LINH MỤC.
TÔI TỚ VÀ BẠN HỮU CỦA CHÚA KITÔ
1.
Nguồn mạch chức tư tế
Cồng
đồng Vatican đã dành trọn một sắc lệnh, tức sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, để bàn về
chức linh mục. Năm 1992, Đức Gioan Phaolô ban hành tông huấn hậu thượng
hội đồng giám mục Pastores dabo vobis
về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay. Còn Đức Benêđitô
XVI, nhân năm linh mục 2009 do ngài mở ra, đã ban hành một văn kiện, tuy
vắn, nhưng súc tích về linh mục, dựa vào cuộc đời của cha thánh
Gioan Maria Vianney. Ngoài ra, về đề tài này, còn vô số những diễn từ
hay bài viết của các mục tử cũng như của các tác giả.
Vậy
chúng ta có thể nói gì thêm trong một bài suy niệm hạn chế? Có một
nhà giảng thuyết, khi khởi đầu bài giảng tuần tĩnh tâm, đã nói như
sau: “Non nova ut sciatis, sed vetera ut
faciatis”. Quan trọng không phải là biết những gì mới, nhưng là
thực hành những gì đã biết. Ở đây, chúng ta chỉ muốn dựa vào lời
Chúa để khơi dậy một vài ý tưởng hy vọng có thể đánh động lòng
trí chúng ta.
Lời
Chúa chúng ta muốn dựa vào là lời thư Corintô (1Cr 4,1) mà nhiều
người chắc đã quen: “Sic nos existimet
homo ut ministros Christi et dispensatores mysteriorum Dei” (Vậy chớ gì
thiên hạ coi chúng tôi như những tôi tớ của Đức Kitô, những người quản
lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa). Ngoài ra, để làm sáng tỏ một vài
khía cạnh, chúng ta dựa thêm vào câu định nghĩa về linh mục trong thư
gửi tín hữu Do thái: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong
số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong
các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như lễ vật
đền tội” (Dt 5,1).
Những
lời trên đây có lợi là dẫn chúng ta tới gốc rễ chung của mọi chức
linh mục, lúc thừa tác vụ tông đồ chưa phân chia thành ba cấp bậc
giám mục, linh mục và phó tế. Chỉ sang thế kỷ II, thời thánh Ignatiô
Antiokia, mới thấy rõ sự phân chia này. Sách Giáo Lý của Giáo Hội
Công Giáo làm nổi bật gốc rễ chung khi định nghĩa chức thánh là “bí
tích qua đó sứ mạng Chúa Kitô ủy thác cho các tông đồ tiếp tục được
thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế; vì thế được gọi là bí
tích của thừa tác vụ tông đồ” (số 1536).
Chúng
ta muốn suy niệm dựa vào ý nghĩa đầu tiên này, để có thể hiểu yếu
tính của thừa tác vụ linh mục. Ở đây, chúng ta chỉ suy nghĩ về khía
cạnh thứ nhất của lời thư Corintô, tức là suy nghĩ về linh mục như
là những tôi tớ của Chúa Kitô, tôi tớ với tất cả sự đẹp đẽ, cao cả
của tước hiệu này.
Chúng
ta chưa muốn nói đến những sự phục vụ thuộc thừa tác vụ, như rao
giảng và ban các bí tích (sẽ nói nếu có dịp). Có nghĩa là không
nói về sự phục vụ như là những hành vi, nhưng như một tình trạng,
một ơn gọi cơ bản, một cái gì đó thuộc chân tính của linh mục. Và
chúng ta cũng nói dựa vào tinh thần của Phaolô, người luôn luôn tự coi
mình là tôi tớ của Đức Kitô, được ơn gọi làm tông đồ, như ngài vẫn
xác nhận ở đầu mỗi lá thư.
Dĩ
nhiên, người kitô hữu nào cũng đều là tôi tớ của Chúa, nhưng linh mục
là tôi tớ với một tước hiệu và một ý nghĩa đặc biệt. Cũng như
người được rửa tội nào cũng đều là linh mục, nhưng thừa tác viên có
chức thánh là linh mục với một tước hiệu và một ý nghĩa khác hơn
và cao quý hơn.
