ĐỨC GIÊSU KITÔ VÀ TẠO THÀNH
Trong
những bài suy niệm này, chúng ta đặt con người nhân thần của Đức Kitô vào trung
tâm của hai yếu tố là vũ trụ và lịch sử, không gian và thời gian, sáng tạo và
con người. Quả thực, chúng ta cần lưu ý rằng, mặc cho tất cả những gì được nói
về Ngài, Đức Giêsu Kitô vẫn là một người bị ruồng bỏ trong văn hóa chúng ta. Ngài
hoàn toàn vắng mặt trong ba cuộc đối thoại chính, trong đó đức tin đi vào thế
giới đương đại : đối thoại với khoa học, đối thoại với triết học và đối thoại
giữa các tôn giáo.
Mục
tiêu cuối cùng không phải là lý thuyết nhưng thực tế. Đó là tiên vàn đặt Đức
Kitô ở "trung tâm" cuộc sống cá nhân của ta và viễn tượng của ta về
thế giới, ở trung tâm của ba nhân đức đối thần : đức tin, đức cậy và đức mến. Giáng
sinh là thời điểm thuận tiện nhất để suy niệm về điều đó, vì lễ này nhắc nhở
chúng ta lúc mà Ngôi Lời làm người, đi vào trong tạo thành và lịch sử, trong
không gian và thời gian, ngay cả về phương diện thể lý.
1. Trái đất trống rỗng
Trong
bài suy niệm này, chúng ta suy nghĩ về mối liên hệ giữa Đức Kitô và vũ trụ.
"Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có
hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt
nước" (St 1,1-2). Sau đây là cách một tác giả thời Trung cổ, ông Alexander
Neckam (1157-1217), bình giải những câu đầu tiên của Kinh Thánh trong bài thơ của
ông :
Trái
đất trống rỗng vì Ngôi Lời chưa trở nên người phàm.
Trái
đất của chúng ta trống rỗng vì sự sung mãn của ân sủng và chân lý chưa cư ngụ
giữa chúng ta.
Nó
trống rỗng vì chưa vững chắc và ổn định bằng cách liên kết với thần linh.
Nơi
ở của chúng ta trống rỗng vì thời gian viên mãn chưa đến.
"Và
bóng tối bao trùm vực thẳm". Ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu
soi mọi người, ánh sáng ấy chưa đến.”
Tôi
cho rằng mối liên hệ nối kết sáng tạo và nhập thể chỉ có thể diễn đạt theo kiểu
kinh thánh và gợi ý hơn bằng cách đọc đối chiếu lời mở đầu sách Sáng thế với lời
mở đầu sách Tin Mừng Gioan, như tác giả trên đã làm. Thông điệp Laudato si’ dành cho vấn đề này một đoạn
văn mà chúng ta có thể đọc hết, vì tương đối vắn :
“Theo
cách Kitô giáo hiểu về thực tại, vận mệnh của toàn thể sáng tạo phải qua mầu
nhiệm Đức Kitô, Đấng hiện diện ngay từ nguồn gốc mọi vật: ‘Tất cả đều do Thiên
Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người’ (Cl 1,16). Tự ngôn của Phúc Âm thánh
Gioan (1,1-18) cho thấy hành động sáng tạo của Đức Kitô như Lời của Thiên Chúa
(Logos). Thế nhưng tự ngôn này làm chúng ta ngạc nhiên khi xác nhận rằng Lời
‘đã trở nên người phàm’ (Ga 1,14). Một Ngôi Vị của Ba Ngôi Thiên Chúa tự hội nhập
vào vũ trụ được tạo thành và đã liên kết với tạo thành cho đến thập giá. Từ khởi
đầu thế giới, đặc biệt từ mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Chúa Kitô thực hiện một
cách bí mật trong toàn thể thực tại, mà không ảnh hưởng gì đến sự độc lập của
chúng” (số 99).
Vần
đề là cần biết con người Đức Kitô chiếm hữu địa vị nào liên quan đến toàn thể
vũ trụ. Ngày nay, nhiệm vụ này cấp bách hơn bao giờ hết. Maurice Blondel đã viết
cho một người bạn như sau :
"Trước
các chân trời do các khoa học tự nhiên và nhân loại mở rộng, nếu không muốn phản
bội Công giáo, người ta không thể duy trì những lời giải thích tầm thường và những
quan điểm hạn chế làm cho Đức Kitô trở thành một sự ngẫu nhiên của lịch sử, cô
lập Ngài trong vũ trụ như một tập phim giả tưởng, và dường như làm cho Ngài trở
thành một kẻ xâm nhập hoặc một kẻ lạ nước lạ cái trong chốn bao la mênh mông và
thù địch của vũ trụ".
