của sự sống
trong thế giới âm u tối tăm. Với sự xuất hiện của tôn giáo theo Orphê và
Pythagorê, người ta thấy có ý tưởng mới mẻ : khi được giải thoát khỏi nhà tù
thân xác thì có thể sống đời sống thật của mình. Sau này Platô đưa ý tưởng này
vào trong triết học của ông, xây dựng nó trên bản tính thiêng liêng bất tử của
linh hồn.
Tuy
nhiên, niềm tin này cũng chỉ có ở một số ít người, những người được khai tâm
vào mầu nhiệm, và những môn sinh của các trường phái triết học đặc biệt. Còn đa
số dân chúng vẫn tin tưởng như xưa, cho rằng chết là hết.
Do
đó, chúng ta có thể hiểu việc Kitô giáo loan báo một cuộc sống đời sau tốt đẹp
hơn rất nhiều so với cuộc sống đời này, cũng như so với cuộc sống tối tăm sau
khi chết, có tác động như thế nào.
Chủ
nghĩa vô thần hiện nay khác với thế kỷ XIX. Vô thần hiện nay chối bỏ sự hiện hữu
của Thiên Chúa, đang khi vô thần ở thế kỷ XIX chủ yếu phủ nhận thế giới bên kia.
Hegel từng tuyên bố: “Các Kitô hữu phí phạm cho cõi trời những năng lực lẽ ra phải
dành cho cõi đất”. Feuerbach, và nhất là Marx, đã vay mượn ý tưởng trên, chống lại
niềm tin của người Kitô hữu vào cuộc sống sau khi chết, lấy lẽ niềm tin này làm
cho người ta không còn dấn thân vào cuộc sống hiện tại. Thay thế cho sự sống tiếp
tục tồn tại nơi Thiên Chúa sau khi chết, người ta nghĩ sự sống ấy nối dài trong
chủng loại hoặc trong xã hội tương lai.
Dần
dần, ý tưởng về đời sau bị quên lãng, không được nhắc đến nữa. Chủ nghĩa duy vật,
cộng với khuynh hướng tiêu thụ trong những xã hội giầu có, càng làm cho người
ta chỉ biết đến đời này, khiến cho những ai còn nói đến đời sau cảm thấy lạc
lõng, cũng như khiến cho các tín hữu cảm thấy rụt rè e ngại, khi phải nói lên
niềm tin của mình về cuộc sống vĩnh cửu.
Thử
nhớ lại xem bài giảng cuối cùng về cuộc sống ấy, chúng ta được nghe lúc nào.
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tiếp tục tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống
lại và sự sống đời sau”, nhưng dường như không còn thấy nó quan trọng trong đời
sống.
Kierkegaard
hẳn có lý khi viết: “Thế giới bên kia trở thành trò cười, một đòi hỏi không chắc
chắn, đến nỗi không ai còn tôn trọng nó nữa, không ai muốn đối mặt với nó nữa,
đến nỗi ngay cả nghĩ rằng đã có lúc ý tưởng về đời sau làm biến đổi tất cả cuộc
sống đời này, thì ý nghĩ ấy cũng khiến cho người ta mỉm cười thôi”.
Ý
tưởng về cuộc sống đời đời lu mờ đi như vậy đem lại hậu quả thực tế ra sao? Hậu
quả ấy, thánh Phaolô coi là mục tiêu của những ngươi không tin kẻ chết sống lại:
“Chúng ta cứ ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết” (1Cr 15,32). Ước muốn
tự nhiên được sống mãi bị biến dạng, trở thành ước muốn sống cuộc đời này sao
cho thỏa mãn, cho dù có gây thiệt hại cho người khác. Cả thế giới giống như nước
Ý mà thi sĩ Dante nói ở thời của ông: “Tiền bạc của thế gian làm cho chúng ta
thành dữ tợn”. Thực tế, một khi chân trời vĩnh cửu biến mất, nỗi đau khổ của
con người trở thành gấp đôi, không thể chữa trị được.
3. Vĩnh cửu vừa sẽ đến
vừa đang có
Câu
trả lời hữu hiệu nhất cho chủ nghĩa duy tục, không phải là chống lại sự sai lầm
của nó, cho bằng giúp cho người ta thấy rõ sự sống vĩnh cửu là chắc chắn, dựa
trên sức mạnh nội tại của chân lý, có chứng từ về đời sống đi kèm. Một Giáo phụ
đã viết: “Người ta luôn có thể chống lại một tư tưởng bằng một tư tưởng khác, một
ý kiến bằng một ý kiến khác, nhưng có thể lấy gì để chống lại một đời sống?”
