KITÔ GIÁO VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ
1. Lý trí tiếm đoạt
Chủ
nghĩa duy lý là một trong những ngăn trở làm cho một phần rất lớn văn hóa hiện
đại “kỵ” với Phúc âm.
Ngày
11/12/1831, tại Đại học Oxford, Đức Chân phước Hồng y John Henry Newman đã đọc
một bài diễn văn để đời, tựa đề “Sự tiếm đoạt của lý trí”. Tựa đề này, tự nó,
chứa đựng một phần định nghĩa chủ thuyết duy lý. Trong lời tựa ấn bản lần thứ
ba năm 1871, nơi một ghi chú, tác giả cho biết ngài muốn nói gì qua tựa đề
trên. Theo ngài, sự tiếm đoạt của lý trí là một lạm dụng của nhiều người nói về
tôn giáo mà không có một kiến thức thâm sâu và tương xứng về tôn giáo, hoặc
không sử dụng những nguyên tắc căn bản của tôn giáo. Trong Kinh thánh, “lý trí”
mạo nhận này được gọi là “sự khôn ngoan của thế gian”. Nói khác đi, luận chứng
về tôn giáo được xây dựng trên những châm ngôn của thế tục, là những châm ngôn
tự nội tại xa lạ với tôn giáo.
Trong
một bài giảng khác ở đại học, tựa đề “Đối chiêu
đức tin với lý trí”, Đức Newman cho thấy rõ tại sao lý trí không thể là
quan tòa cuối cùng về vấn đề tôn giáo và đức tin. Ngài sử dụng loại suy với
lương tâm:
“Không
ai nói lương tâm đối nghịch với lý trí, và cũng không ai nói những mệnh lệnh của
lương tâm không thể được làm dưới hình thức luận chứng. Tuy nhiên, qua đó, không
thể cho rằng lương tâm không phải là một nguyên lý nguyên thủy, và đòi nó phải
tùy thuộc vào những tiến trình tiên quyết của lý trí. Lý trí phân tích những nền
tảng và động lực của hành động, nhưng không tạo nên động lực nơi mình. Cũng như
lương tâm là một yếu tố đơn thuần của bản tính chúng ta, nhưng những hoạt động
của nó được lý trí kiểm soát và dò xét, cũng vậy, đức tin có thể biết được, và
những hành vi của nó có thể được lý trí biện minh, nhưng không vì vậy mà nó thực
sự tùy thuộc vào lý trí. Khi người ta nói rằng Phúc âm đòi hỏi một đức tin thuần
lý, thì chỉ muốn nói rằng đức tin phù hợp với lý trí trong trừu tượng, chứ
không nói rằng nó phát xuất từ lý trí trên thực tế”.
Một
so sánh khác, và lần này là với nghệ thuật. Ngài viết: “Phê bình nghệ thuật đánh
giá điều mà sự phê bình ấy không thể tạo ra. Cũng vậy, lý trí có thể chấp thuận
hành vi tin, nhưng không vì vậy mà nó là nguồn mạch từ đó phát sinh đức tin”.
Phân
tích của Newman mới mẻ và độc đáo trong một số phương diện, cho thấy lý trí có
khuynh hướng bắt mọi khía cạnh của thực tại phải quy phục những nguyên tắc
riêng của nó. Nhưng người ta cũng có thể xem xét chủ nghĩa duy lý theo một quan
điểm khác, có liên hệ chặt chẽ với quan điểm trên. Sử dụng lối ẩn dụ chính trị của
Newman, người ta có thể định nghĩa chủ thuyết duy lý như một thái độ của chính
sách biệt lập (isolationnisme), thái độ tự khép kin của lý trí. Thái độ này
không ở chỗ xâm nhập các lãnh vực khác cho bằng không chấp nhận một lãnh vực
khác hiện hữu bên ngoài lãnh vực của nó, không chấp nhận một chân lý nào bên
ngoài chân lý do lý trí chứng thực.
