VUI TRONG HY VỌNG

 

1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa

Trong một chương của sách viết về Đức Giêsu Nadarét, Đức Bênêđitô minh giải sự khác biệt căn bản giữa tước hiệu “Con Thiên Chúa” và tước hiệu “Con” thuần túy. Trái với những gì người ta thường nghĩ, tước hiệu “Con” thuần túy mạnh hơn tước hiệu “Con Thiên Chúa” rất nhiều. Tước hiệu sau được gán cho Đức Giêsu sau khi đã được gán cho một loạt nhân vật. Dân Israel, cách riêng vua của họ, được gọi là con Thiên Chúa. Các pharaons, các vua chúa Đông phương, hoàng đế Rôma, đều tự cho mình là con Thiên Chúa. Vậy chỉ mình nó, tước hiệu này không đủ để phân biệt con người Đức Kitô với mọi “con Thiên Chúa” khác.

Nhưng tước hiệu “Con” thì khác. Trong Phúc âm, “Con” hoàn toàn thuộc về Đức Kitô. Chính với tước hiệu này mà Đức Giêsu diễn tả chân tính sâu xa của mình. Sau Phúc âm, thư Do thái tuyệt đối sử dụng tước hiệu này, lặp đi lặp lại tới năm lần!

Bản văn ý nghĩa nhất, trong đó Đức Giêsu tự coi mình là “Con”, chính là Mt 11,27: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha ; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho”. Theo các nhà chú giải, lời tuyên bố này của Đức Giêsu rõ ràng có nguồn gốc aram, và những tiến triển về sau của chủ đề này trong Phúc âm Gioan có nguồn gốc xa hơn trong ý thức của chính Đức Giêsu.

Theo nhận xét của Đức Bênêđitô, sự hiệp thông tri thức toàn diện và tuyệt đối giữa Chúa Cha và Chúa Con không thể giải thích được nếu không có một sự hiệp thông hữu thể học hoặc sự hiệp thông hữu thể. Những công thức sau này, đạt tới tột đỉnh trong định tín của Công đồng Nicêa, như “được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha”, là những tiến triển táo bạo nhưng ăn khớp với dữ kiện Phúc âm.

Bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy Đức Giêsu ý thức mình là con chính là kinh nguyện của Ngài, trong đó Đức Giêsu không chỉ cống bố mà còn sống thân phận của mình là con. Tiếng kêu Abba xuất hiện thường xuyên trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu, chứng tỏ giữa Ngài và Chúa Cha có sự thân mật không thấy trong truyền thống Israel. Nếu cách diễn tả được giữ y nguyên như trong ngôn ngữ nguyên thủy, và trở thành đặc điểm của kinh nguyện Kitô giáo (X.Ga 4,6 ; Rm 8,15), thì chính vì người ta tin chắc đây là lời cầu nguyện kiểu mẫu của Đức Giêsu.

2. Một Đức Giêsu của các người vô thần?

Dữ kiện Phúc âm này rọi một ánh sáng đặc biệt vào cuộc tranh luận hiện nay chung quanh con người Đức Giêsu. Trong phần dẫn nhập vào cuốn sách của mình, Đức Bênêđitô có trích lời quả quyết của nhà thần học R.Schnackenburg, theo đó “nhân vật Giêsu, nếu không được cắm neo vào Thiên Chúa, thì chỉ có tính lược phác, không thật và không cắt nghĩa được”. Đức Giáo hoàng nói rắng đây “cũng là nền tảng cuốn sách của tôi : thấy Đức Giêsu từ sự hiệp thông của Ngài với Chúa Cha, vì nhân cách của Đức Giêsu có trọng tâm đích danh là Chúa Cha”.

