ĐỨC GIÊSU NADARET
MỘT TRONG CÁC TIÊN TRI ?
1. Công cuộc nghiên cứu lần thứ ba
“Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn
sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng
muôn vật muôn loài. Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của
bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lới quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.
Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời” (Dt
1,1-3).
Ở
đây, vừa có sự liên tục, vừa có bước nhảy vọt về phẩm chất. Cùng một Thiên Chúa
nói, cùng một mạc khải, nhưng mới ở chỗ giờ đây Đấng Mạc Khải trở thành mạc khải,
mạc khải và Đấng Mạc Khải trùng hợp với nhau. Công thức dẫn nhập các sấm ngôn
rõ ràng minh chứng điều đó : Không còn phải là “Đức Chúa phán bảo”, nhưng là
“Tôi nói cho các ông hay”.
Dựa
vào lời quyền năng của Thiên Chúa trong đoạn thư Do thái trên đây, chúng ta thử
phân biệt những ý kiến hiện nay về Đức Giêsu, bên ngoài cũng như bên trong Giáo
hội, để liên kết tiếng nói của chúng ta với tiếng nói của phụng vụ công bố niềm
tin vào Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Chúng ta cũng luôn nhớ lại cuộc đối
thoại ở Cêsarêa Philipphê, và tự hỏi xem, đối với tôi, Đức Giêsu có phải là “một
trong các tiên tri” hay là “Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,14-16).
Trong
lãnh vực nghiên cứu lịch sử về Đức Giêsu, người ta gọi đây là cuộc nghiên cứu lần
thứ ba. Sở dĩ gọi thế là để phân biệt với “công cuộc nghiên cứu cũ” dựa vào chủ
thuyết duy lý và tự do, từng thống trị tư tưởng cuối thế kỷ XVIII tới cuối thế
kỷ XIX, cũng như phân biệt với “công cuộc nghiên cứu mới” bắt đầu khoảng giữa
thế kỷ XX, để phản ứng lại những luận đề của Bultmann, vì ông này cho rằng không
thể tiếp cận Đức Giêsu lịch sử, vả lại cũng không quan trọng cho đức tin Kitô
giáo.
Công
cuộc nghiên cứu lần thứ ba này khác với hai lần trước ở điểm nào? Trước hết, nhờ tìm hiểu các nguồn, người ta
xác tín là có thể biết nhiều về Đức Giêsu lịch sử hơn là những gì đã biết trong
quá khứ. Đặc biệt khác ở các tiêu chuẩn sử dụng để đạt tới chân lý lịch sử về Đức
Giêsu. Trước đây, người ta nghĩ rằng tiêu chuẩn căn bản để thiết lập chân lý lịch
sử của một sự kiện hay một lời Đức Giêsu nói, là ở chỗ sự kiện hay lời nói ấy
ngược với suy nghĩ hay hành động của những người Do thái đương thời. Bây giờ
thì trái lại. Người ta xét đến sự tương hợp có thể có giữa một dữ kiện Phúc âm
và truyền thống Do thái thời ấy. Nếu một lời
tuyên bố hay một sự kiện được coi là xác thực, vì nó mới mẻ và không giải thích
được trong bối cảnh lúc ấy, thì ngày hôm nay, ngược lại, nó xác thực vì có thể
giải thích được, dựa vào những gì chúng ta biết về Do thái giáo và về tình hình
xã hội ở Galilê.
Hiển
nhiên cách tiếp cận mới mẻ này có một số lợi điểm. Có sự liên tục của mạc khải.
Đức Giêsu vẫn ở giữa lòng thế giới Do thái, theo đường hướng các tiên tri trong
Kinh thánh. Khác với trước đây, khi có thời người ta đã tưởng chỉ cần nại tới
các ảnh hưởng của thế giới Hy lạp là có thể cắt nghĩa tất cả Kitô giáo.
