KITÔ GIÁO VÀ
CHỦ NGHĨA DUY KHOA HỌC VÔ THẦN
1. Những luận đề của
chủ nghĩa duy khoa học vô thần
Để
hiểu chủ nghĩa duy khoa học vô thần là gì, có thể dựa vào mô tả của Đức Gioan
Phaolô trong Thông điệp Fides et Ratio
(Đức tin và Lý trí): “Quan niệm triết học này (duy khoa học) không chấp nhận
giá trị của những cách nhận thức khác với cách của các khoa học thực chứng, liệt
những nhận thức tôn giáo và thần học, cũng như kiến thức luân lý và thẩm mỹ,
vào lãnh vực tưởng tượng thuần túy” (số 88).
Chúng
ta tóm tắt những luận đề chính của luồng tư tưởng này như sau:
Luận
đề 1 : Khoa học, đặc biệt khoa vũ trụ học, vật lý học và sinh vật học, là hình
thức duy nhất khách quan và nghiêm túc của nhận thức thực tại. Jacques Monod viết:
“Những xã hội ngày nay dựa trên khoa học. Chúng mắc nợ khoa học về của cải, quyền
lực, và chắc chắn rằng mai kia con người sẽ có nhiều của cải và quyền lực hơn,
nếu họ muốn… Những xã hội của chúng ta đang có mọi quyền hành, của cải, do khoa
học mang lại, vẫn cố gắng sống và dạy những hệ thống giá trị đã bị khoa học hủy
hoại đến tận gốc rễ”.
Luận
đề 2 : Nhận thức của khoa học không tương hợp với đức tin chỉ dựa trên những tiền
đề không chứng minh được và cũng không ngụy tạo được. Theo nghĩa này, nhà vô thần
chiến đấu Richard Dawkins coi là “mù chữ” những khoa học gia nào nhận mình là
tín hữu. Ông quên rằng có nhiều nhà khoa học nổi tiếng đã tuyên bố và còn tiếp
tục tuyên bố mình là tín hữu.
Luận
đề 3 : Khoa học đã chứng minh giả thiết có Thiên Chúa là sai, hoặc ít nhất
không cần thiết. Quả quyết này đã được các phương tiện truyền thông phổ biến rộng
rãi, nhất là sau lời tuyên bố của nhà vật lý thiên văn người Anh Stephen
Hawking. Trong cuốn The Grand Design,
ông lặp lại những lời tuyên bố trước đây, quả quyết khoa vật lý hiện nay khiến
cho niềm tin vào một Đấng Tạo Hóa là thừa : Sự “Sáng tạo tự nhiên” khiến cho có
cái gì đó thì hơn là không có gì.
Luận
đề 4 : Hầu như tất cả hoặc ít nhất phần đông các nhà khoa học đều vô thần. Đó
là quả quyết của chủ nghĩa vô thần khoa học chiến đấu, mà đại biểu là Dawkins,
tác giả cuốn God’s Delusion, một người
tích cực bảo vệ luận đề này.
Tất
cả những luận đề trên đều không đúng, không phải do dựa trên một lý luận tiên
thiên hoặc những luận chứng thần học và đức tin, nhưng dựa trên chính phân tích
những kết quả của khoa học, hoặc các ý kiến của nhiều nhà khoa học, trong đó có
nhiều vị nổi tiếng, hôm qua cũng như hôm nay. Một người như nhà bác học Max
Planck, cha đẻ của thuyết “lượng tử”, quả quyết một vấn đề về khoa học mà nhiều
người (Augustinô, Tôma, Pascal, Kierkegard…) đã quả quyết về lý trí: “Khoa học
dẫn tới điểm mà vượt ra ngoài điểm ấy thì nó không hướng dẫn được nữa”.