2. Những người tiếp nối công trình của
Chúa Kitô
Sự
phục vụ chủ yếu của linh mục, theo lời mời gọi của Chúa Kitô, là
tiếp tục công trình của Ngài trên thế giới. “Như Cha đã sai Thày, thì
Thày cũng sai anh em” (Ga 20,21). Trong thư gửi tín hữu Corintô, ĐGH
Clêmentê đã diễn giải lời trên như sau: “Đức Kitô được Thiên Chúa sai
đi, còn các Tông Đồ được Đức Kitô sai đi… Các ngài rao giảng khắp nơi
trong các làng mạc và thành phố, đặt những người kế nhiệm đầu tiên,
những người này được Thần Khí thử luyện để trở thành giám mục và
phó tế”. Đức Kitô được Chúa Cha sai đi, các Tông Đồ được Đức Kitô sai
đi, các giám mục được các Tông Đồ sai đi. Đó là phát biểu đầu tiên
về nguyên lý kế tục tông đồ.
Tuy
vậy, lời Chúa Giêsu nói trên đây không chỉ có ý nghĩa pháp lý và
chính thức. Nói cách khác, nó không chỉ đặt nền móng cho quyền của
các thừa tác viên có chức thánh được giảng dạy như là những người
được Chúa Kitô sai đi. Nó còn cho thấy động lực và nội dung của lệnh
truyền, không khác với lệnh truyền mà chính Chúa Kitô nhận được từ
Chúa Cha. Vì sao Chúa Cha sai Con mình đến trong thế gian? Chúng ta
không thể nói hết lý do, vì muốn nói hết, phải đọc tất cả Phúc âm.
Chúng ta chỉ dựa vào mấy lời tuyên bố của Chúa.
Trước
Philatô, Chúa long trọng xác nhận: “Tôi đã đến thế gian là để làm
chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Vậy đối với linh mục, tiếp tục công
trình của Chúa bao gồm việc làm chứng cho sự thật. Theo Gioan, từ
“sự thật” (aletheia) có hai nghĩa mà chúng ta phải để ý. Sự thật vừa
là thực tại Thiên Chúa vừa là biết về thực tại đó, vừa có ý
nghĩa hữu thể học hay khách quan, vừa có ý nghĩa tri thức hay chủ
quan. Sự thật là “thực tại vĩnh cửu như đã được mạc khải cho con
người, sự thật vừa có liên hệ với chính thực tại, vừa có liên hệ
với mạc khải về thực tại” (H. Dodd).
Cách
giải thích truyền thống thường hiểu “sự thật” theo nghĩa mạc khải
và hiểu biết về sự thật, như một chân lý thuộc tín điều. Chắc chắn
đây là một nhiêm vụ chủ yếu. Giáo Hội đã chu toàn nhiêm vụ này qua
huấn quyền, các công đồng, các nhà thần học, và từng linh mục là
người rao giảng “giáo lý lành mạnh” cho dân Chúa.
Tuy
vậy, không nên quên ý nghĩa thứ hai về sự thật được Gioan nói đến, ý
nghĩa về thực tại được biết đến, hơn là sự hiểu biết thực tại ấy.
Nếu vậy, nhiệm vụ của Giáo Hội và của mỗi linh mục không chỉ giới
hạn vào việc công bố những chân lý đức tin, mà còn phải giúp cho
người ta cảm nghiệm được chân lý đó, có được mối tương giao sâu xa và
cá nhân với thực tại Thiên Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần.
Thánh
Tôma Aquinô nói: “Đức tin không dừng lại ở lời phát biểu, nhưng nơi sự
vật” (Fides non terminatur ad
enuntiabile sed ad rem). Cũng theo cách đó, các thày dạy đức tin
không thể chỉ giảng dạy những chân lý đức tin, không chỉ giúp cho
người ta có ý tưởng về Thiên Chúa, mà còn phải giúp cho họ cảm
nghiệm về Ngài, biết Ngài theo nghĩa Kinh thánh.
Lời
tuyên bố thứ hai của Chúa Giêsu mà chúng ta muốn suy niệm là lời
Ngài nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Phải đọc câu này dựa vào câu Chúa
nói ngay trước đó: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban người Con
một, để ai tin vào người Con ấy thì không hư mất, nhưng được sống đời
đời”. Chúa Giêsu đã đến mạc khải cho con người ý muốn cứu độ và
tình yêu của Chúa Cha. Tất cả việc rao giảng của Ngài tóm tắt trong
lời Ngài nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc ly: “Chúa Cha yêu mến anh
em” (Ga 16,27).