Vấn
đề là người ta đã đi quá xa nên thất bại. Trong ý nghĩ của nhiều đại biểu thuộc
nhóm thứ ba, Đức Giêsu cuối cùng hoàn toàn tan biến trong thế giới Do thái, chỉ
nổi hơn một chút trong một vài chi tiết hay một vài cách giải thích Torah. Ngài
chỉ là một trong các tiên tri Do thái, thuộc vào số những “lữ khách có đặc sủng”.
Chình theo nghĩa này mà một tác giả đã viết cuốn sách có tựa đề “Đức Giêsu lịch sử, Cuộc đời của một nông
dân Do thái vùng Địa Trung hải”. Muốn có được sự liên tục, người ta lại
đánh mất nét mới mẻ. Người ta quảng bá Đức Giêsu như một người Do thái hầu như
không làm điều gì mới, dầu vậy vẫn cho là Ngài đã làm thay đổi thế giới.
Người
ta tiếp tục trách những nhà nghiên cứu cũ đã tạo ra hình ảnh Đức Giêsu theo thị
hiếu của người đương thời, mà không biết rằng chính mình cũng đang làm như vậy.
Người ta nhấn mạnh Đức Giêsu chỉ là một trong số những người Do thái, một phần
là để sửa chữa những sai lầm lịch sử được gán cho dân tộc này, đồng thời để cổ
võ việc đối thoại giữa người Do thái và người Kitô hữu. Mục tiêu thì tốt nhưng
phương tiện lại sai. Nói cho cùng, đây chỉ là hình thức phò Do thái ngoài mặt.
Thực ra, người Do thái phải chịu trách nhiệm là đã không nhìn nhận một người của
mình, người đã rao giảng một giáo thuyết có thể tương hợp với những gì họ tin.
2. Giáo sĩ Do thái
Neusner và Đức Bênêđitô XVI
Chính
giáo sĩ Do thái người Hoa kỳ, Jacob Neusner, nhấn mạnh rằng dùng đường lối trên
đây để phục vụ cho việc đối thoại giữa Kitô giáo và Do thái giáo là chuyện ảo
tưởng. Ai đã đọc cuốn “Đức Giêsu thành
Nadaret” của Đức Bênêđitô XVI đều biết tư tưởng của giáo sĩ này. Chính ông
đã cho xuất bản cuốn “Một giáo sĩ Do thái
nói với Đức Giêsu”, trong đó ông tưởng tượng mình là người sống cùng thời với
Chúa, có lần cùng với đám đông dân chúng đi theo Ngài và nghe Bài giảng Trên
núi. Cho dù hài lòng với giáo huấn và con người của Ngài, rốt cuộc ông cho biết
lý do vì sao không thể làm môn đệ Ngài, và vẫn trung thành với Torah. Lý do là
thế này : để có thể chấp nhận lời Đức Giêsu giảng dạy, phải công nhận Ngài có
quyền như Thiên Chúa. Ngài không chỉ hoàn tất Lề luật, mà thay thế Lề luật.
Sau
cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, giáo sĩ trở lại hội đường, và có một cuộc đối thoại
thật cảm động với thày của ông như sau:
-
Đức Giêsu của anh có bỏ qua điều gì (trong Torah) không?
-
Thưa, không bỏ qua điều gì
-
Ông ấy có thêm thắt điều gì không?
-
Thưa có, chính ông ấy.
Một
sự trùng hợp thú vị : Đây cũng là câu trả lời của thánh Irênê (thế kỷ II) cho
những ai muốn biết điều mới mẻ được Đức Kitô đem đến thế gian. Thánh Giám mục
viết: “Ngài đã đem đến sự mới mẻ khi đem đến chính Ngài” (omnem novitatem
attulit semetipsum afferens).
Neusner
nhấn mạnh rằng không thể coi Đức Giêsu là một người Do thái “bình thường” thời
đó, hoặc chỉ khác với đồng bào của Ngài trong những điểm không quan trọng lắm..