Chúng
ta không muốn nói thêm về những luận đề trên. Đã có nhiều khoa học gia và triết
gia về khoa học, sở trường hơn nhiều, đã
phản bác chúng. Để dễ hiểu hơn những phản bác này, có thể dùng một thí dụ đơn
sơ sau đây:
Có
những loài chim như cú mèo chỉ sống về đêm. Mắt chúng được tạo nên để nhìn ban
đêm, trong bóng tối. Ánh sáng mặt trời có thể làm cho chúng bị mù. Những con
chim này biết thế, nên chỉ di chuyển ban đêm và bay thoải mái. Giả dụ các loài
chim có thể nói chuyện với nhau, và một con đại bàng kết thân với cú mèo, nói với
cú về mặt trời : mặt trời soi chiếu mọi vật, không có mặt trời thì tất cả chìm
trong tăm tối, giá lạnh, ngay cả ban đêm thậm chí không tồn tại nếu không có mặt
trời.. Cú mèo nghe xong trả lời: “Dỡn hoài! Có bao giờ tôi thấy mặt trời của
anh đâu. Chúng tôi kiếm ăn ban đêm rất tốt, đâu cần mặt trời. Mặt trời của anh
chỉ là giả thuyết vô dụng”.
Nhà
khoa học vô thần, khi quả quyết không có Thiên Chúa, thì cũng tương tự như vậy.
Ông phê phán về một thế giới mà ông không biết, áp dụng những luật lệ của ông
cho một đối tượng ở ngoài tầm tay của ông. Để thấy Thiên Chúa, phải nhìn bằng cặp
mắt khác, nếu không thì giống như lời Thánh vịnh nói: “Người ngu tự bảo : nào
có Chúa đâu!”
2. Nói không với chủ
nghĩa duy khoa học, nói có với khoa học
Không
chấp nhận chủ nghĩa duy khoa học không có nghĩa là từ chối khoa học, hoặc không
tin vào khoa học, cũng như không chấp nhận chủ nghĩa duy lý không có nghĩa là từ
chối lý trí. Làm khác đi là làm hại cho đức tin, trước khi làm hại cho khoa học.
Lịch sử cho thấy một thái độ như vậy đã đem lại những kết quả ra sao.
Đức
Chân phước John Henry Newman đã để lại cho chúng ta một tấm gương sáng ngời vê
thái độ cởi mở và xây dựng đối với khoa học. Sau khi tác phẩm của Darwin về sự
tiến hóa các chủng loại được phát hành, không hiếm các bậc trí giả tỏ ra hoang
mang, bối rối, nhưng ngài thì không. Ngài đã đưa ra một một nhận xét còn đi trước
phán đoán hiện nay của Giáo hội : lý thuyết đó không tương hợp với đức tin
Thánh kinh. Chúng ta hãy đọc lại một vài đoạn trong lá thư ngài gửi cho kinh sĩ
J. Walker, lá thư mà phần lớn vẫn còn giá trị: “Lý thuyết này (của Darwin)
không làm tôi lo ngại…Đối với tôi, dường như nó không có nghĩa là người ta phủ
nhận sự sáng tạo, vì Đấng Tạo Hóa, trước đây hàng triệu năm, đã ban bố những luật
lệ cho vật chất. Chúng ta không thể phủ nhận hoặc giới hạn Đấng Tạo Hóa, vì
Ngài đã tạo dựng tinh thần con người, được phú ban gần như một thiên tài sáng tạo.
Chúng ta không phủ nhận hoặc giới hạn Đấng Tạo Hóa, càng không giới hạn quyền
năng của Ngài, nếu thấy Ngài đã ban bố những luật lệ cho vật chất, chính những
luật này, do tính chất mù quáng của nó, đã có thể làm ra và xây dựng, trải qua
biết bao đời, một thế giới như chúng ta đang thấy. Vậy lý thuyết của ông Darwin
không cần phải là vô thần, dù đúng hay sai. Nó chỉ có thể gợi ra một ý tưởng lớn
hơn về sự Tiền thức và Khả năng của Thiên Chúa. Thoạt nhìn, tôi không thấy sự
tiến hóa tình cờ của các hữu thể vật chất là không tương hợp với ý định của
Thiên Chúa. Nó tình cờ đối với ta, chứ không tình cờ đối với Thiên Chúa”.
Đức
tin mạnh mẽ giúp cho Newman được thanh thản xem xét các khám phá khoa học,
trong hiện tại hoặc tương lai. Ngài thấy trong những khám phá này một “mối liên
hệ gián tiếp với những ý kiến tôn giáo”. Một ví dụ về mối liên hệ này : trong
những năm Darwin đưa ra lý thuyết tiến hóa các chủng loại, thì về phần ngài,
ngài công bố giáo thuyết của mình về “sự phát triển của học thuyết Kitô giáo”.