Chúng
ta phải đáp lại chân lý ấy bằng ước muốn sâu xa nhất của tâm hồn. Có người đã
trách ông Miguel Unamuno (triết gia người Tây Ban Nha), đã quá khao khát đời sống
vĩnh cửu, với một thái độ như tự hào về việc này. Tuy không phải là nhà hộ
giáo, ông cũng đã trả lời: “Tôi nói rằng điều đang xẩy ra không làm cho tôi thỏa
mãn, tôi khao khát vĩnh cửu, không có nó, tôi chẳng thiết gì nữa. Tôi cần nó.
Không có nó thì sống cũng chẳng vui vẻ gì, niềm vui cuộc sống không có nghĩa gì
cả. Thật quá dễ dãi khi nói : Phải sống, phải hài lòng với cuộc sống. Thế những
ai không hài lòng với nó thì sao?”.
Tác
giả còn thêm : không phải người ao ước vĩnh cửu khinh chê thế giới và cuộc sống
trần gian này, ngược lại, chính người không ao ước mới khinh chê. “Những ai yêu
cuộc sống mà không quan tâm xem có bao giờ mình vĩnh viễn mất nó hay không,
chính những người ấy mới không yêu cuộc sống”. Thánh Augustinô cũng không nói
khác hơn: “Cui non datur semper vivere,
quid prodest bene vivere?” (Sống tốt thì ích lợi gì nếu nó không đưa tới sự
sống vĩnh cửu?).
Những
người nào ở thời đại hôm nay cảm thấy nhu cầu về sự sống vĩnh cửu, nhưng lại
không có can đảm thú nhận với người khác, chúng ta có thể nói với họ bằng những
lời của Phaolô nói với dân Athêna: “Điều quý vị không biết…tôi xin rao giảng
cho quý vị” (Cv 17,23).
Câu
trả lời của Kitô giáo cho chủ nghĩa duy tục, theo nghĩa chúng ta đang nói đây,
không dựa trên tư tưởng triết học như Platô, tức dựa trên sự bất tử của linh hồn,
nhưng trên một sự kiện. Thời thế kỷ khai sáng, người ta đặt ra vấn đề : làm sao
có thể biện minh cho việc Kitô giáo hứa ban một đời sống vĩnh cửu, đồng thời
cũng đe dọa một hình phạt vĩnh cửu, về những việc đã làm trong cuộc đời này?
Giải
đáp duy nhất có giá trị dựa trên niềm tin vào sự Nhập thể của Thiên Chúa. Trong
Đức Giêsu Kitô, vĩnh cửu đã đi vào thời gian, được tỏ bầy trong xác phàm. Trước
sự hiện diện của Ngài, người ta có thể có một quyết định liên hệ đến sự sống đời
đời. Chính như vậy mà thánh Gioan đã viết: “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống
đời đời, sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bầy cho chúng tôi”
(1 Ga 1,2).
Đối
với người Kitô hữu chúng ta, vĩnh cửu không chỉ là điều hy vọng sẽ đến trong
tương lai, mà còn là điều đang có trong hiện tại. Chúng ta cảm nghiệm được điều
này, mỗi lần chúng ta làm một hành vi tin thực sự vào Đức Kitô, vì ai tin vào
Ngài thì “có sự sống đời đời” (1 Ga 5,13); hoặc mỗi lần rước lễ, trong đó chúng
ta “được ban bảo chứng về vinh quang mai hậu” (futurae gloriae nobis pignus
datur); hoặc mỗi lần chúng ta nghe lời Phúc âm, là lời “đem lại sự sống đời đời
(Ga 6,68). Thánh Tôma cũng nói rằng “ân sủng là khởi đầu của vinh quang”.
Sự
hiện diện của vĩnh cửu trong thời gian được gọi là Chúa Thánh Thần, “bảo chứng
phần gia nghiệp của chúng ta” (Ep 1,14 ; 2 Cr 5,5), đã được ban cho ta, để khi
nhận được những của đầu mùa, chúng ta khát vọng sự viên mãn. Thánh Augustinô viết:
“Đức Kitô đã ban cho ta bảo chứng của Chúa Thánh Thần, qua đó, chính Ngài, Đấng
không thể dối ta, đã muốn bảo đảm cho ta là lời Ngài hứa sẽ được thực hiện.
Ngài đã hứa gì? Hứa sự sống đời đời, mà Chúa Thánh Thần, Đấng Ngài ban cho ta,
là bảo chứng”.
4. Ta là ai? Từ đâu tới?
Đi về đâu?