Ông cũng có công lớn khi cho thấy mọi cố gắng tách biệt Đức Giêsu của lịch sử
và Đức Kitô của niềm tin là vô lối. Cho dù khoa phê bình không chấp nhận những
tước hiệu được gán cho Ngài lúc sinh tiền, như Mêsia, Chúa, Con Thiên Chúa..,
nhưng những gì còn lại trong Phúc âm là quá đủ để chứng minh rằng Ngài đã không
coi mình như một con người thuần túy. Cũng như chỉ cần một sợi tóc, một giọt mồ
hôi là đủ để biết ADN của một người, cũng vậy, chỉ một lời nói của Chúa trong
Phúc âm là đủ để chứng minh rằng Đức Giêsu ý thức mình hành động bằng quyền
năng của Thiên Chúa.
Là
một tín hữu Do thái trung thành, Neusner biết câu sau đây có nghĩa gì: “Con người
là chủ ngày sabbat” (Mt 12,8), vì ngày sabbat là “định chế” do Thiên Chúa đặt
ra. Hoặc như câu: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy…đến và theo Ta” (Mt 19,21).
Dạng thức thánh thiện của Cựu ước là bắt chước Thiên Chúa (Lv19,2: “Hãy nên
thánh vì Ta là Đấng Thánh”), được thay thế bằng dạng thức mới là bắt chước Đức
Kitô. Tác giả cũng biết rằng Đức Giêsu phải coi mình là Chúa nên mới không giữ
điều răn thứ tư, khi Ngài truyền cho một người không cần chu toàn bổn phận chôn
cất cha mình. Chú giải các lời tuyên bố của Đức Giêsu, ông quả quyết: “Chính Đức
Kitô của niềm tin là người đang nói ở đây”.
Đức
Bênêđitô đã giải đáp rất thuyết phục những vấn nạn của giáo sĩ Neusner. Câu trả
lời của Đức Giáo hoàng làm ta nghĩ đến câu trả lời của Đức Giêsu cho những người
được Gioan sai tới hỏi Ngài: “Ông có phải là Đấng phải đến, hay là chúng tôi còn
phải đợi một ai khác?”. Đức Giêsu không chỉ đòi hỏi cho mình uy quyền của Thiên
Chúa, Ngài còn làm những dấu lạ và những bảo đảm để minh chứng : những phép lạ,
giáo huấn (không chỉ có Bài giảng Trên núi), việc hoàn tất lời các tiên tri, nhất
là những gì Môsê đã từng nói về một tiên tri giống ông và cao trọng hơn ông. Rồi
cái chết của Ngài, sự sống lại của Ngài, cộng đồng tín hữu phát sinh từ Ngài, tất
cả cho thấy ơn cứu độ phổ quát mà các tiên tri đã từng loan báo, giờ đây được thực
hiện.
3. “Hãy khuyên bảo
nhau”
Ở
đây, cần đưa ra một nhận xét : vấn đề tương quan giữa Đức Giêsu và các tiên tri
không chỉ được đặt ra trong khung cảnh cuộc đối thoại giữa Kitô giáo và Do thái
giáo, mà còn giữa lòng thần học Công giáo, nơi không thiếu những cố gắng dùng
phạm trù tiên tri để giải thích nhân cách của Đức Giêsu.
Vả
lại, cố gắng này cũng không phải là mới. Những người như Phaolô Samôsat,
Fotinô, và nhiều người khác ngày xưa đã làm chuyện này, có khi sử dụng những hạn
từ hầu như giống nhau. Thời ấy, trong một văn hóa có chiều hướng siêu hình, người
ta nói về vị tiên tri vĩ đại nhất. Ngày nay, trong một văn hóa có chiều hướng lịch
sử, người ta nói về vị tiên tri thời cánh chung. Nhưng cánh chung có thực sự
khác với tối cao chăng? Chẳng lẽ một tiên tri cao trọng nhất lại không thể đồng
thời là tiên tri vĩnh viễn, và một tiên tri vĩnh viễn lại không thể đồng thời
là tiên tri cao trọng nhất trong các tiên tri sao?
Thực
ra, chúng ta không muốn đi sâu vào những cuộc tranh luận này. Chúng ta chỉ muốn,
từ những suy tư được đưa ra cho tới lúc này, rút ra những áp dụng thực tiễn cho
việc hoán cải và thức tỉnh thiêng liêng.
Sau
khi nói đến sự trổi vượt của Đức Kitô so với Môsê và các tiên tri, thì trong phần
kết luận, thư Do thái không nhấn mạnh sự trổi vượt của Kitô giáo trong tâm trạng
đắc thắng, nhưng là trách nhiệm của người Kitô hữu trước mặt Thiên Chúa. Thư viết
như sau:
“Vì
thế, chúng ta càng phải chú tâm hơn nữa vào những lời đã nghe, kẻo bị cuốn trôi
đi mất. Quả vậy, nếu lời được các thiên thần loan báo đã có hiệu lực, và nếu mọi
vi phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi,
nếu chúng ta thờ ơ vơi ơn cứu độ như thế” (Dt 2,1-3), và “Ngày ngày anh em hãy
khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra
cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt” (Dt 3,13).
Trong
chương 10, tác giả viết thêm: “Ai khinh thường luật Môsê, theo lời chứng của
hai hay ba người, thì sẽ bị xử tử thẳng tay. Phương chi kẻ đã chà đạp Con Thiên
Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao ước đã thánh hiến mình, và nhục mạ Thần khí ban
ân sủng, thì anh em thử nghĩ xem kẻ ấy đáng chịu hình phạt ghê gớm hơn biết mấy”
(Dt 10,28-29).
Lời
mà chúng ta muốn dùng để khuyên bảo nhau, như tác giả mời gọi, là lời kêu gọi
quen thuộc trong Mùa Vọng: “Hãy tỉnh thức”. Có một ghi nhận thật thú vị : Khi lời
trên được lặp đi lặp lại trong Mùa Phục sinh, thì hầu như luôn làm cho người ta
cảm động hơn. Không phải “Hãy tỉnh thức”, nhưng là “Hãy chỗi dậy”. Từ tình trạng
tỉnh thức sang hành vi chỗi dậy.
Có
thể thấy một nhận xét căn bản này : Trong cuộc đời, chúng ta thường có nguy cơ
rơi lại vào giấc ngủ, tức là vào một tình trạng mà các quan năng của ta ngưng lại,
một tình trạng uể oải lơ là về đường thiêng liêng. Vật chất mê hoặc tâm hồn
chúng ta. Trong trường hợp này, Đức Giêsu từng có lời khuyên: “Anh em phải đề
phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc
21,34).
Một
điều có thể có ích cho ta là xét mình, lắng nghe lại lời thánh Augustinô nói
trong cuốn Tự Thú, về tình trạng nửa thức nửa ngủ này:
“Hành
lý của thế gian này đối với con, y như người ta nằm mơ, là nhẹ nhàng, còn khi
con suy nghĩ về hữu thể của Ngài, tư tưởng của con tựa như những cố gắng của một
người muốn thức giấc, và sau khi đã mở choàng mắt, lại ngủ tiếp…; con biết chắc
rằng miệt mài với tình yêu Chúa vẫn tốt cho con hơn là buông thả cho dục vọng,
nhưng nếu tình yêu Chúa làm con yêu thích và mê say, thì con vẫn thích thú với
dục vọng, và bị nó trấn giữ. “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ. Từ chốn tử
vong, chỗi dậy đi nào. Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi” (Ep 5,14) con không đáp lại
được lời nào, rằng lời Chúa là chân thật, và bằng chứng là khắp nơi, chân lý
khiến con câm miệng. Con không có gì để đáp lại ngoại trừ những lời lẽ uể oải,
đầy ngái ngủ như: “Có ngay, được rồi, tức khắc và kiên nhẫn đi. Thêm một chút
thời gian nữa đi”. Nhưng những câu “có ngay, tức khắc” thì chẳng có gì tức khắc
cả, và “một chút thời gian nữa” cứ mãi mãi kéo dài” (Conf. VIII).
Chúng
ta biết cuối cùng Augustinô đã thoát khỏi tình trạng này như thế nào. Ở Milanô,
đang lúc bị xâu xé giữa xác thịt và thần trí, ngài nghe thấy có tiếng nói : Hãy
cầm lấy và hãy đọc (Tolle et lege). Ngài cho đây là lời Thiên Chúa mời gọi.
Đang cầm trong tay cuốn sách chép những lá thư của Phaolô, ngài mở ra, nghĩ bụng
lời đầu tiên tìm thấy chính là lời Chúa muốn nói với mình. Những lời đầu tiên này
ở trong thư Rôma: “Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa
cứu độ chúng ta đã đến gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp
tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy
vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang
sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng
không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều
theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13,11-14). Một luồng ánh sáng
an tịnh chiếu qua thân xác và linh hồn của Augustinô, và ngài hiểu rằng, được
Thiên Chúa trợ giúp, ngài có thể sống khiết tịnh.
4. “Xin ban cho con sự
khiết tịnh và tiết dục”
Roberto
Benigni, diễn viên hài nổi tiếng của Ý trong những năm qua (vai chính trong
phim Life is beautiful), được nhiều người ưa thích. Trong một buổi truyền
thông, có lẽ không nghĩ trước, ông đã buột miệng nói ra một lời có thể nói là độc
hại đối với giới trẻ. Ông bảo họ đừng sợ đam mê, đừng sợ yêu thử, đừng sợ chuyện
có quan hệ xác thịt trước với nhau. Để hỗ trợ cho lời kêu gọi của mình, ông
trích dẫn lời của Augustinô thưa với Thiên Chúa: “Xin ban cho con sự khiết tịnh
và tiết dục, nhưng chưa phải bây giờ” (Conf. VIII), như thể tiên vàn cứ thử xem
sao, rồi sau này khi về già, không còn vấn đề nữa, thì lúc ấy mới thực tập sự
khiết tịnh!
Diễn
viên trích thánh Augustinô, nhưng bỏ qua một điều quan trong : thánh nhân sau
đó đã phải hối hận khi cầu nguyện như vậy lúc còn trẻ, và đã phải khóc lóc nhiều,
khi tìm cách thoát khỏi cảnh làm tôi cho đam mê này của mình. Diễn viên cũng bỏ
qua không nhắc tới lời kinh được Augustinô đọc lên thay thế cho lời cầu nguyện
trên, sau khi ngài tìm lại được tự do: “Chúa đã truyền cho con khiết tịnh, thì
xin ban cho con điều Chúa truyền, và truyền cho con làm điều Chúa muốn” (Conf.
IX).
Chúng
ta không tin rằng tuổi trẻ ngày nay cần được khuyến khích “yêu thử”, phá vỡ rào
cản. Chúng cần những con người khơi lên nơi chúng những lý do có giá trị, chắc
chắn không phải để sợ thân xác và tình yêu, nhưng ít nhất để sợ làm băng hoại
thân xác và tình yêu.
Trong
bài thơ về Hỏa ngục (trong tập Thần Khúc), thi sĩ Dante đã nêu ra một trong những
lý do sâu xa. Điều dữ là bắt lý trí lụy phục bản năng, thay vì bắt bản năng lụy
phúc lý trí: “Tôi nghe biết là những người phạm tội xác thịt, những người bắt
lý trí lụy phục sự thèm khát, đã bị kết án chịu khổ hình này”. Sự thèm khát có chức
năng của nó, nếu nó lụy phục lý trí, bằng không, nó sẽ trở thành kẻ thù của
tình yêu, đưa đến những lỗi phạm xấu xa nhất.