Dưới
khía cạnh này, chủ nghĩa duy lý không xuất hiện thời Khai sáng, cho dù phong
trào này đã giúp cho nó tăng tốc mà kết quả còn thấy được ngày nay. Đây là một
khuynh hướng luôn đụng chạm tới đức tin. Không chỉ đức tin Kitô giáo, mà cả đức
tin Do thái giáo và Hồi giáo, ít nhất ở thời Trung cổ, đã gặp thách đố này.
Chống
lại yêu sách về tính tuyệt đối của lý trí, ở thời nào cũng có những tiếng nói
không chỉ nơi những người có đức tin, mà cả nơi những người bảo vệ tích cực cho
lý trí, là các triết gia và khoa học gia. Pascal viết: “Đề xuất cuối cùng của
lý trí là thừa nhận rằng có vô số sự việc vượt qua lý trí”. Còn Kierkegaard thì
viết: “Cho tới lúc này, người ta luôn nói như sau : Nói rằng không thể hiểu việc
này việc kia, nói như vậy là không làm khoa học thỏa mãn, vì khoa học muốn hiểu.
Sai lầm là ở đó. Chính xác phải nói ngược lại : nếu khoa học không muốn thừa nhận
rằng có một cái gì đó mà nó không thể hiểu, hoặc nói rõ hơn, một cái gì đó mà
rõ ràng nó có thể hiểu rằng nó không thể hiểu, thì lúc đó thế giới đảo ngược. Vậy
nhận thức của con người hiểu rắng có vô số sự việc, và những sự việc ấy nó
không thể hiểu”.
2. Đức tin và ý thức về
Yếu tố Thiêng thánh
Phải
thấy trước là sự đối kháng nhau giữa đức tin và lý trí theo kiểu đó sẽ còn tiếp
tục trong tương lai. Mỗi thời kỳ sẽ lại tạo ra con đường riêng cho mình, là điều
không thể tránh, nhưng các nhà duy lý và các tín hữu sẽ không thu phục được
nhau. Phải tìm ra một con đường để giải thoát đức tin. Trong tất cả các cuộc
tranh luận, chính lý trí áp đặt sự lựa chọn của mình, cưỡng ép đức tin cách nào
đó vào cuộc chơi, ở bên ngoài lãnh vực của nó, và đức tin phải ở trong tư thế bảo
vệ.
Đức
Newman ý thức rõ điều này. Trong một bài giảng khác ở đại học, ngài muốn người
ta lưu ý đến nguy cơ thế tục hóa đức tin vì muốn chạy theo lý trí. Và trong tất
cả những lần đề cập tương quan giữa đức tin và lý trí, lúc ấy chưa được nói đến
nhiều như ngày nay trong các cuộc tranh luận, ngài cảnh giác : không thể chống
lại chủ nghĩa duy lý bằng một chủ nghĩa duy lý khác, ngay cả có dấu ấn chống lại.
Phải tìm ra một con đường khác. Con đường này phải đáp ứng với những người
trong cuộc, trong đó không chỉ có thành phần trí thức, mà còn có con số đông đảo
những người không quan tâm tới những tranh luận, và tỏ ra nhạy cảm hơn với những
luận chứng khác.
Trước
đây, Pascal đã đề ra con đường của con tim: “Con tim có những lý lẽ mà lý trí
không biết được”. Những thành phần lãng mạn như Schleiermacher thì đề ra con đường
tình cảm. Thiết tưởng còn một con đường khác cần được xét đến : con đường của
kinh nghiệm và chứng từ.
Ở
đây, chúng ta không nói đến kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về đức tin, nhưng nói
đến kinh nghiệm phổ quát, khách quan. Kinh nghiệm này có thể có giá trị đối với
những người còn xa lạ với đức tin. Kinh nghiệm này không đưa ta tới sự viên mãn
đức tin, một đức tin cứu độ, tức là tin vào Đức Kitô đã chết và sống lại. Dầu vậy,
nó có thể giúp ta tạo ra những kiện tiên quyết để đạt tới ơn cứu độ. Những điều
điều kiện này là mở lòng mở trí cho mầu nhiệm, nhận ra điều gì đó vượt lên trên
thế giới và lý trí.