Giữa
đời sống đức tin ở trần gian và đời sống vĩnh cửu có mối tương quan giống như
giữa đời sống của phôi thai trong lòng mẹ và đời sống của một đứa trẻ mới sinh.
Cabasilas
(nhà thần học và thần nghiệm nổi tiếng của Chính thống giáo) viết: “Thế giới
này sinh một con người mới, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng, con người đã
được nặn đúc và có hình hài ở trần gian này, được sinh ra hoàn hảo cho một thế
giới hoàn hảo và mãi mãi tươi trẻ. Cũng như thiên nhiên chuẩn bị phôi thai, nằm
trong tối tăm, cho một đời sống trong ánh sáng, cũng vậy là đời sống các thánh.
Tuy nhiên, đối với phôi thai, sự sống tương lai tuyệt đối ở tương lai, không có
ánh sáng nào chiếu tới nó, không có gì của cuộc đời này đến với nó. Đối với
chúng ta thì không như vậy, vì thời tương lai đã như đảo ngược và hòa lẫn vào
thời hiện tại. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ, các thánh không những chuẩn bị sống,
nhưng là đang sống và hành động trong cuộc sống này”.
Có
những câu hỏi mà con người, xưa cũng như nay, không ngừng đặt ra cho mình : Ta
là ai? Ta từ đâu đến? Ta đi về đâu?
Trong
cuốn Lịch sử Giáo hội Anh quốc, thánh Bêđa Đáng Kính thuật chuyện đức tin Kitô
giáo đã được truyền vào miền Bắc nước Anh như thế nào. Khi các thừa sai từ Rôma
đến vùng Northumberland, vua Edwin đã triệu tập hội đồng các quan chức cao cấp
để quyết định xem có nên cho phép phổ biến sứ điệp mới hay không. Một cận thần lên
tiếng:
“Tâu
bệ hạ, xin bệ hạ hình dung cảnh tượng này : bệ hạ đang ngồi ăn với các quan chức
cao cấp. Thời tiết đang là mùa đông, căn phòng có lửa sưởi ấm, trong khi bên
ngoài có gió bão và mưa tuyết. Bỗng một con chim nhỏ chui qua lỗ trên tường vào
nhà, rồi lại ra khỏi nhà qua một lỗ khác. Khi còn ở trong phòng, nó được bảo vệ
khỏi gió bão lạnh lẽo, nhưng sau một lúc sưởi ấm, nó lại bay đi, mất hút trong
bóng tối mùa đông. Đời sống con người trên trái đất cũng giống như thế. Chúng
ta hoàn toàn không biết điều sẽ xẩy ra hay đã xẩy ra. Nếu giáo thuyết này mang
lại cho chúng ta điều gì đó bảo đảm hơn điều ấy, thần cho rằng cần đón nhận
nó”.
Có
thể đức tin Kitô giáo rồi ra sẽ trở lại trên nước Anh và lục địa châu Âu, vì
cùng một lý do đã khiến nó du nhập vào đây : đó là chỉ đức tin mới có câu trả lời
bảo đảm cho những vấn nạn của cuộc đời trần gian. Cơ hội thuận tiện nhất giúp
cho người ta đón nhận sứ điệp là dịp an táng. Dự nghi thức an táng thì ít chia
trí hơn dự nghi thức rửa tội hay hôn phối chẳng hạn. Đây chính là dịp cho người
ta suy nghĩ về số phận của mình. Khi khóc cho một người thân, người ta cũng
khóc cho chính mình.
Có
lần đài BBC phát thanh trực tiếp một nghi thức an táng “phần đời”. Người chủ sự
nói với các người tham dự: “Chúng ta không nên buồn. Sống một cuộc đời tốt đẹp
trong 70 năm như người quá cố đây, quả là một điều gì đó mà chúng ta phải mang
ơn”. Chúng ta không hiểu ông muốn nói mang ơn ai. Loại nghi thức an táng này
cho thấy rõ sự thất bại hoàn toàn của con người trước cái chết.
Được
mời gọi cắt nghĩa hiện tượng an táng theo “phần đời”, thịnh hành tại một số nước
châu Âu, các nhà xã hội học, các người có văn hóa đưa ra lý do này : nhiều người
hiện diện không muốn chia sẻ đức tin trong nghi lễ an táng tôn giáo. Người ta đề
nghị như sau : Khi an táng, Giáo hội nên tránh mọi hình thức ám chỉ tới Thiên
Chúa, tới cuộc sống đời sau, tới Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại, Giáo hội
chỉ nên đóng vai người tổ chức có kinh nghiệm về việc an táng. Nói khác đi,
Giáo hội nên chấp nhận sự tục hóa ngay cả trong cái chết.