Các
bản văn kinh thánh mà đức tin của chúng ta dựa vào liên hệ đến vai trò vũ trụ của
Đức Kitô là những bản văn của Phaolô và Gioan được Thông điệp trích dẫn, nên được
trích dẫn hết ở đây.
Bản
văn đầu tiên (theo thứ tự thời gian) là bản văn thư Phaolô gửi cho tín hữu Côlôssê
1,15-17: "Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra
trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng
dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền
năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người
có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người”.
Bản
văn thứ hai là Gioan 1,3 và 10: "Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và
không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành... Thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng thế gian lại không nhận biết Người”.
Mặc
dù có sự tương ứng gây ấn tượng giữa hai bản văn, người ta có thể thấy nét khác
biệt trong cách hai bản văn nhấn mạnh, một điều có tầm quan trọng rất lớn trong
sự phát triển thần học sau này. Đối với Gioan, thời điểm "Ngôi Lời đã trở
nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" là yếu tố bản lề giữa sáng tạo và
cứu chuộc ; còn theo Phaolô, đó đúng hơn là thời điểm thập giá. Đối với Gioan,
đó là nhập thể, đối với Phaolô đó là mầu nhiệm vượt qua.
Quả
thực, bản văn Colossê viết thêm: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn
hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải
với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho
mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,19-20)
Suy
tư của các Giáo phụ, dưới áp lực của lạc giáo, thực tế chỉ nhấn mạnh đến con người
Đức Kitô và những gì Ngài đã làm để cứu rỗi con người ; còn ngoài ra, các ngài nói
rất ít hoặc không nói gì về tầm quan trọng mang tính vũ trụ, nghĩa là về ý
nghĩa của Đức Kitô đối với phần còn lại của tạo thành.
Chống
lại người phái Ariô, những bản văn này nhằm khẳng định thần tính và sự tiền hữu
của Đức Kitô. Theo lập luận của Athanasiô, Con Thiên Chúa không thể là một thụ tạo,
do Ngài là Đấng sáng tạo mọi sự. Tầm quan trọng mang tính vũ trụ của Logos trong sáng tạo không tìm thấy một
bản sao thích hợp trong việc cứu chuộc. Bản văn duy nhất có thể khai triển theo
nghĩa này – đó là bản văn của Phaolô gửi tín hữu Rôma 8,19-22 về tạo thành đang
rên siết và quằn quại như sắp sinh nở - cứ như tôi biết, đã không bao giờ là khởi
điểm để các Giáo phụ đào sâu suy tư.
Đối
với câu hỏi về "lý do" của sự nhập thể, từ thánh Athanasiô đến thánh
Anselmô (Cur Deus homo), người ta trả lời chủ yếu bằng những lời của kinh Credo: "Propter nos homines et propter nostram salutem descendit de
caelis” (Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống
thế). Viễn tượng là viễn tượng nhân học về tương quan giữa Đức Kitô và nhân loại
: viễn tượng ấy không bao gồm, trừ khi là tình cờ, tương quan của Đức Kitô với
vũ trụ. Người ta chỉ thấy phớt qua tương quan ấy trong cuộc bút chiến chống lại
những người phái ngộ đạo và manikê, là những người coi việc tạo dựng và cứu chuộc
như là công trình của hai vị thần khác nhau và tin rằng vật chất và vũ trụ, tự
nội tại, xa lạ với Thiên Chúa và không có khả năng cứu rỗi.
Trong
sự phát triển đức tin, vào thời Trung cổ, trước câu hỏi "Tại sao Thiên Chúa
làm người?", người ta cũng có cách trả lời. Việc Đức Kitô, "Trưởng tử
sinh ra trước mọi loài thụ tạo" (Cl 1,15), đến thế gian phải chăng hoàn
toàn tùy thuộc vào tội lỗi của con người, tiếp theo việc tạo dựng ? Chân phước
Duns Scotus trả lời bằng một bước đi quyết định, không coi nhập thể gắn chặt với
tội lỗi. Theo ngài, lý do của nhập thể là vì Thiên Chúa muốn có một người bên
ngoài Ngài yêu Ngài cho xứng đáng với Ngài. Đức Kitô chính là con người ấy, là
người duy nhất có thể yêu mến Cha - và được Cha yêu thương – bằng một tình yêu
vô biên, xứng với Thiên Chúa. Ngôi Lời vẫn sẽ làm người ngay cả khi Ađam đã
không phạm tội, vì Ngài là vinh quang của sự sáng tạo, công trình tối cao của
Thiên Chúa. Tội của con người xác định phương
thức của nhập thể đem lại cho nhập thể một đặc tính cứu chuộc khỏi tội lỗi,
chứ không phải chính sự nhập thể. Động cơ có tính siêu việt, chứ không phải là cơ
hội.