Sự
đóng góp đáng kể nhất của khoa hiện tượng học cho đức tin, trong tác phẩm cổ điển
“Yếu tố Thiêng thánh” của Rudolp Otto, là đã cho thấy rằng điều truyền thống khẳng
định là có một điều gì đó lý trí không cắt nghĩa được, điều đó không phải là một
định đề (postulat) lý thuyết, hoặc định đề của đức tin, nhưng là một dữ kiện
tiên khởi.
Có
một tình cảm đi kèm với nhân loại ngay từ đầu, hiện diện trong mọi tôn giáo và
văn hóa. Tác giả gọi nó là tình cảm về thần thiêng (numineux). Đây là một khái
niệm cơ bản, không thể giản lược vào bất cứ tình cảm hay kinh nghiệm nào khác.
Nó làm con người run sợ trước mạc khải về mầu nhiệm, đồng thời yếu tố siêu
nhiên cũng lôi cuốn con người (mysterium tremendum et fascinosum).
Để
chỉ đối tượng của kinh nghiệm này, Otto dùng tính từ “phi lý tính”
(non-rationnel, irrationnel) (Tác phẩm có tựa đề phụ là : Yếu tố phi lý tính
trong ý tưởng về thần linh và về mối liên hệ của nó với yếu tố lý tính). Thế
nhưng trong suốt tác phẩm, tác giả chứng minh rằng ý nghĩa mà ông gán cho chữ
“phi lý tính” không phải là “ngược với lý trí”, nhưng là “bên ngoài tôn giáo”,
không thể dịch bằng những hạn từ thuần lý.
Yếu
tố thần thiêng biểu lộ qua những cấp độ tinh tuyền khác nhau. Ở cấp thô nhất là
phản ứng đáng lo ngại do lịch sử các quỷ thần gây ra. Ở cấp tinh tuyền nhất là
cách biểu lộ sự thánh thiện của Thiên Chúa – Qadosh của Kinh thánh – như trong
cảnh Thiên Chúa kêu gọi Isaia.
Nếu
đúng như vậy, cần phục hồi ý thức về sự thiêng thánh trong việc tái Phúc âm hóa
một thế giới đã bị tục hóa. Sở dĩ chủ nghĩa duy lý có đất dụng võ là vì người
ta đã mất ý thức về sự thiêng thánh. Do đó Giáo hội phải giúp con người tái
khám phá sự hiện diện và vẻ đẹp của thiêng thánh. Theo Charles Péguy, sự thiếu
thốn kinh khủng về sự thiêng thánh là dấu ấn sâu xa của thế giới hôm nay, cách
riêng trong nghệ thuật, văn chương, và tiếng nói hàng ngày.
Kinh
thánh đôi khi bị tố cáo là đã “giải thiêng” thế giới, khi xua đuổi các tiên nữ
và thần thánh ra khỏi núi rừng, biển cả, biến họ thành những thụ tạo thuần túy
để phục vụ con người. Không sai. Chính khi đánh tan ngộ nhận của họ cho mình là
thần linh, Kinh thánh đã phục hồi bản tính đích thực của họ là “dấu chỉ” của thần
linh. Kinh thánh đả phá việc thờ ngẫu tượng các thụ tạo, chứ không đả phá tính
thần thiêng của họ.
Khoa
học gia Francis Collins, thành viên của hàn lâm viện giáo hoàng, trong cuốn “Language of God”, đã mô tả thời điểm
ông trở lại đạo như sau: “Vào một ngày mùa thu đẹp trời, lúc tôi đang đi dã ngoại
ở vùng núi Cascade phía tây Mississippi, vẻ uy nghi và mỹ miều của cảnh vật
Thiên Chúa tạo thành đã khuất phục tôi. Tôi hiểu rằng cuộc tìm kiếm của tôi chấm
dứt. Sáng hôm sau, tôi quỳ trên nội cỏ còn ướt đẫm sương mai, lúc mặt trời vừa
mọc, và tôi phó mình trong bàn tay của Chúa”.
Những
khám phá lạ lùng của khoa học và kỹ thuật không làm cho người ta thất vọng,
nhưng đúng hơn, là cơ hội để thán phục và có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Cũng
tác giả Collins còn tuyên bố : nhờ tìm lại được đức tin, thời điểm tìm ra quy
luật bộ gen đơn bội (génome) là một “kinh nghiệm ca ngợi khoa học” đồng thời
cũng là một “kinh nghiệm thờ phượng tôn giáo”. Trong số những việc lạ lùng của
tạo thành, không gì lạ lùng hơn con người, và nơi con người, không gì lạ lùng
hơn trí khôn do Thiên Chúa tạo dựng.
Từ
đây, khoa học không hy vọng đạt tới giới hạn cuối cùng trong việc khám phá cái lớn
vô cùng là vũ trụ và cái nhỏ vô cùng là nguyên tử. Một số người dựa vào những
“bất cân xứng” này để chứng minh Thiên Chúa không hiện hữu và con người là vô
nghĩa. Còn đối với các tín hữu, chúng lại là những dấu chỉ tuyệt vời cho thấy cả
sự hiện hữu lẫn những thuộc tính của Thiên Chúa : sự bao la của vũ trụ là dấu
chỉ của sự cao cả vô biên và siêu việt, sự nhỏ bé của nguyên tử là dấu chỉ của
sự khiêm nhường, thể hiện qua việc Con Thiên Chúa nhập thể, trở thành thai nhi
trong lòng một người mẹ, và một mẩu bánh nhỏ trong đôi tay linh mục.
Trong
đời sống hàng ngày, không thiếu cơ hội để có thể cảm nghiệm một chiều kích
“khác”, chẳng hạn lúc phải lòng nhau, lúc đứa con đầu lòng chào đời, lúc có được
niềm vui lớn lao…Cần giúp cho người ta mở to đôi mắt và tìm lại được khả năng
ngạc nhiên, thán phục. Có một câu châm ngôn được gán cho Chúa, nhưng không tìm
thấy trong Phúc âm: “Ai ngạc nhiên, người ấy sẽ cai trị”. Trong cuốn tiểu thuyết
“Anh em nhà Karamazov”, Dostoievski
thuật lại những lời của viên sĩ quan Zosime, trước đó đã xúc động vì ân sủng,
nói với những người hiện diện, lúc ông từ bỏ cuộc song đấu với kẻ thù: “Thưa
quý vị, quý vị hãy nhìn đến công trình của Thiên Chúa, bầu trời thanh quang,
không khí trong lành, đồng cỏ xanh mướt, chim trời ca hót trong một khung cảnh
thiên nhiên tuyệt vời. Chỉ có chúng ta, những người vô đạo khờ dại, chúng ta
không hiểu rằng đời sống là một thiên đường. Chỉ cần chúng ta muốn hiểu điều đó
để thấy nó trong tất cả vẻ đẹp của nó. Khi ấy, chúng ta sẽ ôm lấy nhau mà
khóc”. Đúng là một con người ý thức về sự thiêng thánh của thế giới và của sự sống.
3. Cần những chứng từ
Khi
một kinh nghiệm về thiêng thánh và thần linh chợt đến với chúng ta, nếu được
chúng ta thực sự đón nhận và vun trồng, nó sẽ trở thành một kinh nghiệm sống của
chúng ta. Chính như vậy mà có những “chứng nhân” về Thiên Chúa là các thánh, đặc
biệt các nhà thần bí hay thần nghiệm.
Theo câu định nghĩa nổi tiếng của Dionysiô Areopagô, nhà
thần bí là người “chịu nổi Thiên Chúa” (pati divina), nghĩa là có kinh nghiệm
và sống cái thần linh. Các ngài giống như những người thám báo, lén lút vào Đất
hứa, và khi về thì kể lại những điều tai nghe mắt thấy về một miền đất chảy sữa
và mật, để thúc giục dân Chúa vượt qua sông Giođanô (Ds 14,6-9). Nhờ các ngài
mà những ánh sáng đầu tiên của đời sống vĩnh cửu đến với chúng ta trong cuộc đời
này.