5. Chúng ta hãy đi về
nhà Chúa
Chúng
ta phải tin vào đời sống vĩnh cửu, với một đức tin được canh tân. Đức tin này
không những cần thiết cho việc Phúc âm hóa, mà còn như một đà tiến giúp cho hành trình của chúng ta hướng tới sự thánh
thiện. Khi không còn ý tưởng về đời sống vĩnh cửu, khả năng đương đầu với những
đau khổ và thử thách trong cuộc đời cũng giảm sút, thậm chí không còn nữa.
Mà
thử thách trong cuộc đời này nhiều lắm. Tất cả dường như quá nặng đối với chúng
ta. Trong Phúc âm, Đức Giêsu nói: “Nếu tay anh hoặc chân anh làm cớ cho anh sa
ngã, thì hãy chặt mà ném đi. Thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn
là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh
sa ngã, thì hãy móc mà ném đi, thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có
đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hỏa ngục” (Mt 18,8-9). Khi không còn để ý gì đến đời
sống vĩnh cửu, chúng ta sẽ coi là quá đáng khi người ta đòi chúng ta nhắm mắt
trước một cảnh tượng vô luân.
Thánh
Phaolô dám viết rằng: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ
mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng
ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô
hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì
chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2Cr 4,17-18).
Sức nặng của gian truân thì nhẹ nhàng, vì nó chỉ tạm thời, còn sức nặng của
vinh quang thì vô hạn, vì nó vĩnh cửu. Chính vì thế, cũng thánh Tông đồ có thể
quả quyết: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh
sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
Đối
với hoàng đế Ađrianô, chết là vượt qua từ thực tại đến bóng tối, còn theo Đức Chân
phước Hồng y Newman thì, ngược lại, chết là vượt qua từ bóng tối đến thực tại,
như câu mà ngài muốn người ta khắc trên bia mộ ngài : ex umbris et imaginibus in veritatem (từ bóng tối và hình ảnh đến
chân lý).
Tuy
vậy, có một chân lý không thể không nói tới, đó là : sự vượt qua từ thời gian tới
vĩnh cửu không phải là con đường thẳng băng và như nhau cho mọi người. Còn có
việc xét xử của Thiên Chúa, và việc xét xử này đưa người ta đến một trong hai
nơi : thiên đàng hoặc hỏa ngục. Newman theo khuynh hướng tu đức khắc khổ, thứ
tu đức của Dies irae (“Ngày thịnh nộ”;
hai chữ đầu của bài Ca tiếp liên Thánh lễ an táng). Tuy vậy thứ tu đức này có
ích biết bao, ở một thời mà người ta thích sống buông thả, và chế nhạo ý tưởng
về đời sau, như Kierkegaard nói.
Với
đà tiến mới, chúng ta hãy hướng tới đời sống vĩnh cửu, vì biết rằng, như lời một
thi sĩ, “Ở thế gian này, tất cả đều là hư không, trừ ra vĩnh cửu”.
Trong
kho tàng Thánh vịnh, có một số Thánh vịnh được gọi là “những Thánh vịnh lên đền”
hoặc “những bài ca Sion”. Đây là những Thánh vịnh ca ngợi người Do thái hành
hương lên thành thánh Giêrusalem. Một trong số Thánh vịnh đó bắt đầu bằng câu:
“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi : ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa” (Tv
122/121,1). Đền thánh Chúa chính là nhà Chúa.
Từ
đây, những Thánh vịnh này thuộc về những người, trong Giáo hội, đang tiến về
Giêrusalem thiên quốc. Chúng trở thành Thánh vịnh của chúng ta.
Khi
chú giải những lời đầu tiên của Thánh vịnh trên, thánh Augustinô nói với giáo
dân : Chúng ta chạy, vì sẽ đi về nhà Chúa; chúng ta chạy, vì cuộc chạy này
không làm chúng ta nhọc mệt, và đích điểm cũng không có nhọc mệt. Chúng ta chạy
đến nhà Chúa, và linh hồn chúng ta vui mừng vì những người thấy quê trời trước
chúng ta, và đang lặp lại cho ta những lời ấy. Quả thực, các Tông đồ đã thấy nó
và nói với chúng ta : Anh em hãy chạy đi, hãy mau lên, hãy theo chúng tôi. Nào
chúng ta hãy đi về nhà Chúa.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giàng Mùa Vọng năm 2010 tại Phủ Giáo hoàng)
Lm
Micae Trần Đình Quảng