3. Viễn tượng vũ trụ của Teilhard de Chardin
Viễn
tượng của Scotus là một nỗ lực đầu tiên mang lại ý nghĩa cho những quả quyết của
Kinh Thánh về Đức Kitô, theo đó “mọi sự được tạo dựng bởi Người và cho Người”;
tất nhiên, người ta chưa thể, cùng với ngài, nói về một ảnh hưởng đặc biệt của Đức
Kitô trên tất cả tạo thành. Bù lại, người ta có thể nói như thế trong thời đại
của chúng ta, chẳng hạn Teilhard de Chardin. Như Blondel đã nói, trong một văn
hoá bị ý tưởng về thuyết tiến hoá chi phối, Teilhard lo tránh cho Đức Kitô cuối
cùng khỏi bị coi như "một sự kiện lịch sử, cô lập với vũ trụ".
Sử
dụng kiến thức khoa học chắc chắn của mình, Teilhard de Chardin thấy có nét song
song giữa sự tiến hóa của thế giới (cosmogenèse) và sự hình thành tiến triển của
Đức Kitô toàn thể (Christogenèse). Đức Giêsu Kitô không những không xa lạ với sự
tiến hoá của vũ trụ, mà, một cách mầu nhiệm, còn là động cơ bên trong của sự tiến
triển ấy và vào ngày quang lâm, sẽ hoàn tất nó, làm cho nó biến hình, tới
"điểm Omega", theo ngôn ngữ của ông.
Từ
đó, tác giả đưa ra một cái nhìn mới mẻ và tích cực về mối tương quan giữa Kitô
giáo và các thực tại trần thế. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Kitô giáo, một
người tín hữu sáng tác một "bài thánh thi ca ngợi vật chất" và
"bài thánh thi của vũ trụ". Một bầu khí lạc quan ảnh hưởng đến một mảng
rộng lớn của Kitô giáo, đến mức người ta thấy ảnh hưởng của nó đối với một văn
kiện của Công đồng Vatican II, Hiến chế về "Giáo hội và thế giới", Gaudium et spes. Người ta đánh giá lại
các hoạt động trần thế, mà trước hết là lao động của con người. Các công trình được
người Kitô hữu thực hiện tự chúng có một giá trị, như một sự cải thiện thế giới,
chứ không chỉ vì ý định đạo đức của người thực hiện chúng.
Teilhard
de Chardin đặc biệt áp dụng cái nhìn của mình vào bí tích Thánh Thể. Qua công
việc và cuộc sống hàng ngày của người tín hữu, Thánh Thể vươn hành động vào giữa
lòng vũ trụ. Mỗi Thánh Thể là một "Thánh Lễ trên thế giới".
"Khi
Đức Giêsu Kitô nói qua linh mục ‘Này là Mình Thầy’, những lời truyền phép tràn
ngập trên tấm bánh đến mức vô biên. Những lời ấy làm phát sinh tất cả nhiệm thể.
Vượt lên trên hình bánh được biến thể, hành động của linh mục vươn tới tầm mức
toàn thể vũ trụ". Tuy vậy, tôi không nghĩ rằng người ta có thể định nghĩa
linh đạo vũ trụ này như một linh đạo sinh thái, theo nghĩa hiện nay. Nơi tác giả,
ý tưởng về sự tiến bộ trong tiến hóa, về sự phát triển của tạo thành hướng tới
các hình thức ngày càng phức tạp và đa dạng, ý tưởng ấy vẫn có ưu thế, trong
khi người ta không thấy, nếu không phải là gián tiếp, mối quan tâm bảo vệ tạo
thành. Thời của Teilhard, người ta chưa ý thức rõ ràng nguy hiểm do sự phát triển
- đặc biệt là công nghiệp - có thể gây ra cho tạo thành.
Đức
tin theo Kinh Thánh hài hòa với Teilhard de Chardin ở chỗ Đức Giêsu Kitô là điểm
Omega của lịch sử, nếu người ta hiểu Omega là Đấng cuối cùng sẽ bắt muôn loài
quy phục mình, để trao chúng cho Chúa Cha (1Cor 15, 28), Đấng sẽ mở ra "một
trời mới đất mới" và sẽ phán quyết thế giới và lịch sử trong ngày sau hết
(Mt 25,31tt). Chính Đức Kitô phục sinh được định nghĩa trong sách Khải huyền là
"Alpha và Omega, khởi đầu và kết thúc" (Kh 22,13).