Điều này làm sáng tỏ vấn đề của một cuộc nghiên cứu lịch sử về Đức Giêsu, mà ngay từ đầu, không lý gì đến đức tin, hơn nữa còn loại bỏ nó ; nói cách khác, tính hợp lý lịch sử của Đấng đôi khi được định nghĩa là "Đức Giêsu của các người vô thần". Ở đây, chúng ta không nói về đức tin vào Đức Kitô và thần tính của Ngài, nhưng về đức tin trong ý nghĩa thông thường nhất của thuật ngữ, tức là tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Nếu không lý gì đến chuyện tin vào Thiên Chúa hoặc nếu phủ nhận niềm tin này, người ta không chỉ loại trừ thần tính hay Đấng được gọi là Đức Kitô của lòng tin, mà ngay cả Đức Giêsu của lịch sử, thậm chí sẽ không còn con người Giêsu nữa. Về phương diện lịch sử, không ai có thể tranh cãi chuyện Đức Giêsu sống và hoạt động luôn quy chiếu về Cha trên trời, chuyện Ngài cầu nguyện và dạy người ta cầu nguyện, chuyện Ngài dựa mọi thứ trên lòng tin vào Thiên Chúa. Nếu người ta loại bỏ chiều kích này của Chúa Giêsu, thì tuyệt đối không còn gì là của Ngài nữa.

Nếu người ta đi từ nguyên tắc, hiểu ngầm hoặc được nói rõ, là Thiên Chúa không hiện hữu, thì Đức Giêsu chỉ là một người ngây thơ trong số bao nhiêu người đã cầu nguyện, đã thờ phượng, đã nói chuyện với cái bóng của mình, hoặc sự phóng chiếu bản chất của mình, nói theo kiểu Feuerbach. Đức Kitô hẳn sẽ là nạn nhân nổi tiếng nhất của điều mà người vô thần chiến đấu Dawkins định nghĩa là “ảo tưởng về Thiên Chúa”. Nhưng khi ấy làm sao có thể giải thích cuộc đời của con người này "đã làm thay đổi thế giới", và, hai ngàn năm sau, tiếp tục thách thức bao nhiêu người, không như một ai khác? Nếu ảo tưởng là có khả năng làm những gì Đức Giêsu đã làm trong lịch sử, thì khi ấy Dawkins và những người khác có lẽ nên xem lại khái niệm ảo tưởng của mình.

Chỉ có một cách thoát khỏi khó khăn này : đó là cách được quả quyết trong cuộc "Hội thảo về Đức Giêsu” tổ chức tại Berkeley, Hoa Kỳ. Đức Giêsu không phải là một tín hữu Do thái. Tự cơ bản, Ngài là một triết gia rày đây mai đó, theo kiểu các người khuyển nho. Ngài không loan báo Nước Thiên Chúa, cũng không loan báo ngày tàn sắp đến của thế giới. Ngài chỉ nói những câu châm ngôn theo cách một thiền sư. Mục tiêu là đánh thức nơi con người ý thức về họ, thuyết phục họ rằng họ không cần Ngài hay một vị thần nào khác, vì họ mang trong mình một tia sáng thần linh. Nhưng, thật trùng hợp : chính là những những điều được phái “Thời Mới” (New Age) rao giảng từ những thập niên qua. Hình ảnh về Đức Giêsu được tạo ra như một cái “mốt” của hiện đại. Quả thực, vì không cắm neo nơi Thiên Chúa, hình ảnh của Đức Giêsu chỉ là một “lược phác, không thực và không cắt nghĩa được”.

2. Sự tiền hữu của Đức Kitô và Ba Ngôi

Về điểm này, cũng như khi chỉ coi Đức Giêsu như một tiên tri, vấn đề không chỉ nảy sinh trong cuộc tranh luận với nhà phê bình vô tín; nó còn được đặt ra trong cuộc tranh luận thần học giữa lòng Giáo Hội, theo một cách thức khác và một tinh thần khác.

Đối với tước hiệu Con Thiên Chúa, người ta đang chứng kiến một loại đi lên trong Tân Ước. Hồi đầu, tước hiệu này có liên hệ với sự sống lại của Đức Kitô (Rm 1,4 ; Cv). Maccô đi ngược trở lại, cho nó liên hệ với lễ rửa của Chúa ở sông Giođan (Mc 1,11). Matthêu và Luca còn lùi xa hơn, đưa trở lại ngày Ngài được Đức Maria sinh ra (Lc 1,35). Thư Do thái làm một bước quyết định, quả quyết Con đã không bắt đầu hiện hữu khi đến thế gian, nhưng vốn hằng hữu. Thư viết: “Thiên Chúa đã nhờ Người (Con) dựng nên vũ trụ, Người phản ánh vẻ vinh quang, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,2-3). Ba mươi năm sau, Phúc âm Gioan tôn dương ý kiến trên bằng những lời: “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1).

