ĐỨC CẬY, EM GÁI NHỎ
1. Hai thành tố của đức
cậy
“Thiên
Chúa nói : đức tin mà Ta yêu nhất, chính là đức cậy. Đức tin không làm Ta ngạc
nhiên, đức ái không làm Ta sửng sốt. Điều làm Ta sửng sốt, chính là đức cậy..”
Bài thơ tuyệt diệu của Charles Péguy về đức cậy bắt đầu như thế.
Đức
cậy (hoặc niềm hy vọng) gồm hai thành tố đi đôi với nhau, nhưng phân biệt nhau.
Có một đức cậy khách quan chỉ những gì chúng ta hy vọng (tựu trung là sự sống đời
đời và hạnh phúc vĩnh cửu), và một đức cậy chủ quan chỉ hành vi hy vọng. Hành
vi này là một sức đẩy về phía trước, một đà tiến bên trong, một sự mở rộng tâm
hồn hướng về tương lai. Theo định nghĩa của một Giáo phụ, đức cậy là một “vận
hành của tâm trí, với lòng yêu mến, hướng tới những gì nó hy vọng”.
Những
bản văn Kinh thánh cho thấy khía cạnh chủ quan của đức cậy, mà chúng ta sắp
bàn, không nói về hy vọng điều gì đó,
nhưng hy vọng vào ai đó. Ai đó ở đây là Thiên Chúa hoặc Đức Kitô. Một trong những
định nghĩa của Tân ước về các Kitô hữu là: “Họ là những người hy vọng vào Đức
Kitô” (1 Cr 15,19 ; Ep 1,12). Chính Đức Kitô cũng được gọi là “niềm hy vọng của
chúng ta” (cl 1,27 ; 1Tm 1,1), “nơi danh Người muôn dân đặt niềm hy vọng” (Mt
12,2 ; Rm 15,12).
Theo
đường lối này, bản văn đẹp nhất trong Tân ước về đức cậy là bản văn của Phaolô:
“Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình
an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng”
(Rm 15,13). Kiểu nói “Thiên Chúa là nguồn hy vọng” hoặc “Thiên Chúa của hy vọng”
không chỉ có nghĩa Thiên Chúa đã hứa ban sự sống đời đời, giúp chúng ta đạt tới
sự sống ấy, hoặc Thiên Chúa, mà chúng ta hy vọng một ngày kia sẽ chiếm hữu.
Thiên Chúa của nguồn hy vọng còn là : Thiên Chúa cho phép chúng ta hy vọng ;
Thiên Chúa giúp các tiên tri chờ đợi ;
Thiên Chúa của lời hứa, Đấng hé mở tương lai, thúc đẩy dân Chúa hướng về phía
trước ; Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi ngục tù thời gian, như đã giải
thoát dân Người khỏi cảnh làm tôi cho Pharaô.
Niềm
hy vọng này, hiểu như một hành vi và một tình trạng tâm hồn, một khả năng hướng
tới tương lai, chính là một mầu nhiệm và một phép lạ, cũng nhiệm mầu và lạ lùng
như khi một sự sống xuất hiện. Nó làm biến đổi những gì nó chạm tới. Nó tham dự
rất gần gũi vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Hậu quả của nó được mô tả trong đoạn văn
Isaia sau đây: “Thanh niên thì mệt mỏi nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng lảo
đảo. Nhưng những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim
bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn
chân” (Is 40,30-31).