Ở
đây, chúng ta chỉ nói những gì trực tiếp hơn với chúng ta. Chắc chắn đời sống
thiêng liêng không chỉ là việc giữ đức khiết tịnh và trong sạch, nhưng nếu
không giữ, sẽ không thể cố gắng trong những việc khác. Như thánh Phaolô nói
trong thư Rôma, sự trong sạch thực sự là một “khí giới sự sáng”, một điều kiện
để ánh sáng Đức Kitô lan tỏa chung quanh ta và xuyên qua ta.
Ngày
nay, người ta có khuynh hướng đối nghịch tội lỗi đức trong sạch và tội lỗi đức
bác ái, và thường coi tội chống lại người khác mới thực sự là tội. Đôi khi người
ta còn chế nhạo việc quá quý trọng nhân đức trong sạch, được người xưa gọi là
“nhân đức tốt đẹp”. Có thể hiểu được một phần lý do. Trong quá khứ, do quá nhấn
mạnh, và nhấn mạnh cách thiên lệch, những tội xác thịt, môn luân lý học ít quan
tâm hơn đến những bổn phận đối với người khác. Việc nhấn mạnh như vậy đồng thời
cũng gây hại cho chính đức trong sạch, vì coi nhân đức này hoàn toàn có tính
cách tiêu cực, chỉ biết nói “không”.
Ngày
nay chúng ta lại chứng kiến một sự đảo ngược thái quá, một khuynh hướng giảm nhẹ
tội lỗi đức trong sạch, để chỉ chú ý tới người khác. Thực ảo tưởng khi nghĩ rằng
có thể phục vụ người khác cách trung thực, tức đòi hy sinh, quảng đại, quên
mình, trong khi đời sống riêng lại vô trật tự, chỉ biết làm thỏa mãn tính xác
thịt và đam mê. Người không biết nói “không” với chính mình, không thể nói “có”
với anh em.
Trong
não trạng của nhiều người, một trong những lý lẽ viện ra để bào chữa cho tội lỗi
đức trong sạch, để không chịu trách nhiệm nào cả, đó là : Tôi đâu có làm thiệt
hại ai, tôi đâu có xúc phạm đến quyền và sự tự do của ai (trừ khi có bạo hành
thân xác). Nghĩ sao về lời biện minh trên đây? Chưa kể lỗi đức trong sạch là xúc
phạm đến luật căn bản của Thiên Chúa, lý do bào chữa trên đây cũng sai cả trong
tương quan với người khác, vì tội này không chỉ liên hệ với người phạm tội.
Sách
Talmud (sách diễn giải Kinh thánh) của các giáo sĩ Do thái có kể một câu chuyện
ngụ ngôn cho thấy rõ sự liên đới trên đây, cũng như sự nguy hại mà tội của một
người gây ra cho những người khác : Có nhiều người cùng đi trên một chiếc thuyền.
Một người trong bọn táy máy khoan một lỗ nhỏ dưới chỗ mình ngồi. Những người
khác trông thấy đều lên tiếng can ngăn. Người kia trả lời: có hệ gì đến các anh
đâu, tôi khoan dưới chỗ tôi ngồi mà! Cả bọn nhao nhao phản đối : Nhưng nước sẽ
tràn vào thuyền và chúng ta sẽ chết đuối hết.
Việc
làm sai trái của một người liên hệ với người khác cũng từa tựa như thế. Và phải
chăng đây cũng là điều đang xẩy ra trong xã hội hôm nay? Chính Giáo hội biết rõ
tội của một số linh mục về vấn đề này tác hại như thế nào cho toàn thể Giáo hội.
Chúa
Giêsu nói với Mẹ thánh Têrêxa Calcutta, khi Ngài kêu gọi Mẹ đi thi hành một sứ
vụ mới: “Hãy đến, hãy là ánh sáng của Ta (trên thế giới)” (“Come, be my
light”). Đây cũng là lời Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta. Cùng với lời
chuyển cầu và ơn trợ giúp của Đức Maria, chúng ta muốn đón nhận lời ấy với tất
cả tình yêu, và cố thực hiện trong đời sống.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng Mùa Vọng năm 2007, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm Micae Trần Đình Quảng