 Giờ đây, về sự tiền hữu của Đức Kitô như Con hằng hữu của Chúa Cha, một số người chủ trương một “Kitô học mới” đưa vấn đề ra. Họ quả quyết rằng sự tiền hữu của Đức Kitô như Con hằng hữu của Chúa Cha là một khái niệm huyền thoại phát xuất từ văn hóa Hy lạp. Nói khác đi, Đức Giêsu tiền hữu là do ý định của Thiên Chúa, chứ không phải là chuyện có thực, tức là từ đời đời Chúa Cha đã thấy trước, tuyển chọn và yêu mến Đức Giêsu, Đấng sẽ được Đức Maria sinh ra sau này, như con của mình. Vậy Ngài tiền hữu như mỗi người chúng ta, vì như thánh Phaolô nói, hết thảy chúng ta đã được “chọn” nơi Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã ưu tiên cho ta làm nghĩa tử trước cả khi tạo thành vũ trụ (x.Ep 1,4).

Theo quan điểm này, niềm tin vào Ba Ngôi, cùng với sự tiền hữu của Đức Kitô, không còn nữa. Ba Ngôi chỉ còn là một chuyện lạ lẫm (có một ngôi vị hằng hữu là Chúa Cha, một ngôi vị lịch sử là Đức Giêsu, một năng lực thần linh là Chúa Thánh Thần). Hơn nữa, Ba Ngôi không hiện hữu ab aeterno (từ đời đời), nhưng trở thành Ba Ngôi trong thời gian.

Thực sự, đề tài này không mới. Ý tưởng về sự tiền hữu của Chúa Con, một sự tiền hữu chỉ có trong ý định chứ không có thực, đã được các nhà tư tưởng Kitô giáo ngày xưa đưa ra, tranh luận và bài bác. Thế kỷ IV, Fotinô chủ trương sự tiền hữu của Đức Kitô “dưới dạng tiên kiến” (kata prôgnosin). Một công nghị đã chống lại ông như sau: “Ai nói rằng Chúa Con đã chỉ hiện hữu trong tiên kiến và không được Chúa Cha sinh ra trước thời gian để là Thiên Chúa, và để nhờ Người mà sáng tạo mọi sự, người đó bị vạ tuyệt thông”.

Ý định của các nhà thần học mới này thật đáng khen. Họ muốn trình bày một dữ kiện có từ xưa bằng một thứ ngôn ngữ mà con người thời nay có thể hiểu. Tiếc rằng điều được trình bầy bằng ngôn ngữ hiện đại lại không phải là điều được các Công đồng định tín, nhưng lại là điều bị các Công đồng lên án.

Thánh Athanasiô đã từng lưu ý rằng ý tưởng về một Ba Ngôi gồm những thực tại dị thể (réalités homogènes) xúc phạm đến sự duy nhất của Thiên Chúa. Tiếp đến, nếu cho rằng Thiên Chúa “trở thành” (Ba Ngôi) trong thời gian, thì không có gì bảo đảm với chúng ta là sự tăng trưởng và trở thành ấy đã chấm dứt. Người đã trở thành, sẽ còn trở thành mãi!

Về vấn đề này, Larry Hutardo, giáo sư ngôn ngữ, văn chương và thần học về Tân ước ở Edinburg đã có ý kiến như sau: “Việc tôn kính Đức Giêsu như là Thiên Chúa đã bùng lên tức khắc và sớm sủa, chứ không từ từ và muộn màng, nơi các nhóm môn đồ ở thế kỷ I. Đặc biệt hơn, việc ấy đã bắt nguồn từ các Kitô hữu gốc Do thái trong những năm đầu tiên. Chỉ có những người theo quan điểm duy tâm tiếp tục quyết đoán việc tôn kính Đức Giêsu như là Thiên Chúa là do ảnh hưởng của ngoại giáo, và do những người trở lại từ ngoại giáo, coi nó như mới xẩy ra và có tiến triển. Vả lại, việc tôn kính Đức Giêsu như là “Chúa”, được diễn tả đúng cách qua việc thờ phụng và vâng phục hoàn toàn, đã được phổ biến rộng rãi, không bị giới hạn hoặc được quy cho các nhóm đặc biệt như “các người Hy lạp” hay các Kitô hữu gốc ngoại giáo, hoặc cái gọi là “sự thờ phụng Đức Kitô” trong truyền thống Syria. Trong các nhóm Kitô hữu đa dạng đầu tiện, niềm tin vào Đức Giêsu là Chúa được phổ biến đáng kinh ngạc”.

