THỪA TÁC VIÊN CỦA THẦN KHÍ
1. Việc phục vụ Thần
Khí
Trong
thư 2 gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa ban cho chúng tôi khả
năng phục vụ Giao ước mới, không phải Giao ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa
vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống. Nếu việc
phục vụ Lề luật – thứ Lề luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ
trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Israel không thể nhìn mặt
ông Môsê được, vì mặt ông chói lọi vinh
quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua – thì việc phục vụ Thần Khí lại không
được vinh quang hơn sao?” (2 Cr 3,6-8).
Phaolô tự coi mình, cũng như coi các cộng tác viên của
mình, như những thừa tác viên của Thần Khí, coi thừa tác vụ tông đồ như một sự
phục vụ Thần Khí. Qua việc Phaolô đối chiếu với Môsê và với phụng tự của Giao ước
cũ, chúng ta có thể chắc chắn rằng, trong đoạn văn trên, cũng như trong nhiều
chỗ khác của thư thứ 2 Corintô, Phaolô nó về vai trò của các vị lãnh đạo cộng đồng
Kitô giáo, tức các Tông đồ và những người cộng tác với các ngài.
Theo Phaolô, người nào biết mối liên hệ giữa Chúa Kitô và
Thần Khí, thì cũng biết rằng tư cách thừa tác viên của Thần Khí không có mâu
thuẫn với tư cách tôi tớ của Đức Kitô, nhưng tiếp nối cách hoàn hảo. Quả thực,
Thần Khí nói ở đây là Thần Khí Đức Kitô. Chính Chúa Giêsu cũng nói đến vai trò
của Đấng Bảo Trợ tức Thần Khí, khi Ngài bảo các Tông đồ: “Đấng ấy sẽ dạy anh em
mọi điều, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thày đã nói với anh em” (Ga
14,16), “Đấng ấy sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26), “sẽ dẫn anh em đến sự thật
toàn vẹn, lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,14).
Như vậy, câu định nghĩa đầy đủ về thừa tác vụ tông đồ và
tư tế là : tôi tớ của Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần. Thần Khí cho thấy bản chất
sự phục vụ của ta là sự phục vụ “thuộc linh”, theo nghĩa đầy đủ nhất, tức là :
không chỉ có đối tượng là thần trí con người, linh hồn con người, mà còn có đối
tượng và tác nhân chính, như Đức Phaolô VI nói, là Chúa Thánh Thần. Thánh Irênê
cho rằng Chúa Thánh Thần là “sự hiệp thông của ta với Đức Kitô”.
Cũng trong thư thứ 2 Corintô, Phaolô đã làm sáng tỏ hành
động của Chúa Thánh Thần nơi các thừa tác viên Tân ước bằng biểu tượng xức dầu.
Ngài viết “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Kitô, và đã xức dầu
cho chúng tôi, là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta, và
đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,2 tt).
Thánh Athanasiô chú giải bản văn trên như sau: “Thần Khí
được gọi là và đích thực là sự xức dầu và ấn tín. Sự xức dầu là hơi thở của
Chúa Con, đến nỗi ai có Thần Khí đều có thể nói : chúng tôi là hương thơm của
Chúa Kitô. Ấn tín biểu thị Chúa Kitô, đến nỗi ai được đóng ấn tín đều có thể có
hình dạng của Chúa Kitô”. Với tư cách là sự xức dầu, Chúa Thánh Thần chuyển đạt
cho ta hương thơm của Chúa Kitô. Với tư cách là ấn tín, Người chuyển đạt cho ta
hình dạng hoặc hình ảnh của Chúa Kitô. Giữa việc phục vụ Chúa Kitô và phục vụ
Thần Khí, không có phân cách, nhưng có sự hiệp nhất sâu xa.
Mọi Kitô hữu đều được xức dầu. Chính danh xưng của họ có
nghĩa là những người được xức dầu, theo hình ảnh Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu
tuyệt hảo. Thế nhưng ở đây, Phaolô đang nói về công việc của mình và của Timotê
(‘chúng tôi’). Rõ ràng Phaolô muốn đặc biệt nhắc đến việc xức dầu và ấn tín của
Thần Khí mà các ngài lãnh nhận lúc được thánh hiến cho thừa tác vụ tông đồ. Ở một
chỗ khác Phaolô cũng nhắc cho Timotê khơi dậy đặc sủng anh nhận được khi ngài đặt
tay trên anh (x.2 Tm 1,6).
Tầm quan trọng của việc được Thần Khí xức dầu, chúng ta cần
phải khám phá lại, vì hiệu năng của thừa tác vụ tư tế hàm chứa trong đó. Linh mục
là người được thánh hiến, tức được xức dầu. Sắc lệnh của Công đồng Vatican II về
chức vụ và đời sống linh mục viết: “Chúa Giêsu, ‘Đấng đã được Chúa Cha thánh hiến
và sai xuống thế gian’ (Ga 10,36), và đã được Chúa Thánh Thần xức dầu, Người đã
làm cho tất cả Nhiệm thể được thông phần vào sự xức dầu đó”. Cũng sắc lệnh còn
làm nổi bật tính chuyên biệt của việc xức dầu được ban trong bí tich Truyền chức
thánh, qua lời khăng định: “Chức tư tế của các linh mục được ban qua một bí
tích. Nhờ việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, bí tích ấy ghi một ấn tích đặc biệt
nơi các ngài, làm cho các ngài đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh mục, giúp
các ngài có thể hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu” (LM 1-2).
2.
Việc xức dầu : hình bóng, biến cố và bí tích
Cũng như Thánh Thể
và Vượt qua, xức dầu là một trong những thực tại có mặt trong cả ba giai đoạn của
lịch sử cứu độ : có mặt trong Cựu ước như hình bóng, có mặt trong Tân ước như
biến cố, có mặt trong thời kỳ của Giáo hội như bí tích.
Trong trường hợp đang bàn, ta thấy hình bóng qua những việc
xức dầu khác nhau trong Cựu ước ; thấy biến cố là việc xức dầu Đức Kitô, Đấng
Được Xức Dầu, hoàn tất cho mọi hình bóng ; còn bí tích thì được biểu thị bằng
toàn bộ các bí tích, trong đó việc xức dầu như một nghi thức chính hay bổ túc.
Trong Cựu ước, ta thấy có ba loại xức dầu : xức dầu cho
các vua, xức dầu cho các tư tế, xức dầu cho các tiên tri (thực ra nơi các tiên
tri, nói chung chỉ là xức dầu thiêng liêng, mang tính ẩn dụ, chứ không có dầu vật
chất). Các việc xức dầu này hướng tới thời kỳ cứu thế, tức chờ đợi một ông vua,
một tư tế và một tiên tri, người sẽ là Đấng Được Xức Dầu, Đấng Cứu Thế.
Ngoài việc tấn phong chính thức và pháp lý, qua đó ông
vua trở thành người được Chúa xức dầu, thì theo Kinh Thánh, việc xức dầu còn
ban một quyền năng bên trong. Việc xức dầu mang lại một sự biến đổi từ Thiên
Chúa, và quyền năng này ngày càng được minh nhiên đồng hóa với Chúa Thánh Thần.
Khi xức dầu cho Saolê làm vua, tiên tri Samuel nói: “Chẳng
phải Đức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người
sao?... Thần Khí Đức Chúa sẽ nhập vào ông, ông sẽ lên cơn xất thần ngôn sứ, và
ông sẽ biến thành một người khác” (1 Sm 10,1.6). Mối liên hệ giữa việc xức dầu
và Thần Khí được làm sáng tỏ qua câu nói nổi tiếng của Isaia: “Thần Khí của Đức
Chúa ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (Is 61,1).
Tân ước không ngần ngại coi Đức Giêsu là Đấng Được Xức Dầu
của Thiên Chúa, hoàn tất cho mọi việc xức dầu trước đây. Tước hiệu Đấng Thiên
Sai, hoặc Kitô, chính xác có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu, là bằng chứng rõ ràng
nhất.
Thời điểm hay biến cố lịch sử đánh dấu sự hoàn tất này là
lúc Chúa chịu lễ rửa ở sông Giođan. Hiệu quả của việc xức dầu này là Chúa Thánh
Thần. Sách Công vụ viết: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng
Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Sau khi nhận lễ
rửa, Đức Giêsu tuyên bố tại hội đường Nadarét: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (Lc 4,18).
Chắc chắn Đức Giêsu đã đầy tràn Thánh Thần ngay từ lúc nhập
thể, nhưng đó là một ân sủng cá nhân, gắn liền với mầu nhiệm ngôi hiệp nên
không thể chuyển thông cho người khác. Giờ đây, qua việc được xức dầu, Chúa nhận
được Thánh Thần cách sung mãn, và, với tư cách là đầu, Ngài có thể chuyển đạt
cho thân thể Ngài. Giáo hội sống bằng ân sủng này, ân sủng của đầu (gratia
capitis).
Các hiệu quả của ba việc xức dầu – vương đế, tiên tri và
tư tế - thì lớn lao và trực tiếp trong thừa tác vụ của Đức Giêsu. Nhờ việc xức
dầu vương đế, Ngài hạ gục vương quyền của Satan và phục hồi Nước Thiên Chúa.
Khi một số người Biệt phái cho rằng Chúa đã dựa vào quỷ vương để trừ quỷ, Chúa
bác ý kiến này và nói với họ: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ
quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28) ; rồi nhờ
việc xức dầu tiên tri, Ngài “loan báo Tin mừng cho người nghèo khó” ; cuối cùng
nhờ việc xức dầu tư tế, Ngài dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin cùng với nước
mắt trong suốt cuộc đời trần gian, và cuối cùng, tự hiến mình trên thập giá.
Sau khi đã hiện diện trong Cựu ước như hình bóng, trong
Tân ước như biến cố, giờ đây sự xức dầu hiện diện trong Giáo hội như bí tích. Dấu
chỉ của bí tích là từ hình bóng, ý nghĩa của bí tích là từ biến cố. Bí tích dùng
yếu tố dầu thánh từ việc xức dầu trong Cựu ước, rút ra hiệu năng cứu độ từ Chúa
Kitô. Chúa Kitô đã không bao giờ được xức bằng dầu vật chất (trừ lúc Ngài được
xức dầu thơm ở Bêtania), và cũng không dùng dầu vật chất xức cho ai. Nơi Ngài,
biểu tượng đã đươc thay thế bằng thực tại, bằng “dầu hoan lạc” là Chúa Thánh Thần.
Trong số những bí tích của Giáo hội, có bốn bí tích có
nghi thức xức dầu là Thánh tẩy, Thêm sức, Xức dầu Bệnh nhân và Truyền Chức
thánh. Khi xức dầu chrisma sau nghi
thức thánh tẩy, Giáo hội minh nhiên nhắc tới ba việc xức dầu của Đức Kitô:
“Chính Ngài thánh hiến con bằng dầu cứu độ. Được tháp nhập vào Đức Kitô là Tư tế,
Vương đế và Tiên tri, con hãy luôn là chi thể của Thân thể Người, để đạt tới sự
sống đời đời”.
Nghi thức tấn phong Giám mục còn nhắc tới việc xức dầu của
Đức Kitô cách minh nhiên hơn. Khi đổ dầu thơm trên đầu tân chức, Giám mục chủ
phong nói: “Xin Thiên Chúa là Đấng đã cho hiền đệ tham dự vào chức thượng tế của
Đức Kitô, tuôn đổ trên hiền đệ chất dầu huyền nhiệm, và lấy ơn phúc thiêng
liêng dồi dào làm cho hiền đệ được nên phong phú”
3.
Làm sao để được Th. Thần xức dầu thiêng liêng?
Có một điều nguy hiểm chung khi xem xét các bí tích, đó
là chỉ để ý đến khía cạnh nghi thức, giáo luật, xem nó có thành sự hay hợp pháp
không, mà không để ý đủ đến hiệu quả thiêng liêng của bí tích (res sacramenti),
đến tầm quan trọng của hiệu quả này trong đời sống, đến ân sủng riêng biệt của
nó, và trong vấn đề đang bàn, là hiệu quả của việc xức dầu trong đời sống linh
mục. Chức thánh giúp ta có thể giữ vai trò lãnh đạo, giảng dạy, ban bí tích,
cho phép ta làm một số việc khác. Chức thánh bảo đảm sự kế tục tông đồ, nhưng
không nhất thiết bảo đảm thành công trong việc tông đồ.
Do in dấu không phai mờ nơi linh mục, việc xức dầu bí
tích là điều phải nghĩ đến, mỗi khi thấy cần phải làm cho thừa tác vụ của chúng
ta sinh động hơn. Một cách nào đó, chúng ta làm sống lại bí tích đã lãnh nhận,
khơi lại ân sủng bí tích đang bị phủ dưới lớp tro bụi. Giống như một lọ nước
hoa, đậy kín nắp thì không ngửi thấy gì, nhưng mở nắp thì hương thơm ngào ngạt
sẽ tỏa ra. Điều này không riêng gì cho bí tích Truyền Chức thánh. Các bí tích
khác cũng thế thôi.
Việc xức dầu hiện nay được hiểu như thế nào? Augustinô
đưa ra một ý tưởng quan trọng. Ngài giải thích bản văn trong thư I của Gioan đại
khái như sau: “Dầu mà anh em đã lãnh nhận” (I Ga,2-27) được hiểu theo ý nghĩa của
một việc xức dầu liên tục, qua đó Chúa Thánh Thần, Thày dạy nội tâm, cho phép
ta hiểu từ bên trong điều chúng ta nghe ở bên ngoài. Chính từ Thánh Thần mà
chúng ta có kiểu nói “xức dầu thiêng liêng” (spiritalis unctio), như thấy trong
bài ca Veni Creator Spiritus. Còn thánh Grêgoriô Cả đã góp phần phổ biến ý tưởng
này của Augustinô trong suốt thời Trung cổ.
Nếu việc xức dầu được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần, và
là một ân huệ của Thần Khí, chúng ta phải làm gì để lãnh nhận? Tiên vàn là cầu
nguyện. Có lần Đức Giêsu đã hứa: “Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ
kêu xin Người” (Lc 11,13). Tiếp đến là đập vỡ bình bạch ngọc như người đàn bà tội
lỗi đã làm trong nhà ông Simon. Chiếc bình đó là con người của ta. Đập vỡ là từ
bỏ mình, để cho Thiên Chúa dẫn dắt cuộc đời ta. Phải có hành vi minh nhiên chứng
tỏ chúng ta làm công việc trên đây. Thiên Chúa không thể ban Thần Khí của Ngài
cho những ai không hoàn toàn phó thác nơi Ngài.
Hãy áp dụng cho đời sống linh mục nội dung phong phú gắn
liền với đề tài xức dầu. Thánh Basiliô nói rằng: “Chúa Thánh Thần luôn hiện diện
trong cuộc đời của Chúa bằng việc xức dầu và làm người luôn đồng hành, để mọi
hoạt động của Đức Giêsu diễn ra trong Thần Khí”. Vậy đối với chúng ta, lãnh nhận
dầu có nghĩa là lãnh nhận Chúa Thánh Thần như người luôn đồng hành với mình,
làm mọi sự trong Thánh Thần, trước mặt Ngài, dưới sự hướng dẫn của Ngài.
Một đời sống như vậy có những biểu hiện bên ngoài bằng những
nét êm dịu, bình an, hiền hòa, hoặc có khi mạnh mẽ, thể hiện quyền bính…tùy vào
những hoàn cảnh khác nhau, trách vụ khác nhau, tính khí khác nhau…Có thể thấy
gương mẫu nơi Đức Giêsu : do Thần Khí thúc đẩy, có khi Ngài thinh lặng, bình thản,
hiền lành và khiêm nhường trong lòng, mà cũng có khi làm mạnh, thể hiện quyền
bính siêu nhiên.
Linh mục cũng phải tập cho quen xin Chúa Thánh Thần xức dầu
thiêng liêng cho mình, trước khi chuẩn bị làm một việc gì quan trọng để phục vụ
Nước Trời, chẳng hạn để có một quyết định dứt khoát, hoặc khi bổ nhiệm ai, khi
viết một tài liệu, chủ tọa một cuộc họp, soạn bài giảng…Nhiều khi chúng ta quá
dựa vào sức riêng, mà không dựa vào Chúa Thánh Thần. Điều này khiến cho ta, theo
bản tính tự nhiên, có khi lo sợ, chán nản, có khi lại bồng bột, tự phụ. Còn nếu
dựa vào Thánh Thần, ta có thể có kinh nghiệm như Chúa Giêsu trong hành vi của
Ngài, hành vi đã trở thành gương mẫu như vừa nói trên đây.
4.
Chúng ta được xức dầu để làm cho hương thơm của Chúa lan tỏa
Cũng trong thư 2 Corintô, khi nhắc tới thừa tác vụ tông đồ,
thánh Phaolô đã khai triển ý nghĩa ẩn dụ của dầu và hương thơm của dầu. Ngài viết:
“Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức
Kitô, tạ ơn Người là Đấng đã dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết Đức Kitô,
như hương thơm, lan tỏa khắp nơi. Vì chúng tôi là hương thơm của Đức Kitô” (2
Cr 2,14-15).
Linh mục phải là hương thơm của Đức Kitô trong thế gian.
Đúng vậy. Nhưng Thánh Tông đồ cũng cảnh giác chúng ta khi Ngài nói tiếp: “Nhưng
kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành” (2 Cr 4,7). Chúng
ta hiểu Phaolô muốn nói gì qua câu trên, vì chắc hẳn đã có kinh nghiệm trong đời
sống.
Chúa nói với các Tông đồ: “Anh em là muối cho đời. Nhưng
muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng thì chỉ
còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5,13). Thực tế được lời
Chúa nói đến, ai nấy đều có thể thấy hoặc cảm nghiệm.
Đức Bênêđitô XVI nói: “Thật đáng buồn khi có nhiều trường
hợp Giáo hội phải chịu đựng sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Đó
là lý do gây gương mù cho thế gian, và khiến nhiều người khước từ Giáo hội”.
Nhưng theo Đức Thánh cha, sự kiện ấy cũng có lợi cho Giáo hội. Nó giúp Giáo hội
ý thức hơn về những thiệt hại của các nạn nhân, đặc biệt trong những vụ lạm dụng
tình dục, để tìm cách sửa chữa. Hơn nũa, nó không chỉ cho thấy sự yếu đuối của
con người thừa tác viên, mà nhất là giúp cho thấy sự cao cả của quà tặng Chúa
ban, được cụ thể hóa nơi nhiều mục tử quảng đại, nhiệt thành vì Nước Trời.
Nếu có những người không ưa linh mục vì gương mù của các
ngài, thì ngược lại, có rất nhiều người yêu mên và kính trọng các ngài. Thánh
Phanxicô Assisi chẳng hạn, là một trong số ấy.
Thời của Phanxicô, tình trạng luân lý của giáo sĩ cũng
suy đồi và, có thể nói, đáng buồn hơn thời nay nữa. Nhưng ngài vẫn viết trong
di chúc: “Chúa đã ban cho tôi, và sẽ còn ban cho tôi, một lòng tin mạnh mẽ nơi
các linh mục đang sống theo luật lệ của Giáo hội Rôma, đến nỗi, ngay cả khi các
ngài làm khổ tôi, thì dầu vậy tôi vẫn muốn nại tới các ngài. Nếu tôi được khôn
ngoan như vua Salomon, và nếu có lúc nào đó tôi gặp những linh mục đáng thương
sống trong tội lỗi, tôi không muốn giảng dạy trong giáo xứ của các ngài nếu các
ngài không cho phép. Các vị ấy, cũng như tất cả các linh mục khác, tôi đều muốn
kính trọng, yêu thương và tôn vinh như các ông chủ của tôi. Tôi không muốn xem
xét tội lỗi nơi các ngài, vì chính Con Thiên Chúa mà tôi nhận ra nơi các ngài…Nếu
tôi làm thế, chính là vì tôi không thế có gì cảm được trên thế giới này, nếu
không phải là Thịt Máu chí thánh của Con Thiên Chúa, mà các linh mục lãnh nhận
mỗi ngày, vì là những thừa tác viên duy nhất của bí tích ấy”.
Trong bản văn ở đầu bài suy niệm, Phaolô nói về vinh
quang dành cho các thừa tác viên của Giao ước mới trong Thần Khí, cao quý hơn
nhiều so với trước. Vinh quang này không từ con người mà đến, và cũng không bị
con người hủy diệt. Chắc chắn những linh mục như cha thánh Gioan Maria Vianney
đã làm lan tỏa chung quanh mình hương thơm của Đức Kitô, thậm chí đôi khi là
hương thơm rất cụ thể, như nhiều người đáng tin cậy đã minh chứng. Do đó mà
ngài lôi cuồn được nhiều tín hữu tuốn đến xứ Ars.
Ngoài mẫu gương tuyệt vời của vị thánh được đặt làm bổn mạng
các linh mục, chắc hẳn còn rất nhiều vị khác không được biết đến, cũng đang tỏa
hương thơm của Chúa và của Phúc âm. Đó là vận may cho nước Chúa và cho Giáo hội.
Cha Lacordaire, một khuôn mặt trí thức của Giáo hội Pháp ở
tiền bán thế kỷ XIX, đã phác họa chân dung của một linh mục công giáo. Nhiều
người cho là cái nhìn của ngài hơi lạc quan và lý tưởng, nhưng dầu sao chân
dung ấy vẫn cần thiết cho thừa tác vụ linh mục. Ngài viết:
“Sống giữa lòng đời mà không ước muốn những lạc thú ở đời;
là thành viên của từng gia đình nhưng không thuộc về một gia đình nào ; chia sẻ
từng nỗi đau khổ, chữa lành mọi vết
thương ; mỗi ngày đi từ con người đến Thiên Chúa để dâng lên Ngài lòng sùng
kính và những lời kinh, rồi từ Thiên Chúa trở về với con người, để đem cho họ sự
tha thứ và niềm hy vọng từ Ngài ; có một trái tim thép dành cho đức khiết tịnh
và một trái tim thịt dành cho bác ái ; dậy dỗ và tha thứ, an ủi và chúc phúc và
được chúc phúc mãi mãi. Ôi, lạy Thiên Chúa, tất cả những cái đó là đời sống nào
vậy? Chính là đời sống của bạn đấy, hỡi
người linh mục của Chúa Giêsu Kitô”.
Tôi dùng hình ảnh đẹp đẽ ấy về linh mục, để kết thúc cho
bài suy niệm hôm nay.
-----
(lấy
ý trong Raniero Cantalamessa, Bài giảng thứ hai Mùa Vọng năm 2009, tại Phủ Giáo
hoàng)