Nhấn mạnh tính chất loại suy giữa trật tự tự nhiên, vật lý, và trật tự luân lý,
ngài viết: “Cũng như Đấng Tạo Hóa nghỉ ngơi ngày thứ bẩy, khi công trình đã
hoàn tất, tuy thế Ngài ‘vẫn còn làm việc’, cũng vậy, Ngài đã vĩnh viễn trao ban
Kinh Tin kính ngay từ khởi thủy, tuy vậy Ngài vẫn cổ võ cho nó phát triển và
làm cho nó nới rộng thêm”.
Giáo
hội Công giáo diễn tả cụ thể thái độ mới và tích cực của mình đối với khoa học
là thiết lập Hàn lâm viện giáo hoàng về khoa học, ở đó, các nhà khoa học nổi tiếng
trên thế giới, có niềm tin hay không, gặp gỡ nhau, tự do tranh luận về những vấn
đề đem lại lợi ích chung cho khoa học và đức tin.
3. Con người cho vũ trụ
hay vũ trụ cho con người?
Ở
đây, chúng ta không có ý đưa ra một phê bình tổng quát về chủ nghĩa duy khoa học,
nhưng muốn nhấn mạnh một khía cạnh đặc biệt của chủ nghĩa này, vì nó có ảnh hưởng
trực tiếp và có tính quyết định cho việc Phúc âm hóa : vấn đề chỗ đứng của con
người trong nhãn quan của chủ nghĩa khoa học vô thần.
Chúng
ta thấy có sự cạnh tranh giữa các nhà khoa học vô tín, nhất là giữa các nhà
sinh vật học và vũ trụ học, xem ai là người sẽ đi xa nhất khi quả quyết về tính
chất bên lề và vô nghĩa của con người trong vũ trụ và trong đời sống. Monod viết:
“Liên minh cũ đã bị cắt đứt. Cuối cùng thì con người biết rằng nó chỉ có một
mình trong sự bao la thờ ơ của vũ trụ, mà từ đó nó tình cờ trồi lên. Vận mệnh của
nó, bổn phận của nó không được viết ra ở bất cứ nơi nào”. Một tác giả khác viết:
“Tôi luôn nghĩ rằng mình vô nghĩa trước mắt mọi người. Khi biết các chiều kích
của vũ trụ, tôi chỉ có thể biết mình thực sự là như thế ở điểm nào. Chúng ta chỉ
là một chút bùn trên hành tinh thuộc thái dương hệ”.
Blaise
Pascal đã bác bỏ luận đề này trước. Ông dùng một luận chứng vẫn còn có giá trị tới
hôm nay: “Con người chỉ là một cây sậy, yếu ớt nhất trong thiên nhiên, nhưng đó
là cây sậy biết suy nghĩ. Đừng để cho cả vũ trụ võ trang đè bẹp nó. Một chút
hơi bốc hay một giọt nước cũng đủ giết chết nó. Nhưng khi bị vũ trụ đè bẹp, con
người vẫn cao quý hơn cái đè bẹp mình, vì con người biết mình chết, và biết mối
lợi mà vũ trụ có về nó. Còn vũ trụ lại không biết gì về điều đó cả”.
Theo
nhãn quan duy khoa học về thực tại, cả con người lẫn Đức Kitô không còn là
trung tâm vũ trụ. Điều này đem lại những hệ quả cụ thể trong văn hóa và não trạng
của con người. Nhiều người tỏ ra thái quá trong chính sách bảo vệ môi trường, với
khuynh hướng đặt quyền lợi của thú vật, thậm chí của cây cối, ngang hàng với
quyền lợi của con người. Nhiều thú vật được nuôi dưỡng và đối đãi tốt hơn hàng
triệu con người. Ảnh hưởng này cũng ghi dấu trong lãnh vực tôn giáo. Có những
hình thức mang tính tôn giáo được nhiều người thực hiện, trong đó sự tiếp xúc
và hài hòa với những năng lực của vũ trụ thay thế cho sự tiếp xúc với Thiên Chúa,
để mong được cứu độ. Điều Phaolô nói về Thiên Chúa: “Chính ở nơi Người mà chúng
ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28), thì ở đây người ta áp dụng cho vũ trụ
vật chất.
Xét
theo một vài khía cạnh thì đây là sự trở lại của nhãn quan tiền-Kitô giáo, theo
lược đồ Thiên Chúa-vũ trụ-con người, trong khi đó lược đồ của Kinh thánh và
Kitô giáo là Thiên Chúa-con người-vũ trụ. Vũ trụ là cho con người, chứ không phải
con người cho vũ trụ. Một trong những điều triết gia ngoại giáo Celsô mạnh mẽ
chống lại người Do thái và người Kitô hữu, là quả quyết rằng “Có một Thiên
Chúa, rồi sau đó là chúng ta, vì chúng ta được Ngài tạo dựng, giống Ngài như
đúc. Mọi sự tùy thuộc vào chúng ta : đất, nước, không khí, các vì sao, mọi sự
được tạo dựng cho chúng ta, và được sắp xếp để phục vụ chúng ta”.
Tuy
vậy, vẫn có sự khác biệt sâu xa. Theo tư tưởng cổ thời, nhất là tư tưởng Hy lạp,
con người dù tùy thuộc vào vũ trụ, vẫn có một phẩm giá cao quý, còn ở đây, ngược
lại, dường như người ta muốn hạ giá con người, không muốn nó tự phụ đứng trên mọi
loài khác trong thiên nhiên. Phải coi đây là một hình thức phản nhân bản, thậm
chí một hình thức vô thần mất đi tính chất nhân bản, tệ hơn thuyết nhân bản vô
thần nữa.
Hãy
nhìn lại nhãn quan Kitô giáo. Celsô đã không lầm khi cho rằng nhãn quan này
phát xuất từ sách Sáng thế, theo đó con người được tạo dựng “theo hình ảnh và
giống Thiên Chúa” (St 1,26). Nhãn quan Thánh kinh được diễn tả đẹp đẽ nhất
trong Thánh vịnh 8: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an
bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận
tâm. Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự
làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài
muôn sự dưới chân”.
Việc
tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa hàm chứa những điều, xét theo một số
mặt, làm đảo lộn quan niệm về con người. Tất cả dựa trên mạc khải về Ba Ngôi.
Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, có nghĩa là con người được
tham dự vào yếu tính của Thiên Chúa. Yếu tính này là tương quan tình yêu giữa
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dĩ nhiên, giữa Thiên Chúa và con người
có một vực thẳm, nhưng nhờ ân sủng, vực thẳm này đã được bồi lấp, đến độ nó
không còn sâu bằng vực thẳm giữa con người và các thụ tạo khác.
Quả
thực, chỉ có con người, với tư cách là ngôi vị có thể có những tương quan, mới
tham dự vào chiều kích ngôi vị và tương quan của Thiên Chúa. Có nghĩa là : Ở cấp
độ bất thụ tạo, Ba Ngôi trong yếu tính của mình như thế nào, thì ở cấp thụ tạo,
con người trong yếu tính của mình như thế ấy. Ngôi vị thụ tạo là nhân vị, vì có
khả năng đón nhận tương quan mà Thiên Chúa muốn thiết lập với nó, đồng thời nó
có thể sản sinh ra những tương quan với các nhân vị khác và với thế giới.
4. Sức mạnh của chân
lý
Làm
sao có thể trình bầy nhãn quan Kitô giáo về mối liên hệ giữa con người và vũ trụ,
trong việc Phúc âm hóa? Khi tóm lược tư tưởng của thầy mình, một môn đồ của
Dionysiô Areopagô đã xướng lên chân lý này: “Không nên bác bỏ ý kiến của người
khác, cũng không nên viết điều gì chống lại ý kiến hay một tôn giáo xem ra
không tốt. Người ta chỉ phải viết để ủng hộ chân lý và không chống những người
khác”.
Không
thể gán cho nguyên tắc này một ý nghĩa tuyệt đối, nhưng đúng là trình bầy chân
lý theo cách tích cực thì thường hữu hiệu hơn là bác bỏ sự sai lầm ngược lại. Cần
biết đến tiêu chuẩn này trong việc Phúc âm hóa, đặc biệt trước ba vật cản là chủ
nghĩa duy khoa học, chủ nghĩa duy tục và chủ nghĩa duy lý. Cần trình bầy nhãn
quan Kitô giáo cách bình thản, dựa vào sức mạnh nội tại của nó, kèm thêm một sự
xác tín sâu xa. Chúng ta làm việc này theo lời khuyên của thánh Phêrô, là “với
sự hiền hòa và kính trọng” (1 Pr 3,16). Được như vậy thì có hiệu quả hơn là
dùng bút chiến chống lại.
Cách
diễn tả tốt nhất về phẩm giá và ơn gọi của con người trong nhãn quan Kitô giáo
được cô đọng trong giáo lý về sự thần hóa con người. Giáo lý này không có tầm
quan trong như nhau trong Giáo hội Chính thống và trong Giáo hội La tinh. Các
Giáo phụ Hy lạp coi việc thần hóa là nền tảng của linh đạo, trong khi thần học
la tinh ít nhấn mạnh hơn. Theo Từ điển về Tu đức (Dictonnaire de Spiritualité),
mục tiêu của đời sống mà các Kitô hữu Hy lạp nhắm đến là được thần hóa, còn mục
tiêu mà các Kitô hữu Tây phương theo đuổi là thủ đắc sự thánh thiện…Ngôi Lời đã
trở nên người phàm, theo người Hy lạp, là để làm cho con người giống với Thiên
Chúa, điều mà tội Ađam đã làm mất đi, để thần hóa nó. Còn theo người La tinh,
Ngôi Lời đã trở nên người phàm để cứu chuộc nhân loại…một món nợ phải trả chiếu
theo sự công chính của Thiên Chúa. Để đơn giản hóa tối đa, có thể nói thần học
La tinh, theo chân Augustinô, nhấn mạnh hơn việc Đức Kitô đến để xóa bỏ tội lỗi.
Còn thần học Hy lạp nhấn mạnh hơn điều Ngài đem đến cho con người : hình ảnh
Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần và sự sống thần linh.
Không
nên quá nhấn mạnh sự đối chọi này, như một số tác giả Chính thống giáo đã làm.
Linh đạo La tinh đôi khi cũng diễn tả lý tưởng này, cho dù không dùng chữ thần
hóa xa lạ với Kinh thánh. Trong Giờ Kinh Sách Lễ Giáng sinh, chúng ta nghe lại
lời của thánh Lêô Cả nói lên chính nhãn quan này về ơn gọi của người Kitô hữu:
“Hỡi các Kitô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây, bạn đã được thông
phần bản tính của Thiên Chúa, đừng để mình bị thoái hóa qua việc trở lại với lối
sống bất xứng đã qua. Bạn hãy nhớ ai là đầu của bạn, và bạn là chi thể của thân
mình nào”.
Đáng
buồn là có vài tác giả Chính thống giáo vẫn còn sống trong bầu khí bút chiến của
thế kỷ XIV giữa Grêgoriô Palamas và Barlaam, và dường như không biết đến truyền
thống thần bí của Giáo hội La tinh. Giáo thuyết của thánh Gioan Thánh giá chẳng
hạn, theo đó người Kitô hữu được Đức Kitô cứu chuộc và trở thành con trong người
Con, được dìm trong dòng chảy những hoạt động của Ba Ngôi, và tham dự vào đời sống
thân mật của Thiên Chúa, giáo thuyết ấy không kém giáo thuyết về thần hóa, cho
dù được diễn tả cách khác. Giáo thuyết về những ơn hiểu biết và khôn ngoan của
Chúa Thánh Thần, rất quen thuộc với thánh Bonaventura và với những tác giả thời
Trung cổ, được cũng gợi hứng đó làm cho sống động.
Tuy
vậy, cũng phải thừa nhận rằng, về điểm này, linh đạo Chính thống giáo có điều
gì đó để dạy cho phần còn lại của Kitô giáo, cho thần học thệ phản, cho thần học
công giáo. Nếu có gì thật sự đối nghịch với nhãn quan Chính thống giáo về người
Kitô hữu được ân sủng thần hóa, thì đó là quan niệm của Thệ phản, đặc biệt của
phái Luthêrô, về sự công chính hóa ngoại tại và pháp lý, theo đó người được cứu
chuộc “vừa nên công chính vừa là tội nhân” (iustus simul peccator), tội nhân nơi
mình, công chính trước mặt Thiên Chúa.
Đặc
biệt người ta có thể học với Đông phương điều này : không dành lý tưởng cao
sang của đời sống Kitô giáo cho một nhóm ưu tú được kêu gọi đi theo những con
đường của thần bí, nhưng là dành cho mọi người được rửa tội, biến nó thành đối
tượng của huấn giáo cho dân chúng, đối tượng của việc đào tạo tôn giáo trong
các chủng viện và tập viện. Trước thắc mắc của một môn sinh về mục đích tối hậu
của đời sống Kitô giáo, thánh Sêraphim Sarov của Chính thống giáo không lưỡng lự
nói ngay: “Mục đích thật sự của đời sống Kitô giáo là thủ đắc Chúa Thánh Thần,
còn kinh nguyện, chay tịnh, canh thức, bố thí và mọi hoạt động khác của con người
nhân danh Đức Kitô, chỉ là những phương thế để thủ đắc Chúa Thánh Thần”.
5. “Nhờ Người vạn vật
được tạo thành”
Giáng
sinh là cơ hội rất tốt để trình bầy lại, cho chính chúng ta và những người
khác, di sản chung lý tưởng này của Kitô giáo. Từ sự nhập thể của Ngôi Lời,
Giáo hội Hy lạp thấy sự thần hóa là điều có thể. Thánh Athanasiô không ngừng lặp
lại rằng : Ngôi Lời đã trở nên người phàm, để chúng ta có thể được thần hóa”.
Còn Grêgoriô Nazianzê thì viết: “Người đã nhập thể và con người trở thành Thiên
Chúa vì được kết hợp với Thiên Chúa”. Với Đức Kitô, con người, “hình ảnh của
Thiên Chúa”, một hình ảnh làm cho họ đứng trên các thụ tạo khác, được phục hồi
và được vào lại trong ánh sáng.
Như
chúng ta đã thấy, tính chất bên lề của con người lôi kéo theo tính chất bên lề
của Đức Kitô, trong vũ trụ và trong lịch sử. Cũng về phương diện này, Giáng
sinh là phản đề triệt để nhất của nhãn quan duy khoa học. Trong dịp lễ Giáng sinh, chúng ta được nghe lời công bố
long trọng: “Nhờ Người vạn vật được tạo thành” (Ga 1,3), “Tất cả đều do Thiên
Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người” (Cl 1,16). Giáo hội đã đưa ý tưởng trên
đây vào trong Kinh Tin kinh: “Per quem
omnia facta sunt”.
Trong
khi đó thì chung quanh chúng ta, người ta chỉ biết lặp lại : Thế giới tự biện
giải về mình, không cần giả thiết có Đấng Tạo Hóa, hoặc : Chúng ta chỉ là kết
quả của tình cờ và bắt buộc (le hasard et la nécessité). Lời như trên có thể
gây đụng chạm, nhưng một sự hoán cải và niềm tin thoát thai từ sự đụng chạm này
lại dễ hơn là từ một luận chứng hộ giáo dài dòng. Vấn đề quan trọng là : liệu
chúng ta, những người đang khao khát tái Phúc âm hóa thế giới, có khả năng làm
nẩy nở đức tin trước những khó khăn này không ? Chúng ta có thực sự hết lòng
tin rằng “mọi sự đã được tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô” chăng ?
Trong
cuốn “Dẫn nhập Kitô giáo” (1968), tác giả J. Ratzinger viết như sau: “Mục thứ
hai của Kinh Tin kính cho ta thấy cớ vấp phạm thực sự của kitô giáo. Chúng ta
tuyên xưng con người Giêsu, một con người đã bị xử tử khoảng năm 30 ở
Palestina, là Đấng Kitô (Đấng được xức dầu, được tuyển chọn) của Thiên Chúa,
hơn thế nữa, là chính Con Thiên Chúa, và như vậy là trung tâm và nền tảng quyết
định của tất cả lịch sử nhân loại. Phải chăng chúng ta thực sự có quyền bám vào
một mầm mống yếu ớt của một biến cố lịch sử độc nhất ? Phải chăng chúng ta có
thể liều mình để cho tất cả cuộc đời của ta, thậm chí tất cả lịch sử, tùy thuộc
vào một cọng rơm của một biến cố tầm thường trôi nổi trên đại dương bao la của
lịch sử?”
Chúng
ta có thể trả lời câu hỏi này không chút lưỡng lự. Đúng vậy. Đó là nguồn mạch
giải thoát và hân hoan, không phải vì sức lực riêng của chúng ta, nhưng nhờ hồng
ân vô giá của đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận, và vì đó, chúng ta cảm tạ Chúa
đến muôn thuở muôn đời.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ nhất Mùa Vọng năm 2010, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm
Micae Trần Đình Quảng