Đọc
tác phẩm của các người vô thần và duy lý, chúng ta thấy những luận chứng tinh tế
nhất của họ xa lạ, thậm chí ngây ngô, như thế nào. Đối với người duy lý, chúng
ta cảm thấy ngạc nhiên và bực bội, như đứng trước một người đang nói về những
gì mà rõ ràng người đó không biết. Người đó giống như người nghĩ rằng diễn giả
liên tục nói sai văn phạm, trong khi diễn giả thực sự đang nói một ngôn ngữ
khác.
Các
nhà thần bí đã khám phá ra Thiên Chúa “hiện hữu”, hoặc đúng hơn, chỉ mình Ngài
thực sự hiện hữu, còn “thực” hơn cái quen gọi là thực tại. Chẳng hạn Edith
Stein, người Do thái, vô thần (bây giờ là thánh nữ Bênêđicta Thánh giá), đồ đệ
thân tín của Husserl ông tổ của hiện tượng luận. một đêm kia đã khám phá ra
Thiên Chúa hằng sống. Chỉ một mình ở nhà một người bạn (chủ nhà đi vắng), không
biết làm gì, cô lấy đại một cuốn sách trên giá để đọc. Đó là cuốn Tự thuật của thánh nữ Têrêxa Avila. Cô đọc
say mê suốt đêm, và khi gấp sách lại, cô đã lẩm bẩm: “Chân lý là đây!”. Vừa tảng
sáng, cô vội ra phố, tìm mua một cuốn sách giáo lý công giáo và một cuốn sách
nguyện. Đọc xong những sách này, cô tìm đến ngôi nhà thờ ở gần đó, xin linh mục
ban phép rửa tội cho mình.
Đáng
buồn là có một kiểu cách hâm mộ văn chương lại vô hiệu hóa “chứng cứ” sống động
về sự hiện hữu của Thiên Chúa, là các nhà thần bí. Người ta dùng một phương
pháp kỳ lạ : không giảm thiểu con số nhưng là gia tăng nó, không hạn chế hiện
tượng nhưng nới rộng nó quá mức. Người ta chỉ đọc sơ qua các nhà thần bí, rồi
trong tuyển tập hoặc trong sách lịch sử khoa thần bí do mình soạn thảo, tác giả
xếp vào cùng một loại những nhân vật hay khuynh hướng rất khác nhau : Thánh
Gioan Thánh giá bên cạnh Nostradamus (nhà tiên tri người Pháp ở thế kỷ XVI),
các thánh bên cạnh những nhân vật kỳ cục, thần bí Kitô giáo xen lẫn với phép
huyền bí Do thái giáo, huyền bí học, thông thiên học, các hình thức phiếm thần,
thậm chí cả thuật luyện đan. Những nhà thần bí chân thực là chuyện khác, và
Giáo hội có lý do để xét đoán nghiêm khắc về các ngài.
Nhà
thần học Karl Rahner dường như lấy lại một câu của Raimondo Pannikar, đã quả
quyết: “Người Kitô hữu ngày mai sẽ là một nhà thần bí, hoặc không là Kitô hữu”.
Qua đó, cha muốn nói rằng, trong tương lai điều giữ cho đức tin được sống động
là chứng từ của một con người có kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa, hơn là dùng
lý trí chứng minh rằng đức tin có thể chấp nhận được. Xét cơ bản thì Đức Phaolô
VI cũng không nói khác hơn, khi trong tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin mừng) ngài khẳng định: “Con người
thời nay muốn nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, hoặc nếu có nghe các
thày dạy, thì chính vì các vị này cũng là những chứng nhân”.
Khi
Tông đồ Phêrô khuyên các tín hữu sẵn sàng “trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm
hy vọng của anh em” (1Pr 3,15), thì xét theo ngữ cảnh, chắc chắn ngài không muốn
nói về cách trả lời dựa vào suy tư hay biện chứng, nhưng về cách trả lời thực
tiễn, tức là bằng kinh nghiệm của họ về Đức Kitô, liên kết với chứng từ của các
tông đồ bảo đảm cho kinh nghiệm ấy. Chú giải đoạn văn này, Hồng y Newman nói về
“những lý do mặc nhiên” mà, đối với các tín hữu, có sức thuyết phục sâu xa hơn
là những lý do minh nhiên hoặc biện luận.
4. Làm cho đức tin
vùng dậy dịp Giáng sinh
Không
chỉ những người vô tín hay duy lý mới cần có những gì siêu nhiên ùa đến với
mình, để khám phá ra đức tin. Cả chúng ta, những tín hữu, cũng cần có nữa, để
làm sống lại đức tin của chúng ta. Nguy cơ lớn mà những người có tôn giáo gặp
phải, là giản lược đức tin vào các nghi lễ và công thức, có lẽ được thực hành
chăm chút, nhưng có tính chất máy móc và không có được sự tham dự sâu sắc của họ.
“Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng, tôn vinh Ta bằng môi, còn lòng chúng thì xa
Ta lắm. Chúng chỉ kính sợ Ta theo lệnh của người phàm, nhưng đó chỉ là sáo ngữ”
(Is 29,13).
Giáng
sinh có thể là dịp thuận lợi để làm cho đức tin vùng dậy. Đây là sự “Hiển linh”
lớn lao nhất của Thiên Chúa, một cách bày tỏ cao xa nhất của Thiêng thánh.
Không
may là hiện tượng tục hóa đang làm cho lễ này mất đi tính cách của một “mầu nhiệm
vĩ đại”, khiến con người phải kính sợ và tôn thờ (tremendum), làm cho mầu nhiệm
này chỉ còn lại khía cạnh lôi cuốn (fascinosum). Ngay cả khía cạnh này cũng có
ý nghĩa thuần túy tự nhiên, chứ không siêu nhiên : là dịp gia đình đoàn tụ, những
ngày nghỉ, vui chơi, mua sắm cuối năm.. Trong một vài quốc gia, người ta còn cố
thay thề tên gọi lễ Giáng sinh bằng lễ ánh sáng. Ít có dịp nào cho thấy rõ nhất
sự tục hóa như dịp Giáng sinh.
Tìm
cho mình một khoảng không gian thinh lặng sẽ giúp ích rất nhiều, để biến Giáng
sinh thành một cơ hội cho đức tin vùng dậy. Cho dù bầu khí có vẻ động đạc,
nhưng cũng có những yếu tố giúp chúng ta làm điều trên đây : ý nghĩa đích thực
của phụng vụ, bài hát Stille Nacht, Silent Night (Đêm thinh lặng) rất quen thuộc
trong mùa Giáng sinh. Trong dịp này, chúng ta hãy coi lời Thánh vịnh sau đây là
lời kêu gọi dành cho mỗi người chúng ta: “Dừng tay lại. Hãy biết Ta đây là
Thiên Chúa” (Tv 46.11). Dừng tay là dừng mọi hoạt động bận bịu, để bày tỏ lòng
tin trước biến cố cao cả Con Thiên Chúa nhập thể, là trọng tâm của đức tin.
Chúng
ta có Mẹ Maria là mẫu gương hoàn hảo về sự thinh lặng. Người “hằng ghi nhớ mọi
kỷ niệm, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Sự thinh lặng của Mẹ không
chỉ có nghĩa là không nói, mà còn là một sự ngạc nhiên, tôn thờ, một sự thinh lặng
có ý nghĩa tôn giáo. Cách giải thích chính xác nhất về sự thinh lặng của Đức Mẹ
là từ các icônes xưa của Đông phương,
trong đó Đức Mẹ yên lặng, bất động, đôi mắt mở rộng với cái nhìn cố định, như một
người đã thấy các sự việc không thể diễn tả bằng lời. Đức Mẹ là người đầu tiên
dâng lên Thiên Chúa một “bài ca thinh lặng”, theo kiểu nói của thánh Grêgoriô
Nazianzê.
Người
thực sự sống lễ Giáng sinh chính là người ngày hôm nay, sau nhiều thế kỷ, có thể
làm điều mà anh ta đã có thể làm nếu có mặt lúc Chúa sinh ra, là người làm điều
Đức Mẹ dạy : quỳ gối, thờ lạy trong thinh lặng.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ ba Mùa Vọng năm 2010, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm
Micae Trần Đình Quảng