Kết luận trên đây lẽ ra phải chấm dứt ý kiến vẫn còn chiếm ưu thế trong một số tác phẩm mới đây, theo đó việc tôn kính Đức Kitô như là Chúa là kết quả sau này của đức tin (mà hoàng đế Constantinô đã dùng luật để áp đặt, theo ý kiến của Dan Brown trong sách “Mật mã Da Vinci” của ông).

3. “Đức cậy nhỏ bé”

Năm 2007, Đức Bênêđitô ban hành một thông điệp về đức cậy. Ngoài nội dung thâm thúy, thông điệp còn hữu ích chỗ giúp cho các tín hữu tập trung vào một điểm, kích thích sự suy nghĩ về điểm này. Ở đây, chúng tha thử đưa ra một áp dụng nhỏ về tu đức và thực tiễn từ nội dung thần học của thông điệp, cho thấy bản văn của thư Do Thái có thể góp phần nuôi dưỡng đức cậy của chúng ta như thế nào.

Thư Do thái viết: “Chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta. Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn cung thánh. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiên phong mở đường cho chúng ta” (Dt 6,18-20). Nền tảng của niềm hy vọng này dựa trên sự kiện là: “Trong những ngày cuối cùng này, Thiên Chúa đã phán dậy qua người Con”. Thánh Phaolô nói: “Nếu Người đã ban cho ta người Con của mình, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32). Vì thế, “trông cậy không làm thất vọng” (Rm 5,5). Việc ban người Con là bảo chứng cho mọi sự khác, và trước hết là sự sống vĩnh cửu. Nếu người Con là Đấng “thừa hưởng muôn vật muôn loài (heredem universorum)” (Dt 1,2) thì chúng ta là những người “đồng thừa kế” với Ngài (Rm 8,17).

Các tá điền sát nhân trong một dụ ngôn, trông thấy người con của ông chủ đến, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi!  Nào ta giết quách nó đi và đoạt lấy gia tài của nó” (Mt 21.38). Thiên Chúa nhân từ và toàn năng đã biến ý định tội ác này thành điều thiện. Người ta đã giết người Con, và thực sự lại được hưởng gia tài. Nhờ cái chết của người Con, người ta trở thành “những người thừa hưởng của Thiên Chúa và đồng thừa kế với Đức Kitô”. Là loài thụ tạo, chúng ta cần có hy vọng để sống, như cần ôxy để thở. Chúng ta thường nghe nói rằng bao lâu còn sống là còn hy vọng. Nhưng nói ngược lại cũng đúng : bao lâu còn hy vọng là còn sống. Đã từ lâu, đức cậy đã là và vẫn còn là em gái nhỏ trong số ba thần đức. Người ta thường nói về đức tin, nói nhiều hơn về đức ái, nhưng rất ít khi nhắc đến đức cậy.

Thi sĩ Pháp Charles Péguy có lý khi so sánh ba thần đức với ba chị em gái : hai chị lớn và một em nhỏ. Cả ba đi trên đường phố, tay trong tay (ba thần đức không thể tách rời nhau), hai chị lớn đi hai bên và em gái nhỏ đi giữa. Nhìn họ, ai nấy đều nghĩ hai chị lớn (đức tin và đức mến) lôi kéo đức cậy nhỏ đi ở giữa. Nhưng người ta lầm. Chính đức cậy lôi hai chị lớn. Nó đứng lại thì hai chị cũng phải đứng lại.

Đức cậy là sợi dây từ trên cao, từ trung tâm nâng đỡ tất cả niềm hy vọng của con người. Sợi dây từ trên cao là tựa đề một dụ ngôn của văn sĩ Đan Mạch Johannes Jorgensen. Ông nói về một con nhện bám vào cành cây bằng một sợi tơ mà nó đã giăng. Từ đó nó bắt đầu giăng màng nhện. Đúng là một kiệt tác. Màng nhện được kéo sang các bên bởi nhiều sợi tơ, nhưng tất cả đều dựa vào sợi dây trung tâm, hoặc sợi dây từ trên đưa nhện lên xuống. Nếu có chỗ nào đó trong màng nhện bị đứt, con nhện đến vá lại, nhưng nếu dây chính từ trên xuống mà đứt thì gây ra sụp đổ hoàn toàn. Con nhện đành bỏ cuộc. Đức cậy là sợi dây giăng từ trên. Chỉ mình nó có thể neo những niềm hy vọng của con người vào niềm hy vọng “không bao giờ tàn lụi”. Dây hy vọng đó bị cắt đứt là hết.