Tiếp
tục công trình của Chúa Kitô trên thế giới có nghĩa là chấp nhận
thái độ nền tảng này của Chúa đối với con người, ngay cả đối với
những người xa cách nhất. Không phải là xét xử, nhưng là cứu độ.
Cách đối xử với con người mà thư Do thái rất nhấn mạnh khi mô tả
khuôn mặt của Chúa Kitô như Vị Thượng Tế, cũng như khuôn mặt của mọi
linh mục, cần phải được lưu ý: đó là có thiện cảm, ý thức về sự
liên đới, có lòng trắc ẩn.
Nói
về Chúa Kitô, thư Do thái viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải
là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã
chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ tội lỗi” (Dt
4,15). Còn về linh mục thì đó là người “được chọn trong số người
phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối
tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.
Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm
lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối, mà vì yếu đuối, nên
người phải dùng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ
đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5,1-3).
Thực
ra đọc trong Phúc âm, ta thấy cũng có lúc Chúa tỏ ra nghiêm khắc, xử sự
như quan tòa và lên án. Nhưng nghiêm khắc với ai? Không phải đối với lê
dân đi theo và nghe Ngài giảng, nhưng là đối với những kẻ giả hình,
những kẻ tự mãn về mình, những bậc thày và người chỉ đạo trong
dân. Chúa không phải hạng người chỉ “mạnh với kẻ yếu” nhưng lại “yếu
trước kẻ mạnh”, như một số nhà chính trị phê phán về Ngài. Nhưng
cách hành xử của Ngài thì ngược lại.
3.
Người tiếp tục chứ không phải kế vị
Chúng
ta có thể nói về các linh mục như là những người tiếp tục công
trình của Chúa Kitô theo nghĩa nào?
Trong
mọi thể chế của con người ngày hôm nay, người kế vị tiếp tục công
trình, nhưng không phải là người sáng lập. Đôi khi người ta thay đổi hoặc
không công nhận người sáng lập nữa, nhưng trong Giáo Hội thì không như
vậy. Chúa Giêsu không có những người kế vị, vì ngài không chết những
vẫn sống.
Vậy
đâu là nhiệm vụ của các thừa tác viên? Nhiệm vụ đó là làm cho Chúa
Kitô hiện diện, làm cho sự hiện diện vô hình của Ngài trở thành
hiện diện hữu hình. Chiều kích tiên tri của chức tư tế là ở đó.
Trước Chúa Kitô, nhiệm vụ của tiên tri chủ yếu là loan báo ơn cứu độ
tương lai, “trong những ngày sau cùng”. Sau Chúa Kitô, nhiệm vụ ấy là
mạc khải cho thế giới sự hiện diện ẩn giấu của Chúa Kitô, là kêu
lên như Gioan Tẩy Giả: “Có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi
không biết”.
Một
hôm, có mấy người Hy Lạp “đến gặp ông Philipphê … và nói: “Thưa ông,
chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12,21). Bất cứ ai ngày nay đến
với linh mục đều xin cách tương tự.
Thánh
Grêgoriô Nyssê đã đưa ra một kiểu nói nổi tiếng, thường áp dụng vào kinh
nghiệm của các nhà thần bí. Kiểu nói đó là “Cảm thức về sự hiện
diện”. Cảm thức về sự hiện diện có gì khác hơn là lòng tin đơn
thuần vào sự hiện diện của Chúa Kitô. Đây là một cảm thức sống
động, sự nhận thức gần như thể lý về sự hiện diện của Đấng Phục
Sinh. Nếu điều đó thuộc về thần bí, thì có nghĩa là mọi linh mục
đều phải là nhà thần bí, hoặc ít nhất là người dẫn vào mầu nhiệm
(mystagogue), đưa người ta đi vao mầu nhiệm của Thiên Chúa và của Chúa
Kitô.
4.
Tôi tớ và bạn hữu
Giờ
đây, chúng ta cần suy nghĩ thêm một bước nữa, suy nghĩ về linh mục như
là tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô. Thế nhưng, danh xưng này không bao giờ
đứng một mình, mà luôn đi kèm với một danh xưng khác, ít nhất như
chúng ta muốn. Danh xưng khác này là bạn hữu.