Sấm
ngôn này là câu trả lời cho dân Chúa đang than thở: “Số mệnh của tôi ẩn giấu
nơi Đức Chúa”. Thiên Chúa không hứa cất đi những lý do gây ra mệt mỏi nhọc nhằn,
nhưng ban niềm hy vọng. Tình trạng thì vẫn vậy, nhưng niềm hy vọng thêm sức mạnh
giúp ta vươn lên. Thiên Chúa ban sức mạnh cho ai nhọc nhằn, gia tăng sức mạnh
cho người mệt mỏi, nhưng không cất đi sự mệt mỏi nhọc nhằn ấy. Sức mạnh ấy giống
như đôi cánh. Có những con vật được ban cho đôi cánh, nhưng chỉ sử dụng trong
trường hợp đặc biệt, khi gặp nguy hiểm, còn bình thường chúng chỉ dùng đôi
chân. Người thợ săn theo đuổi chúng, tìm cách lùa chúng tới hàng giậu hay một
nơi đóng kín không có lối thoát. Lúc đó chúng mới giương cánh ra, bay đi nơi
khác. Đức cậy cũng cho phép ta làm như vậy.
2. Giữ cho niềm hy vọng
được sống động
Chúng
ta vừa dựa vào lời Chúa để xem hy vọng có ý nghĩa như thế nào. Giờ đây sang
khía cạnh thực tế : làm sao giữ cho niềm hy vọng đó được sống động, làm sao “trả
lời cho những chất vấn” về niềm hy vọng của chúng ta, làm sao được “tràn trề hy
vọng” nhờ Chúa Thánh Thần.
Thư
Do thái so sánh đức cậy với chiếc neo: “Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa
như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn” (Dt 6,19). Chắc chắn và bền vững,
vì không cắm xuống đất nhưng cắm trên trời, không phải trong thời gian nhưng
trong vĩnh cửu, “bên kia bức màn của cung thánh”. Đây là hình ảnh cổ điển của đức
cậy. Tuy nhiên, còn có một hình ảnh khác, theo một nghĩa nào đó đối nghịch với
hình ảnh trên đây. Đó là hình ảnh cánh buồm. Chiếc neo bảo đảm cho con tầu đứng
vững trước phong ba, thì cánh buồm, trái lại, giúp cho con tầu tiến tới.
Đức
cậy làm cả hai việc trên cho con tầu Giáo hội và con thuyền của đời sống cá
nhân. Nó thực sự như một cánh buồm hứng lấy gió, âm thầm biến đổi gió thành lực
đẩy đưa con tầu ra khơi hay cập bến. Cũng như cánh buồm trong tay một thủy thủ lành
nghề, người này biết lợi dụng sức gió, bất cứ thổi theo hướng nào, thuận hay
nghịch, để đưa con tầu tiến đi theo hướng mình muốn, thì đức cậy cũng vậy.
Trước
hết, đức cậy giúp ta trên đường thánh hóa. Ai thực hành đức cậy thì chính nó sẽ
trở thành nguyên lý của sự tiến bộ thiêng liêng. Quả thực, nó luôn ở bên cạnh
ta, để khám phá ra những điều tốt có thể làm. Nó không cho phép ta sống hâm hẩm,
bê trễ, hoặc mơ mộng và xây dựng cho mình những thế giới tưởng tượng.
Đức
cậy là tất cả những gì cụ thể và thực tế. Nó dùng thời giờ cho ta thấy những
công việc phải làm, những trách vụ phải chu toàn. Nếu tuyệt đối không có gì để
làm trong một tình huống cụ thể, thì đó là tê liệt và thất vọng. Vì hướng tới
vĩnh cửu, đức cậy luôn thấy có gì đó có thể làm, để cải thiện đời sống : làm việc
hơn, vâng phục hơn, khiêm nhường hơn, hãm mình hơn…Khi bạn bị cám dỗ tự nhủ:
“Không có gì để làm cả”, thì lúc ấy, đức cậy có mặt và nhắc bạn: “Cầu nguyện
đi”. Nếu bạn bảo: “Tôi đã cầu nguyện rồi”, đức cậy sẽ nói: “Thì cầu nguyện nữa”.