Trong Kinh thánh, chúng ta thấy có những niềm hy vọng thực sự trỗi dậy, chẳng hạn như trong bài Than khóc thứ ba. Nhà tiên tri nói: “Tôi là người đã sống cảnh lầm than…Tôi tự nhủ : cuộc sống của mình nay chấm dứt. Hy vọng nơi Đức Chúa cũng tiêu tan” (Ac 3,18).

Nhưng đột nhiên niềm hy vọng trỗi dậy làm đảo lộn tất cả. Một lúc nào đó, người cầu nguyện tự nhủ: “Lượng từ bi Đức Chúa đâu đã cạn. Lòng thương xót của Người mãi không vơi. Vì thế, nơi Người tôi trong cậy… may ra còn chút hy vọng nào chăng” (Ac 3,1-32). Lúc nhà tiên tri quyết định bắt đầu lại hy vọng, giọng điệu của ông thay đổi hẳn : nỗi ai ca biến thành lời cầu xin phó thác: “Đức Chúa chẳng bỏ rơi mãi mãi. Có làm khổ Người cũng xót thương vì Người vốn từ bi cao cả” (Ac 3,32).

Để niềm hy vọng này trỗi dậy, chúng ta có được một động lực lớn lao hơn nhiều. Thiên Chúa đã ban Con của Người cho chúng ta, làm sao Người lại không ban cho chúng ta tất cả mọi ân huệ?

Chúng ta có một liệu pháp hương thơm dựa trên dầu của niềm vui là Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần thứ liệu pháp này để chữa lành bệnh tật độc hại hơn hết : đó là sự thất vọng, chán nản, mất tin tưởng nơi mình, trong đời sống và thậm chí trong Giáo hội. “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” Rm 15,13), thánh Phaolô đã viết như vậy cho giáo đoàn Rôma thời ngài, Ngài cũng muốn lặp lại như thế cho chúng ta hôm nay.

Người ta không tràn trề hy vọng nếu không có sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Trong một bài hát negro spiritual, chúng ta được nghe một vài chữ lặp đi lặp lại: “Có một thứ dầu thơm ở Gilead chữa lành những tâm hồn bị tổn thương” (There is a balm in Gilead / to make the wounded whole). Gilead hay Galaad là một địa điểm nổi tiếng trong Cựu ước về những dầu thơm và hương liệu (Gr 8,22). Bài hát tiếp rằng: “Đôi khi tôi cảm thấy thất vọng và tôi nghĩ rằng mọi sự đều vô ích, nhưng Chúa Thánh Thần chợt đến và mang lại sức sống cho tâm hồn”. Đối với chúng ta, Galaad là Giáo hội. Dầu thơm chữa lành là Chúa Thánh Thần. Đó là mùi thơm mà Đức Giêsu để lại sau khi đi qua con đường trần gian này.

Niềm hy vọng thật lạ lùng. Khi nó tái sinh trong tâm hồn, mọi sự trở nên hoàn toàn khác, cho dù không có gì thay đổi. “Thanh niên thì mệt mỏi, trai tráng cũng ngả nghiêng lảo đảo. Nhưng những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân” (Is 40,30-31).

Nơi nào niềm hy vọng tái sinh thì tái sinh trước hết là niềm vui. Thánh Tông đồ nói rằng các người tín hữu spe salvi “được cứu nhờ hy vọng” (Rm 8,24). Không phải những con người hy vọng được hạnh phúc, nhưng là những con người được phúc vì hy vọng;  hạnh phúc ngay từ bây giờ chỉ vì hy vọng.

Xin Thiên Chúa của niềm hy vọng ban cho chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần và lời chuyển cầu của Đức Maria “Mẹ của miềm hy vọng”, được hân hoan trong hy vọng và tràn đầy hy vọng.

(lấy ý trong Raniero Cantalamessa, Bài giảng thứ ba Mùa Vọng năm 2007, tại Phủ Giáo hoàng)

Lm. Micae Trần Đình Quảng


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều