PHÚC ÂM HÓA BẰNG NIỀM VUI
1. Niềm vui cánh chung
Trong
“Phúc âm thời thơ ấu”, thánh Luca, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, không chỉ
trình bầy cho chúng ta những sự kiện và nhân vật, mà hơn thế nữa, còn tái tạo bầu
không khí và tình trạng tâm trí lúc xẩy ra sự kiện. Niềm vui là một trong những
yếu tố hiển nhiên nhất của thế giới thiêng liêng. Lòng đạo đức Kitô giáo đã
không lầm, khi, trong tràng hạt Mân côi, đã gọi những biến cố trong cuộc đời
thơ ấu của Đức Giêsu là “những mầu nhiệm vui”, trong đó có Năm Sự Vui.
Thiên
thần đã hứa với ông Dacaria là ông “sẽ được vui mừng hớn hở” ngày con trai của
ông chào đời, và “nhiều người cũng được hỷ hoan” về ngày đó (x. Lc 1,14). Có một
từ hy lạp (agalliasis, nhảy mừng), mà từ lúc này sẽ gặp lại trên môi miệng những
nhân vật khác. Từ này chỉ “niềm vui cánh chung dành cho thời cứu thế vừa khởi sự”.
Trước
lời chào của Đức Maria, đứa con trong bụng bà Elisabet “nhảy lên vui sướng” (Lc
1,44). Hành vi này loan báo niềm vui của “bạn của chú rể” vì thấy chú rể hiện
diện (x. Ga 3,29tt). Niềm vui này đạt tới tột đỉnh trong tiếng kêu của Đức
Maria: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa” (Lc 1,47), rồi lan tỏa
hòa lẫn với niềm vui âm thầm của láng giềng và gia đình đang quây quần chung
quanh chiếc nôi của vị Tiền hô (x. Lc 1,58), để rồi cuối cùng bùng nổ trong
ngày Đức Giêsu sinh ra, qua lời thiên thần nói với các mục đồng: “Này tôi báo
cho anh em một tin mừng trọng đại” (Lc 2,10).
Đây
không phải là những mảnh vụn niềm vui chỗ này chỗ khác, nhưng thực sự là một
cơn vui, một niềm vui âm thầm và sâu lắng, trải dài trong “Phúc âm thời thơ ấu”,
từ đầu đến cuối, biểu lộ bằng nhiều cách khác nhau : có cách thức của Đức Maria
trỗi dậy đi thăm bà Elisabet, có cách thức của các mục đồng đi viếng Hài nhi
Giêsu, có cách thức qua những cử chỉ khiêm tốn bày tỏ niềm vui gắn liền với một
cuộc thăm viếng, những lời chào chúc, ước nguyện, quà tặng. Đặc biệt là niềm
vui biểu lộ trong tâm trạng sững sờ, biết ơn, cảm động, niềm vui được nhận ra
nơi người chủ xướng: “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Người đã nhớ lại giao
ước”. Những gì người ta đã cầu xin – xin Thiên Chúa nhớ lại lời hứa – thì nay
được thực hiện.
Những
nhân vật trong “Phúc âm thời thơ ấu” hành động và nói năng như trong mơ, mà
Thánh vịnh 126, tức Thánh vịnh trở về sau cuộc lưu đầy, đã ca lên: “Khi Chúa dẫn
tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu
cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại người ta bàn
tán: “Việc Chúa làm cho họ vĩ đại thay”. Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại. Ta thấy
mình chan chứa một niềm vui”.
Lời
sau cùng của Thánh vịnh này, Đức Maria đã biến thành của mình khi Người kêu
lên: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”. Ở đây, ta được thấy
một tấm gương tinh tuyền nhất phản chiếu sự “say sưa có điều độ” Thần Khí. Sự
say sưa của các nhân vật là sự “say sưa Thần Khí” thật sự, nhưng là sự say sưa
“có điều độ”. Các người đó không đưa mình lên, không bận tâm về chỗ đứng ít nhiều
quan trọng trong lòng Vương quốc mới mẻ của Thiên Chúa, cũng không bận tâm nhìn
thấy lúc cuối đời, ngược lại, người như ông Simêon nói rằng : bây giờ Chúa có
thể để ông ra đi bình an, có thể để ông biến mất. Điều quan trọng là công trình
của Thiên Chúa được tiếp tục, bất kể có các người đó hay không.
2. Từ phụng vụ đến đời
sống
Từ
Kinh thánh và phụng vụ, giờ đây chúng ta đi vào đời sống, tới đối tượng mà lời
Chúa luôn nhắm đến. Tác giả Phúc âm không chỉ có ý thuật truyện, nhưng còn muốn
độc giả phải chú ý, lôi kéo họ như các mục đồng vào trong đoàn người tiến về
Belem. Theo một nhà chú giải hiện đại, ai đọc những hàng chữ này, đều được mời
gọi chia sẻ niềm vui ấy. Chỉ có cộng đồng những người tin vào Đức Giêsu Kitô và
những tín hữu mới có thể hiểu những bản văn này.
Do
đó chúng ta hiểu vì sao những đoạn Phúc âm về thời thơ ấu không có nhiều điều để
nói với những người chỉ muốn tìm trong đó câu truyện lịch sử. Ngược lại, những
ai biết tìm kiếm ý nghĩa của lịch sử, lại thấy có lắm điều để suy niệm. Nhiều sự
kiện đã thực sự qua đi, nhưng chúng không là “lịch sử” theo nghĩa đích danh, vì
không để lại dấu vết nào trong lịch sử. Chúng không tạo ra cái gì cả. Nhưng những
sự kiện liên hệ đến cuộc đản sinh của Đức Giêsu lại là những sự kiện lịch sử
theo nghĩa mạnh nhất, vì chúng không những đã xẩy ra, mà còn có ảnh hưởng quyết
định đến lịch sử thế giới.
Trở
lại với chủ đề niềm vui. Niềm vui từ đâu mà đến ? Nguồn mạch cuối cùng của nó
là chính Thiên Chúa, là Ba Ngôi. Thế nhưng chúng ta đang ở trong thời gian, còn
Thiên Chúa lại ở trong vĩnh cửu, vậy làm sao niềm vui lại có thể lan tràn giữa
hai bình diện cách xa nhau đến thế? Quả thực, đọc kỹ Kinh thánh, chúng ta thấy
rằng nguồn mạch trực tiếp làm vọt lên niềm vui là ở trong thời gian. Chính
Thiên Chúa hành động trong lịch sử. Và nơi nào Thiên Chúa hành động, nơi đó như
có một làn sóng vui mừng lan rộng qua muôn thế hệ.
Mỗi
lần Thiên Chúa hành động đều có một phép lạ làm cho trời đất phải ngỡ ngàng.
Tiên tri Isaia đẽ kêu lên: “Hãy vui sướng reo lên, hỡi các tầng trời, vì Đức
Chúa đã ra tay” (Is 44,23 ; 49,13). Niềm vui tự tâm hồn Đức Maria và tự tâm hồn
các chứng nhân khác, vào buổi đầu việc cứu độ, hoàn toàn dựa trên lý do này :
Thiên Chúa đã cứu Israel, Thiên Chúa đã hành động, Người đã thực hiện những việc
lạ lùng.
Làm
sao niềm vui này trước hành động của Thiên Chúa có thể lan khắp và thấm nhiễm
Giáo hội hôm nay ? Giáo hội làm được, tiên vàn bằng cách tưởng niệm những việc
kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho Giáo hội. Giáo hội đã làm cho lời kinh của Đức
Maria trở thành lời kinh của mình: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều
cao cả”. Kinh Magnificat là một bài
ca, mà Đức Mẹ là người đầu tiên xướng lên, giống như người ca trưởng vẫn xướng
một bài hát. Đức Mẹ đã để lại cho Giáo hội bài ca này, để Giáo hội lưu tồn nó đến
muôn đời. Trên thực tế, có biết bao việc lạ lùng Chúa đã làm cho Giáo hội suốt
hai mươi thế kỷ qua.
Theo
một nghĩa nào đó, chúng ta có nhiều lý do khách quan để vui mừng hơn những người
như Dacaria, Simêon, các mục đồng, và nói chung tất cả Giáo hội thời khai sinh.
Giáo hội thời này đã ra đi “mang hạt giống vãi gieo”, như Thánh vịnh 126 nói.
Giáo hội đã nhận được lời hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em”, và những chỉ thị: “Anh
em hãy đi khắp thế gian”. Chúng ta đã thấy mọi sự được thực hiện. Hạt giống đã
trổ sinh, cây Vương quốc trở nên vô cùng to lớn. Giáo hội hôm nay giống như người
gieo giống “trở về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”.
Biết
bao nhiêu ân sủng, bao nhiêu đấng thánh, bao nhiêu giáo thuyết khôn ngoan, bao
nhiêu định chế phong phú, bao nhiêu ơn cứu độ đã được thực hiện trong và qua
Giáo hội. Có lời nào của Đức Kitô mà không được thực hiện trong Giáo hội ? Nếu
có lời nói: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó”, thì cũng có lời
nói khác: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Giáo hội)” (Mt 16,18).
Biết
bao nhiêu lý do khiến Giáo hội, với vô số con cái, phải ngỡ ngàng như Sion mà
nói: “Ai đã sinh cho tôi những đứa con này đây ? Tôi vốn là kẻ đã mất con, người
son sẻ…Những đứa con này, ai đã dưỡng dục chúng ?” (Is 49,21). Khi nhìn lại
phía sau bằng cặp mắt đức tin, ai nấy đều thấy những lời tiên tri nói cho
Giêrusalem mới, được tái thiết sau thời lưu đầy, đã được thực hiện hoàn toàn
trong Giáo hội: “Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với
ngươi. Con trai ngươi từ phương xa tới…Các cửa thành ngươi sẽ luôn mở rộng…để
người ta đem nộp cho ngươi của cải muôn dân” (Is 60,4.11).
Trong
suốt hai mươi thế kỷ, biết bao lần Giáo hội đã mở rộng không gian căn lều của
mình, dù đôi khi chậm chạp và gặp không ít chống đối. Mở rộng căn lều là tiếp
nhận và đưa vào những con người và văn hóa của nhiều dân tộc. Chính cho chúng
ta, những người con của Giáo hội, được “bú no bầu sữa mẹ” Giáo hội, mà lời tiên
tri muốn gửi đến, mời gọi chúng ta vui lên vì Giáo hội, “cùng Giáo hội khấp khởi
mừng” sau khi đã than khóc trong Giáo hội (x. Is 66,10).
Niềm
vui ấy đến với chúng ta, nhờ tưởng niệm những việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm
trong quá khứ. Nhưng niềm vui ấy cũng đến với chúng ta trong hiện tại, vì chúng
ta nhận ra rằng chính hôm nay Thiên Chúa hành động ở giữa chúng ta, trong Giáo
hội.
Nếu
Giáo hội hiện nay, trước sức ép của nhiều công việc và thử thách, muốn tìm lại
can đảm và niềm vui, thì phải mở mắt nhìn những gì Thiên Chúa đang thực hiện,
ngay cả trong Giáo hội. Ngón tay của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, đang viết
trong Giáo hội và trong các tâm hồn những trang sử kỳ diệu về sự thánh thiện. Một
mai, khi những gì là tiêu cực và tội lỗi không còn nữa, có lẽ người thời sau sẽ
nhìn thời kỳ chúng ta đang sống mà ngỡ ngàng và thèm thuồng.
Có
cần nhắm mắt trước bao nhiêu điều xấu trong Giáo hội, làm Giáo hội phải đau buồn,
nhắm mắt trước những phản bội của nhiều thừa tác viên trong Giáo hội chăng ?
Không. Nhưng vì thế giới và các phương tiện truyền thông đã cho thấy rõ những sự
việc xẩy ra trong Giáo hội, thì tốt nhất là, một lần nữa, chúng ta ngước mắt
lên, biết nhìn cả sang phía rạng ngời sự thánh thiện của Giáo hội.
Ở
mỗi thời kỳ, cả trong thời kỳ chúng ta đây, Thần Khí nói với Giáo hội, như
trong thời Isaia Đệ nhị: “Ngay từ bây giờ, Ta cho ngươi biết những điều mới, những
điều còn giữ kín và chưa rõ. Mãi bây giờ điều đó mới được tạo nên, chứ trước
ngày đó, ngươi chưa hề nghe biết bao giờ” (Is 48,67). Luồng gió mạnh của Thần
Khí làm cho dân Chúa lại được sinh động, và làm xuất hiện giữa chúng ta những đặc
sủng, cả thông thường lẫn lạ thường, lại không phải là một “điều mới và được giữ
kín” đó sao ? Dân Chúa yêu mến lời Chúa, giáo dân tham dự tích cực vào sinh hoạt
của Giáo hội và vào việc Phúc âm hóa, sự dấn thân không ngừng của huấn quyền và
của các tổ chức giúp đỡ người nghéo khó, hoạn nạn, mong muốn xây dựng lại sự hiệp
nhất Giáo hội…tất cả những việc trên đây cũng đều là những “điều mới và được giữ
kín”. Chưa kể trong lịch sử của mình, chưa bao giờ Giáo hội có một loạt các
Giáo hoàng, vừa thánh thiện vừa thông thái, nối tiếp nhau trong vòng một thế kỷ
rưỡi trở lại đây ; và có lẽ trừ thời Giáo hội sơ khai ra, chưa bao giờ Giáo hội
có đông đảo các vị chứng nhân đức tin như chúng ta thấy hiện nay.
3. Một tương quan mới
giữa vui mừng và đau khổ
Từ
bình diện Giáo hội, chúng ta sang bình diện hiện sinh và cá nhân.
Vài
năm trước đây, trong một cuộc vận động của cánh vô thần chiến đấu ở Anh, người
ta thấy một khẩu hiệu dán trên các phương tiện giao thông ở London, với hàng chữ:
“Có lẽ không có Thiên Chúa, giờ đây đừng lo lắng và hãy hưởng thụ cuộc sống của
bạn” (There’s probably no God. Now stop worrying and enjoy your life).
Điều
quỷ quyệt của khẩu hiệu không phải ở câu “Không có Thiên Chúa”, nhưng ở câu kết
luận: “Hãy hưởng thụ cuộc sống”. Qua đó, khẩu hiệu ngầm nói rằng niềm tin vào
Thiên Chúa ngăn cản người ta hưởng thụ cuộc sống. Niềm tin ấy là kẻ thù của niềm
vui, không có niềm tin ấy, hẳn là sẽ có nhiều niềm vui hơn trên thế giới. Cần
trả lời cho khẩu hiệu trên, vì nó có thể làm cho người ta, nhất là những người
trẻ, mất đức tin.
Về
niềm vui, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng có thể giúp ích nhiều cho việc
Phúc âm hóa. Vấn đề này, tuy chúng ta đã có lần nói đến, nhưng thiết tưởng cần
được nhắc lại. Có thể thấy một kinh nghiệm chung cho mọi người : trong cuộc sống,
vui thú và đau khổ kế tiếp nhau, theo một nhịp độ đều đặn giống như sóng biển
nhấp nhô lên xuống. Một thi sĩ Rôma ngoại đạo đã viết: “Có một cái gì đó đắng
đót vọt ra từ nơi sâu thẳm của mỗi cuộc vui, làm chúng ta lo âu ngay giữa những
khoái cảm”. Sử dụng ma túy, lạm dụng tình dục, bạo hành chết người, cho người
ta một lúc vui khoái, nhưng lại đưa đến bại hoại luân lý, thậm chí bại hoại
thân xác nữa.
Đức
Kitô đã làm đảo lộn mối tương quan giữa vui thú thú và đau khổ: “Người đã khước
từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá” (Dt 12,2). Không còn
phải là một vui thú kết thúc bằng đau khổ, nhưng là một đau khổ đưa đến sự sống
và niềm vui. Đây không chỉ là sự kế tục khác nhau giữa hai thực tại. Chính niềm
vui mới thắng thế, chứ không phải đau khổ, và niềm vui này thì vĩnh cửu: “Một
khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết
chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6,9). Thập giá kết thúc ngày Thứ Sáu Tuần
thánh, còn hạnh phúc và vinh quang của Chúa nhật Phục sinh thì kéo dài tới vĩnh
cửu.
Mối
tương quan mới giữa đau khổ và vui thú phản ánh ngay trong cách quy định nhịp
thời gian của Kinh thánh. Đối với chúng ta, ngày bắt đầu buổi sáng và kết thúc
ban đêm. Còn theo Kinh thánh, ngày bắt đầu ban đêm và kết thúc ban ngày: “Có một
buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ nhất” (St 1,5). Trong phụng vụ
cũng vậy, lễ trọng bắt đầu Giờ Kinh chiều hôm trước. Điều đó có nghĩa gì ? Có
nghĩa là : nếu không có Thiên Chúa, cuộc đời là một ngày kết thúc bằng bóng
đêm; còn nếu có Thiên Chúa, cuộc đời là một đêm (có khi là “đêm tăm tối”) nhưng
đưa đến ban ngày, một ngày không có hoàng hôn.
Tuy
nhiên, chúng ta cũng phải thấy trước một vấn nạn dễ đưa ra : Vậy phải chăng chỉ
có niềm vui sau khi chết ? và cuộc đời này lại không phải là một “thung lũng đầy
nước mắt” cho người Kitô hữu hay sao ? Không phải thế. Ngược lại, không ai có cảm
nghiệm sâu sắc về niềm vui này hơn người thật sự là tín hữu.
Người
ta kể chuyện một vị thánh có lần đã kêu lên: “Lạy Chúa, quá đủ niềm vui rồi.
Tâm hồn con không thể chứa thêm được nữa!”. Thánh Phaolô nói rằng các tín hữu
vui mừng vì có niềm hy vọng (spe gaudentes) (x. Rm 12,12). Điều đó không chỉ có
nghĩa là “họ hy vọng được vui mừng hạnh phúc” (hiểu ngầm trên thiên đàng), mà
còn “vui mừng hạnh phúc vì hy vọng”, hạnh phúc ngay bây giờ, vì hy vọng.
Niềm
vui của người Kitô hữu là niềm vui nội tâm, không đến từ bên ngoài, nhưng từ
bên trong, giống như một vài hồ nước ở miền núi Alpes : nước không do con sông
nào từ bên ngoài đổ vào, nhưng từ mạch ngầm bên dưới.. Niềm vui phát sinh từ
hành động nhiệm mầu và hiện tại của Thiên Chúa, nơi tâm hồn con người sống
trong ân sủng. Nó có thể tràn ngập trí lòng giữa những cơn gian nan thử thách
(x. 2Cr 7,4). Nó là “hoa quả của Thần Khí” (Gl 5,22 ; Rm 14,17), nguồn mạch
bình an cho tâm hồn, nguồn mạch đầy ý nghĩa trong đời sống. Nó giúp người ta có
thể yêu thương, để mình được yêu thương, nhất là có thể hy vọng, vì không thể
vui nếu không có hy vọng.
Năm
1972, Hội đồng châu Âu, theo lời đề nghị của ông Herbert von Karajan, đã nhận
Bài ca hân hoan kết thúc bản giao hưởng số 9 của Beethoven làm Bài ca chính thức
của châu Âu hợp nhất. Chắc chắn đây là một trong những đỉnh cao của âm nhạc thế
giới. Tuy nhiên, niềm vui được ca ngợi trong Bài ca này là niềm vui được mong ước
hơn là được hứa và đang có. Đó là một tiếng kêu phát xuất từ trái tim hơn là
đáp ứng với nhu cầu của con người. Hơn nữa, trong lời của Bài ca, trích trong
thi phẩm của Schiller, có thể thấy niềm vui không dành cho mọi người, nhưng chỉ
những ai được đặc ân mà cuộc sống ban cho, mới có được mà thôi.
Quả
là còn xa với lời mời gọi cùa Đức Giêsu: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh
nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Bài ca
Kitô giáo thật sự ca ngợi niềm vui chính là bài Magnificat của Đức Mẹ. Bài ca
này phát xuất từ một tâm trí nhảy mừng, vì những gì Thiên Chúa đã thực hiện nơi
Mẹ, và những gì Thiên Chúa đã làm cho tất cả những ai bé mọn và đói khát trên thế
giới.
4. Làm chứng niềm vui
Chúng
ta phải làm chứng niềm vui này. Ai ai cũng tìm kiếm nó. Thánh Augustinô nói:
“Không gì hơn là nghe chữ này. Mọi người đều đứng lên và nhìn bạn, có thể nói
là nhìn vào tay bạn, xem bạn có thể cho họ điều gì đó mà họ cần”. Tất cả chúng
ta đều muốn được hạnh phúc. Đó là điều chung cho mọi người, tốt cũng như xấu. Tất
cả chúng ta thích vui vẻ, vì chúng ta đều biết vui. Quả thực, nếu đã không biết
vui, nếu đã không được dựng nên để vui, hẳn là chúng ta sẽ không thích vui.
Hoài niệm về niềm vui là phần của tâm hồn đương nhiên mở rộng để đón nhận tin
vui.