Gốc
rễ chung của mọi thừa tác vụ thánh là việc Chúa Giêsu lựa chọn
Nhóm Mười Hai, và thiết lập chức linh mục. Theo phụng vụ, Chúa Giêsu
đã lập ra chức linh mục ngày Thứ Năm
Tuần Thánh, dựa vào lời Chúa nói sau khi lập Phép Thánh Thể: “Anh em
hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Chính lời này cũng giả thiết
việc lựa chọn Nhóm Mười Hai, chưa kể chỉ nguyên lời đó còn
biện minh cho vai trò của linh mục là người thánh hóa, người cử hành
phụng vụ.
Chúa
đã nói gì vào dịp này? Tại sao Ngài đã chọn Nhóm Mười Hai sau khi
đã cầu nguyện suốt đêm? “Người lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với
Người và để Người sai các ông đi rao giàng” (Mc 3,14-15). Ở với Chúa
và đi rao giảng. Ở và đi, nhận và cho. Nhiệm vụ của các cộng tác
viên của Chúa chủ yếu là ở mấy chữ đó.
Chắc
chắn ở với Chúa Giêsu không chỉ là gần gũi bằng thân xác. Đây là
tất cả sự phong phú còn trong tình trạng phôi thai mà Phaolô nói đến
bằng mấy chữ “trong Chúa Kitô” hoặc “với Chúa Kitô”. Điều này có
nghĩa là chia sẻ với Đức Kitô trong mọi sự: cuộc sống nay đây mai đó
của Ngài, tư tưởng của Ngài, mục tiêu của Ngài, tinh thần của Ngài.
“Bạn đồng hành”, theo gốc la tinh như thời Trung cổ hiểu, là người ăn
cùng một tấm bánh (compagnon = cum + panis).
Trong
diễn từ giã biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã bổ túc ý nghĩa đồng
hành bằng ý nghĩa bạn hữu: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ
nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thày gọi anh em là bạn
hữu, vì tất cả những gì Thày nghe được nơi Cha của Thày, Thày đã
cho anh em biết” (Ga 15,15).
Trong
lời đầy yêu thương này của Chúa, có một điều gì đó phải làm cho chúng
ta xúc động. Không xúc động sao được khi chúng ta, vốn là tạo vật
thấp hèn, tội lỗi như mọi người, được Chúa thương cho làm tôi tớ
phục vụ đã là điều quá hạnh phúc! Đàng này, Chúa lại còn coi là
bạn hữu của Ngài, bạn của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Thánh
Phaolô, khi nói về tình yêu của Chúa Giêsu, dường như cũng luôn xúc
động: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô” (Rm
8,35), “Ngài đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Chúng ta,
nhất là cánh đàn ông thường không thích biểu lộ xúc động, có khi
còn xấu hổ vì nó. Đó là vì chúng ta chưa lường hết sự đẹp đẽ của
nó. Cứ nhìn vào gương của Chúa mà coi. Chúng ta thấy Chúa “chạnh
lòng thương” (Lc 7,13) trước bà góa Naim, thổn thức và xao xuyến trong
lòng trước hai chị em Matta và Maria, khóc thương Lazarô (Ga 11,33.35).
Linh mục xúc động khi nói về tình yêu của Thiên Chúa, về những đau
khổ của Chúa Kitô, thì nhiều khi điều đó có giá trị thuyết phục hơn
là những biện luận minh giải này khác. Xúc động không hẳn là lúc
nào cũng phải khóc, nhưng là có cái gì đó người ta có thể thấy
trong đôi mắt, nghe được trong giọng nói. Trong Thánh Kinh những lần
Thiên Chúa xúc động không phải là hiếm.
5.
Hồn của chức tư tế
Một
mối liên hệ cá nhân, đầy tin tưởng và bạn hữu với Chúa Giêsu làm nên
hồn của chức tư tế. Tôi dùng kiểu nói “hồn của chức tư tế” vì liên
tưởng tới một cuốn sách nổi tiếng của cha Chautard có tựa đề là L’âme de tout apostolat, đã được dịch
sang tiếng Việt là “Hồn tông đồ”. Đây là cuốn sách đã mang lại nhiều
lợi ích cho vô số người trước Công đồng Vatican II. Vào một thời có
rất nhiều phương tiện được đưa ra nhằm giúp cho việc tông đồ tại các
giáo xứ thành công hơn, như phim ảnh, các sáng kiến về xã hội, các
nhóm văn hóa…, khiến cho nhiều người cảm thấy phấn khởi, thì tác
giả lại đưa người ta về với trọng tâm của vấn đề, đồng thời gióng
lên tiếng nói về mối nguy của một hoạt động trống rỗng, nặng hình
thức bên ngoài. Tác giả viết: “Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu phải là sự
sống của các công trình”.
Không
phải tác giả coi nhẹ tầm quan trọng của các hoạt động mục vụ, nhưng
khẳng định rằng, nếu không có sự sống hiệp thông với Chúa, những
hoạt động ấy sẽ khập khiễng, hoặc, nói mạnh hơn như thánh Bênađô,
chúng chỉ là những “công việc đáng nguyền rủa”.
Chúa
nói với Phêrô: “Simon, anh có mến Thày không? Hãy chăn các chiên của
Thầy”. Hoạt động mục vụ của mọi thừa tác viên trong Giáo Hội, dù ở
cấp bậc nào đi nữa, cũng chỉ là cách diễn tả cụ thể tình yêu dành
cho Chúa Kitô. Phải yêu Thầy đã rồi mới chăn dắt. Chính tình yêu đối
với Chúa làm nên sự khác biệt giữa một linh mục công chức và một
linh mục tôi tớ của Chúa, phân phát các mầu nhiệm Thiên Chúa.
Sách
của cha Chautard, “Hồn tông đồ”, nếu đổi tựa đề là “Hồn của chức tư
tế”, cũng không có gì sai, vì trong cả cuốn sách, thực tế là nói
về linh mục, như là người có trách nhiệm hàng đầu về mục vụ trong
Giáo Hội. Hồi ấy, nguy hiểm mà người ta muốn chống lại là khuynh
hướng Mỹ (l’américanisme: nhắm
tới hoạt động, không thích chiêm niệm, đề cao những nhân đức được coi
là làm phát triển con người thời đại mới, mà không ưa những nhân đức
được coi là thụ động, tiêu cực như nhịn nhục, hy sinh… American way of life lôi kéo theo American way of faith!). Quả thực, cha
Chautard đã nhiều lần nhắc tới tông thư của Đức Lêô XIII “Testem bene volentiae” lên án khuynh hướng này. (Nói đúng ra, một số
vấn đề của khuynh hướng này không có gì đáng lên án hết. Một phần
những đòi hỏi của tín hữu Mỹ, đặc biệt của phong trào do cha Isaac Hecker
khởi xướng, người đã thiết lập dòng Paulist Fathers, được coi là
nhiễm khuynh hướng Mỹ, chẳng hạn đòi tự do tôn giáo, nhấn mạnh sự
cần thiết phải đối thoại với thế giới hiện đại, thì chính là
những đòi hỏi có tính chất tiên tri, đã được Vatican II nhận làm của
mình!)
Ngày
nay, khuynh hướng này không còn là riêng của Mỹ, nhưng là mối đe dọa
cho tất cả hàng giáo sĩ trong Giáo Hội, với hình thức hiếu động
quá đáng.
Bước
đầu tiên để làm cho Chúa Giêsu trở thành hồn của chức tư tế là hãy
coi Ngài như một ngôi vị, chứ không phải như một nhân vật. Người ta có
thể tha hồ nói về một nhân vật, nhưng không một ai nghĩ phải nói với
nhân vật đó. Nói về César thì được, nhưng không ai nói với César cả.
Nói với César, hẳn sẽ bị coi là người mắc bệnh tâm thần. Chuyện “nói
với” là dành cho một ngôi vị. Ngôi vị là người mà người ta có thể
nói với. Bao lâu Chúa Giêsu chỉ là Đấng được bàn trong sách vở, trong
các tín điều mà người ta tin, hoặc chỉ được coi như một con người
trong lịch sử được nhớ đến, mà không phải một Đấng đang hiện diện,
thì Ngài vẫn chỉ là một nhân vật. Cho nên, phải xác tín Ngài đang
sống và hiện diện, và nói với Ngài thì quan trọng hơn là nói về
Ngài.