Theo
Tân ước, đức cậy có liên quan với nhẫn nại. Nhẫn nại ngược với bất nhẫn, vội
vã, “ngay tức khắc”. Nhẫn nại là thuốc trị chán nản. Nó giúp ta duy trì sức mạnh
ham muốn. Kinh thánh thường xuyên đưa ra ánh sáng chân lý này : gian truân
không làm mất đi, nhưng mang lại đức cậy. “Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng,
ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên, ai được công nhận là trung
kiên, thì có quyền trông cậy” (Rm 3,4). Đức cậy cần gian truân như lửa cần gió
để bùng lên. Những lý do để hy vọng, theo suy nghĩ của con người, phải lần lượt
mất đi, nhường chỗ cho lý do duy nhất là Thiên Chúa.
Gian
truân lấy đi mọi điểm tựa nơi con người, giúp họ chỉ trông cậy vào một mình
Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm về điều ngài viết: “Chúng tôi đã phải
chịu đựng (nỗi gian truân) quá mức. quá sức chúng tôi, để chúng tôi không tin
tưởng vào chính mình, mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết trỗi dậy. Chính
Người đã cứu và sẽ còn cứu chúng tôi khỏi một cái chết như thế. Người là Đấng
chúng tôi trông cậy, Người sẽ còn cứu chúng tôi nữa” (2Cr 1,9-10).
Gian
truân đưa tới tình trạng này của trông cậy, là “hy vọng ngược với mọi hy vọng”,
nghĩa là tiếp tục hy vọng mà chỉ dựa vào lời Thiên Chúa nói trước đây, cả khi
lý do để hy vọng như người ta nghĩ, không còn nữa. Đó là niềm trông cậy của
Abraham khi phải sát tế Isaac (x. Rm 1,18), của Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá,
một thập giá đã làm cho Mẹ trở thành “rất đáng cậy trông” hoặc “Đấng đáng trông
cậy”, Mater spei (Kinh cầu Đức Bà).
3. Trả lời chất vấn về
niềm hy vọng
Đức
cậy hay niềm hy vọng có vai trò rất quan trọng trong việc Phúc âm hóa. Theo thư
thứ nhất của thánh Phêrô, công cuộc truyền bá sứ điệp và rao giảng Tin mừng được
trình bầy như một hình thức trả lời cho những chất vấn về niềm hy vọng, trả lời
cách hiến hòa và kính trọng (x. 1Pr 3,15-16).
Đọc
những trình thuật sau biến cố Phục sinh, người ta cảm nhận rõ Giáo hội được
sinh ra từ đức cậy. Người ta không giải thích cách khác sự biến đổi tức khắc
nơi các môn đệ, sự phấn khởi lộ ra trong những bản văn nói về nhân đức này. Như
thánh Phêrô nói, biến cố Đức Kitô Phục sinh đã làm cho các ông “tái sinh để nhận
lãnh niềm hy vọng sống động” (1Pr 1,3), và chính với niềm hy vọng này mà các
ông bắt đầu chinh phục thế giới.
Ngày
nay, nếu muốn thực hiện công cuộc Phúc âm hóa mới, chúng ta cũng cần được “tái
sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động”. Làm người ai cũng phải có hy vọng.
Không ai làm gì mà không có hy vọng. Người ta đến nơi nào có thể hít thở bầu
không khí hy vọng, và chạy trốn khỏi nơi không thấy có dấu hiệu hy vọng nào. Nếu
muốn dân chúng đến với Thánh lễ Chúa nhật, phải cho họ thấy niềm hy vọng ở đó.
Chính niềm hy vọng giúp cho những người trẻ có can đảm lập gia đình, hoặc theo đuổi
một ơn gọi tu trì. Chính niềm hy vọng giúp họ rời xa ma túy, không đầu hàng thất
vọng.
Chúng
ta hôm nay sống trong một hoàn cảnh, có thể nói, có nhiều thuận lợi liên hệ đến
đức cậy. Hãy nhớ lại điều đã xẩy ra cách đây chừng hơn một thế kỷ thôi. Những
người như Feuerbach, Marx, Nietzsche, Freud tấn công trực diện chống lại đức cậy.
Khi có dịp là họ không ngần ngại chỉ trích nhân đức này. Theo họ, sự sống vĩnh
cửu, thế giới bên kia, hạnh phúc thiên đàng chỉ là phóng chiếu những ước muốn
và nhu cầu mà con người không được thỏa mãn trong thế giới này. Những thực tại ảo
tưởng đó như thuốc phiện mê hoặc dân chúng, ru ngủ con người, khiến người ta
không còn dấn thân vào cuộc sống, đưa họ tới chỗ “phí phạm ở trên trời những
kho tàng dành cho trái đất” (Hegel). Trong khi đó thì người Kitô hữu không biết
tìm cách bảo vệ nội dung đức cậy, ngại nó về nó. Chúng ta hiểu vì sao, trong suốt
một thời gian dài, dường như không hoặc ít có bài giảng nói về sự sống đời sau.
Tuy
nhiên, sau khi tìm cách triệt hạ đức cậy, người mác xít vô thần lại sớm nhận ra
rằng không thể sống mà không có hy vọng. Do đó, thay cho đức cậy Kitô giáo, họ
phát minh ra “nguyên lý hy vọng”, đặt nơi con người, cho rằng một ngày kia sẽ đạt
được ở trần gian này. Đó chính là một đức cậy bị tục hóa, cắt đứt khỏi Thiên
Chúa và vĩnh cửu. Những người phát minh ra nguyên lý này còn tự hào là đã vượt
qua và vượt trên đức cậy Kitô giáo, kế thừa hợp pháp đức cậy Kitô giáo. Chỉ có
niềm hy vọng do họ phát minh là chân thật mà thôi.
Sự
sụp đổ của các chế độ mác xít vô thần làm giảm đi các cuộc tấn công này. Nói
cho cùng, nhiệm vụ cần thiết nhất giờ đây không phải là dùng triết học hay thần
học bảo vệ và biện minh cho đức cậy, nhưng là loan báo nó cho một thế giới đã
đánh mất ý nghĩa của hy vọng, và vì lẽ này, trở nên trì trệ về phương diện
thiêng liêng. “Hãy lấy đi niềm hy vọng thì tất cả nhân loại sẽ tê liệt” (Tolle
spem, torpet humanitas tota), một Giáo phụ đã viết như thế. Hãy lấy đi niềm hy
vọng, thì tất cả nghệ thuật và nhân đức sẽ biến mất. Hãy lấy đi niềm hy vọng,
thì mọi sự sẽ chết.
Trước
một thế giới (thấy rõ hơn ở Việt nam) dường như sống ngày qua ngày, không còn
những phấn khích và đà tiến hướng về tương lai, điều quan trọng là làm thế nào
loan báo cho họ niềm hy vọng. Muốn thế thì chúng ta cũng phải có “tràn trề niềm
hy vọng”. Niềm hy vọng thì hay lây, nên hãy tạo điều kiện cho nó lây từ ta sang
người khác, và từ người khác sang người khác nữa, cũng như những bệnh hay lây
truyền đi không phải do nghiên cứu, tranh luận hay giải thích, nhưng chỉ khi
người ta có bệnh ấy. Trong Lễ Vọng Phục sinh, các Kitô hữu truyền cho nhau ngọn
lửa lấy từ cây nến Phục sinh, truyền cho nhau ánh sáng Chúa Kitô, chúng ta cũng
hãy truyền cho nhau ánh sáng của niềm hy vọng phát xuất từ Chúa Kitô, từ người
này sang người kia, từ cha mẹ sang con cái, từ thầy dậy sang học viên…
Một
trong những phương tiện làm lan tỏa niềm hy vọng là sống vui tươi và bình an.
Thánh Phaolô nói: “Xin Thiên Chúa là nuồn hy vọng ban cho anh em được chan chứa
niềm vui và bình an nhờ đức tin” (Rm 15,13). Niềm vui cho thấy sự hiện diện của
hy vọng, như hương thơm cho biết có những bông hoa ở gần.
Một
cách nữa làm cho hy vọng được sống động và lây lan là cách mà thánh Phaolô nói
đến khi ngài bảo rằng “đức mến hy vọng tất cả” (1Cr 13,7). Hy vọng tất cả nhờ
tình yêu, nghĩa là luôn cởi mở với mọi người, không trừ ai, có khả năng làm điều
tốt, lúc nào cũng có thể làm điều gì đó tốt cho người khác, hơn nữa, còn giúp
cho người đó tiến bộ hơn, mỗi ngày một tốt hơn. Đừng bỏ rơi người nào, đừng thất
vọng về một người nào : người con đi lạc vẫn có thể trở về, một kẻ thù có thể lại
trở thành bạn hữu, tình yêu lạnh nhạt giữa hai người có thể được sưởi ấm lại…Hãy
hy vọng tất cả (Kierkegaard).
Điều
thánh Phaolô nói về bác ái có giá trị cho cả Giáo hội. Giáo hội hy vọng tất cả,
tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Giáo hội không chỉ tố giác điều xấu có thể
xẩy ra trong xã hội, giúp người ta đề phòng những điều xấu ấy. Nhưng Giáo hội
còn có những hành động tích cực hơn, nhấn mạnh những điều tốt có thể làm và phải
làm. Một giọt mật bẫy được nhiều ruồi hơn là một thùng giấm, thánh Phanxicô
Salêsiô đã nói như vậy. Người ta đánh bẫy được nhiều linh hồn bằng một giọt hy
vọng, hơn là bằng cả tấn những lời trách móc. Có lẽ chưa bao giờ thế giới tỏ ra
sẵn sàng lắng nghe Giáo hội bằng những năm thời Công đồng Vatican II. Lý do
chính, là vì Công đồng đem lại cho người ta niềm hy vọng.
Nhưng
phải chăng hy vọng theo cách đó lại dễ đưa đến thất vọng ? Sự khôn ngoan của
con người đã từng kinh nghiệm về điều đó, chờ đợi một đàng, xẩy ra một nẻo. Đây
là điều đã xẩy ra ít nhiều với Vatican II.
Dầu
sao, Công đồng cũng đã phát động niềm hy vọng lớn, và chúng ta cần phát động lại
niềm hy vọng này. Thánh Tông đồ đã nói với các tín hữu Rôma là họ phải “trần trề
hy vọng” (Rm 15,13). Giáo hội đã đem đến cho thế giới một món quà tốt nhất là niềm
hy vọng, không phải hy vọng mau qua, thuần túy của con người, như hy vọng được
khá hơn về kinh tế hay chính trị. Thực ra, dù có muốn, Giáo hội cũng không thể
đáp lại nguyện vọng này, vì nó không thuộc thẩm quyền và sở trường của Giáo hội.
Niềm hy vọng mà Giáo hội cung ứng cho con người là chân trời vĩnh cửu, được Đức
Kitô và sự Phục sinh của Ngài bảo đảm. Niềm hy vọng này sẽ là nguồn mạch cho những
hy vọng hợp pháp khác của nhân loại.
Ai
thấy thầy thuốc đến thăm và khám bệnh cho một bệnh nhân đau nặng, và khi thầy
thuốc về rồi, mà nói với người bệnh rằng : Về trường hợp của anh, thầy thuốc hy
vọng nhiều đấy! thì một lời như vậy có giá trị hơn mọi phương thuốc. Con người
ngày nay mắc đủ thứ tật bệnh thiêng liêng cũng cần được nghe chúng ta nói :
Giáo hội vẫn hy vọng vào xã hội này.
4. Nhờ quyền năng của
Chúa Thánh Thần
“Xin
Thiên Chúa là nguồn hy vọng ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an
nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng”.
Quan trọng nhất trong câu trên hẳn là những chữ “quyền nặng của Thánh Thần”.