Khi
người ta đến gõ cửa Giáo hội, ngay cả khi họ làm điều đó với thái độ hung hăng
giận dữ, chính là vì họ tìm kiếm niềm vui, đặc biệt là giới trẻ. Thế giới chung
quanh họ là một thế giới buồn. Buồn, không phải do thiếu thốn vật chất, vì người
sống trong những nước giầu buồn nhiều hơn người sống trong những nước nghèo.
Isaia
đã nói với dân Chúa như sau: “Anh em các ngươi là những kẻ ghét bỏ và trục xuất
các ngươi vì danh Ta. Chúng nói : xin Đức Chúa tỏ vinh quang của Người để chúng
ta thấy các ngươi hoan hỷ” (Is 66,5). Cùng một thách thức tương tự cho dân Chúa
hôm nay. Một Giáo hội buồn và sợ không xứng với trách vụ của mình. Giáo hội ấy
hẳn sẽ không thể đáp ứng được những nguyện vọng của nhân loại, nhất là của giới
trẻ.
Niềm
vui là dấu chỉ độc nhất mà những người không tin có thể biết. Còn hơn cả những
lý luận và những lời trách móc. Chứng từ đẹp nhất mà người vợ có thể làm cho chồng
mình, là tỏ bộ mặt vui tươi. Bộ mặt ấy cho thấy chị có thể làm cho cuộc sống lứa
đôi được hạnh phúc. Giáo hội cũng có thể làm chứng cho Phu Quân của mình bằng bộ
mặt ấy.
Khi
mời gọi các tín hữu Philipphê: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.
Tôi nhắc lại : vui lên anh em”, thánh Phaolô cũng cho biết cách làm chứng cụ thể
niềm vui này như thế nào, đó là: “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng
rãi” (Pl 4,4-5). Chữ “hiền hòa rộng rãi” dịch từ chữ hy lạp (epieikes) có nghĩa
là toàn bộ cách xử sự gồm những thái độ và hành động nhân từ, khoan dung, biết
nhường nhịn, không xét nét (từ chữ này mà có chữ epicheia dùng trong luật).
Vậy
người Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui, khi họ thức hành những tâm thái này.
Khi tránh tỏ ra gay gắt, oán hận đối với người khác và đối với nhau, họ biết
chiếu tỏa ra chung quanh sự tin tưởng phó thác. Bằng cách này, họ bắt chước
Thiên Chúa là Đấng làm mưa trên cả những người vô đạo. Nói chung, con người hạnh
phúc không xét nét, không gay gắt, biết tương đối hóa mọi việc, vì biết có điều
gì đó còn quan trọng hơn nhiều. Trong tông huấn về niềm vui, viết vào cuối triều
đại giáo hoàng của mình, Đức Phaolô VI nói về một “cái nhìn tích cực đối với những
con người và sự việc là kết quả của một tâm trí được soi sáng, là hoa quả của
Chúa Thánh Thần”.
Trong
những mối quan hệ giữa lòng Giáo hội, người ta rất cần những chứng nhân về niềm
vui. Thánh Phaolô nói về mình và về các Tông đồ khác như sau: “Không phải là
chúng tôi khống chế đức tin của anh em; trái lại, chúng tôi góp phần tạo niềm
vui cho anh em” (2Cr 1,24). Một định nghĩa tuyệt vời về trách vụ của những mục
tử trong Giáo hội. Những cộng sự viên đức tin là những con người tạo niềm tin
tưởng cho các con chiên trong bầy chiên của Chúa; là những sĩ quan can trường, chỉ
với ánh mắt dịu dàng, lại có thể giúp cho các chiến sĩ can đảm xông vào cuộc
chiến.
Giữa
những thử thách và tai họa mà Giáo hội đang phải chịu, đặc biệt ở một số nơi
trên thế giới, các mục tử có thể lặp lại, ngay cả ngày hôm nay, những lời của
Nêhêmia, sau thời lưu đầy, nói với dân đang khóc lóc khi nghe sách luật: “Anh
em đừng sầu thương khóc lóc..Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là
thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8,8-9).
Chớ
gì niềm vui của Chúa cũng là thành trì bảo vệ chúng ta, bảo vệ Giáo hội.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng Mùa Vọng năm 2012, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm Micae Trần Đình Quảng