Một
trong những đặc tính đẹp đẽ nhất nơi khuôn mặt của linh mục Don
Camillo, nhân vật chính trong các tác phẩm của Guareschi, là cách ngài
lớn tiếng thưa với Chúa Giêsu trên thập giá về tất cả những gì xẩy
ra trong giáo xứ ngài coi sóc. Nếu chúng ta tập thói quen làm như
ngài, một cách bộc phát, bằng lời lẽ riêng của chúng ta, chắc hẳn
sẽ có nhiều thay đổi trong cuộc đời linh mục của chúng ta. Khi đó,
chúng ta hiểu rằng tiếng của mình không rơi vào khoảng không, nhưng là
đang thưa lên một Đấng đang hiện diện, lắng nghe và trả lời ta, cho dù
Ngài không nói lớn tiếng như đã nói với Don Camillo.
Cũng
như mọi công trình sáng tạo bên ngoài của Thiên Chúa phát xuất từ
nội tâm của Ngài, từ tình yêu của Ngài, và cũng như mọi hoạt động
của Chúa Kitô phát xuất từ sự kết hiệp sâu xa của Ngài với Chúa
Cha, mọi công việc của linh mục phải phát xuất từ sự kết hợp với
Chúa Kitô. Câu “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” cũng được
hiểu theo nghĩa đó. Chúa đã đến trong thế gian mà vẫn không xa cách
Chúa Cha, thì chúng ta cũng đi vào thế gian mà không xa cách Chúa.
Khi
không còn sự kết hợp này nữa thì giống như căn nhà bị cúp địện. Nhà
sẽ tối thui. Mọi sinh hoạt ngưng trệ. Hoặc giống như vòi nước không
còn nước cung cấp.
Có
người sẽ nghĩ: làm sao có thể thinh lặng cầu nguyện trong khi có
biết bao nhiêu công việc phải làm? Căn nhà đang cháy thì phải hối hả
đến cứu chứ? Đúng. Nhưng thử tưởng tượng điều này : lính cứu hỏa
tức tốc cho xe đến, nhưng đến nơi thì thấy bồn không có nước. Tương
tự như vậy khi chúng ta đi rao giảng hoặc thi hành một thừa tác vụ
nào đó mà không cầu nguyện cũng như không có Thánh Thần hỗ trợ. Cầu
nguyện chính là nước để chữa cháy.
Phải
đặt ưu tiên cho những việc quan trọng, những việc cần thiết, để có
thể làm tốt những việc khác. Thánh Phêrô bảo: “Phần chúng tôi, chúng
tôi miệt mài với kinh nguyện và với việc phục vụ Lời” (Cv 6,4).
Linh
mục chúng ta thường có nguy cơ hy sinh việc quan trọng để làm công
việc được cho là cấp bách. Kinh nguyện, dọn bài giảng, chuẩn bị
Thánh lễ, học hỏi, đào luyện, tất cả đều là những việc quan trọng,
nhưng có thể không cấp bách. Nếu có để làm sau thì thế giới không
vì vậy mà sụp đổ, đang khi có rất nhiều việc nhỏ nhưng phải làm
ngay, như gặp ai đó, gọi hay trả lời điện thoại… Cứ như vậy, chúng ta
có khuynh hướng thường xuyên không làm ngay những việc quan trọng, tự
dối mình là “sẽ làm sau” mà thực tế nhiều khi không làm hoặc làm
chiếu lệ cho qua.
Hãy
bắt đầu một ngày bằng cách dành thời giờ cầu nguyện với Chúa, để
những hoạt động bận bịu khác không chiếm chỗ của nó.
Chúng
ta kết thúc bài suy niệm bằng cách mượn lời cầu nguyện của cha
Chautard, tác giả cuốn sách đã nói trên:
“Lạy
Chúa, xin ban cho Giáo Hội có nhiều tông đồ, nhưng xin Chúa làm cho tâm
hồn những người này biết khát khao sống thân mật với Chúa và làm
việc lành cho người khác. Xin giúp họ biết hoạt động có chiêm niệm
và biết chiêm niệm có hoạt động. Amen”.
-----
(Lấy
ý trong Raniero Cantalamessa, Bài giảng II Mùa Vọng năm 2009, tại
Vatican)
Micae Trần Đình Quảng