Đức
cậy là thần đức không chỉ vì có Thiên Chúa là đối tượng và cùng đích, mà Ngài
còn là nguồn gốc của nó. Cùng với đức tin và đức ái, đức cậy là một trong những
hình thức hoạt động của Chúa Thánh Thần, khi Người đến với tâm hồn. Khi nói về
bác ái, thánh Phaolô bảo rằng bác ái lan
tỏa trong ta “nhờ Thánh Thần đã được ban cho ta”. Về đức tin và đức cậy, cũng vậy.
Chúa
Thánh Thần giữ cho niềm hy vọng được sống động, giúp ta thực hành đức cậy, chứng
thực với chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, và nếu là con, chúng ta
là những người thừa tự (x. Rm 8,16-17). Chúa Thánh Thần là nền móng của đức cậy,
nhờ Người mà hy vọng sẽ không thất vọng. “Trông cậy như thế chúng ta sẽ không
phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (x. Rm 5,5).
Nền
tảng lịch sử của đức cậy là Đức Kitô và Mầu nhiệm Vượt qua. Chính trên nền tảng
này mà Chúa Thánh Thần hiện diện và hoạt động. Chúa Thánh Thần cũng là Đấng sẽ
đưa niềm hy vọng của chúng ta tới chỗ thành toàn, khi làm cho ta sống lại cùng
với Đức Kitô, vì “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức
Kitô sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết
cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác anh
em được sự sống mới” (x. Rm 8,11).
Giống
như mọi sự khác, đức cậy cần trải qua một “phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng
ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3,5), để lại có được sức mạnh tỏa sáng, thoát khỏi những vướng mắc chung quanh do
chúng ta tạo ra.
Trong
Kinh thánh, chúng ta bắt gặp những khủng hoảng lớn về niềm hy vọng, khiến dân
Chúa phải đau buồn mà kêu lên: “Hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã
rồi đời” (Êd 37,11). Đó là điều xẩy ra trong thời lưu đầy. Làm thế nào thắng được
khủng hoảng này? Thiên Chúa cho nhà tiên tri nhìn thấy đống xương khô, và bảo
ông kêu lên với thần khí: “Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào
những người đã chết này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37,9). Lập tức, các bộ
xương bắt đầu đứng lên làm thành một đạo quan đông vô kể. Niềm hy vọng hồi sinh
mang hình hài của những người chết sống lại. Quả thực, sự sống lại của thân xác
sẽ xẩy ra vào ngày tận thế, còn sự sống lại của tâm hồn phải xẩy ra mỗi ngày.
Kinh
thánh cũng được đánh dấu bằng những lần niềm hy vọng bùng dậy. Một trong những
lần bùng dậy được mô tả trong Thánh vịnh 130 : De profundis (Từ vực thẳm). Điều làm thay đổi tình hình chính là
quyết định hay tiếng kêu : Tôi hết lòng trông cậy ở lời Người…Hồn tôi trông chờ
Chúa…Trông cậy Chúa đi Israel hỡi.
*
Khởi
đầu bài suy niệm, chúng ta đã trưng dẫn vài câu trong một bài thơ của Charles
Péguy, liên quan tới đức cậy. Để kết thúc, chúng ta đưa ra ý tưởng của một bài
thơ khác, cũng của thi sĩ trên và cũng liên quan tới đức cậy :
Péguy
so sánh ba nhân đức đối thần với ba chị em gái, hai chị lớn và một em nhỏ. Cả
ba dắt tay nhau bước đi, hai chị lớn đi hai bên, em gái nhỏ đi ở giữa. Em gái
nhỏ này là đức cậy. Người ta cứ tưởng hai chị lớn dắt em gái nhỏ, kỳ thực em
gái nhỏ lôi hai chị lớn. Không có đức cậy thì hai nhân đức kia chẳng là gì cả.
Chính đức cậy nhỏ bé lôi kéo mọi sự.
Vậy
hãy giữ cho đức cậy của chúng ta, niềm hy vọng của chúng ta, được luôn sống động.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài thuyết trình cho giới trẻ ở Chartres, 7/12/2008)
Lm
Micae Trần Đình Quảng