Tuy
nhiên, đức tin không biện minh cho ý tưởng của Teilhard de Chardin theo đó hành
động cuối cùng của lịch sử sẽ là "hoàn thành" cuộc tiến hóa lúc này đạt
đến đỉnh điểm. Theo viễn ảnh thống trị toàn bộ Kinh thánh, hành động cuối cùng
có thể là ngược lại, tức là sự gián đoạn đột ngột của lịch sử, một sự khủng hoảng,
phán xét, lúc lúa mì tách ra khỏi cỏ lùng (Mt 13,24 tt.). Thư thứ hai của thánh
Phêrô nói rằng các Kitô hữu đang chờ đợi "ngày của Thiên Chúa, và làm cho ngày
đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ chảy tan ra
trong lửa hồng!” (2P 3,12). Chính là viễn tượng đã đánh dấu cảm giác của Giáo Hội
như chúng ta thấy trong những lời đầu tiên của bài Dies irae: "Dies irae
dies illa solvet saeclum in favilla" (Ngày giận dữ, ngày ấy sẽ làm cho
thế giới thành tro bụi). Như vậy đối với thế giới hiện tại, đó là ngày kết thúc
của điều ác, chứ không phải là đỉnh cao của điều thiện.
Đây
là điểm yếu trong viễn tượng của Teilhard de Chardin, và điểm này tùy thuộc vào
một lỗ hổng mà chính những nhà nghiên cứu ngưỡng mộ ông đã chỉ ra. Trong viễn
tượng của mình, ông đã không biết hòa nhập một cách hữu cơ và thuyết phục khía
cạnh tiêu cực của tội lỗi, mà cũng không biết hòa nhập ngay cả viễn tượng của
Phaolô theo đó sự hòa giải và quy tụ mọi loài trong Đức Giêsu Kitô được thực hiện
trên thập giá và trong cái chết của Ngài.
4. Thần Khí Đức Kitô
Liệu
có một thứ gì đó tránh được nguy cơ làm cho Đức Kitô, như Blondel nói, là một "kẻ
xâm nhập hoặc một kẻ lạ nước lạ cái trong chốn bao la mênh mông và thù địch của
vũ trụ?” Nói cách khác, Chúa Kitô có điều gì để nói về vấn đề nóng bỏng liên hệ
đến sinh thái và bảo vệ tạo thành, hay tất cả điều đó xảy ra không mắc mớ gì với
Ngài, như là một vấn đề có thể ảnh hưởng đến thần học, nhưng không ảnh hưởng đến
Kitô học?
Sở
dĩ không có câu trả lời rõ ràng về vấn đề này từ các nhà thần học là vì, cứ như
tôi nghĩ, người ta ít chú ý đến Chúa Thánh Thần và mối liên hệ của Người với Đức
Kitô phục sinh. Phaolô viết: "Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống"
(1Cr 15,45). Trong một công thức khá ngắn gọn, thánh Tông đồ nói: "Chúa là
Thần Khí" (2Cr 3,17), để nhấn mạnh rằng Chúa Phục Sinh từ nay hành động
trên thế giới qua "cánh tay hoạt động" của mình là Chúa Thánh Thần.
Phaolô
ám chỉ đến tạo thành như trải qua những đau đớn lúc sinh con, trong khung cảnh một
diễn từ về những lần can thiệp khác nhau của Chúa Thánh Thần. Thánh Tông đồ thấy
có sự liên tục giữa tiếng rên siết của tạo thành và tiếng rên siết của người tín
hữu: "Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng :
chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu" (Rm 8,23).
Chúa
Thánh Thần là sức mạnh nhiệm mầu đưa tạo thành tới chỗ hoàn tất. Khi nói về sự
tiến triển của trật tự xã hội, Công đồng Vatican II quả quyết: “Thần Khi Thiên
Chúa, Đấng điều khiển những biến chuyển thời gian và canh tân bộ mặt trái đất với
sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện trong cuộc tiến hóa này” (MV 26). Điều Công
đồng nói về trật tự xã hội cũng áp dụng cho tất cả các lãnh vực, kể cả lãnh vực
vũ trụ. Trong mọi nỗ lực vô vị lợi và trong mọi tiến bộ nhằm bảo vệ tạo thành,
Chúa Thánh Thần đang hoạt động. Người là “sự khởi đầu của việc sáng tạo mọi sự"
(thánh Tôma), cũng khởi đầu cho sự tiến hóa của tạo thành trong thời gian, vì sự
tiến hóa này không gì khác hơn là sự sáng tạo được tiếp tục.
Chúa
Thánh Thần mang lại điều gì đặc biệt và "riêng" trong việc sáng tạo
và tiến hóa của vũ trụ? Ngài không xuất hiện ở đầu, nhưng có thể nói ở cuối việc
sáng tạo và cứu chuộc, cũng như Ngài không xuất hiện ở đầu, nhưng ở cuối tiến
trình ba ngôi. Thánh Basiliô viết: “Trong sáng tạo, Chúa Cha là nguyên nhân
chính, mọi sự tùy thuộc vào Người ; Chúa Con là nguyên nhân hiệu quả, nhờ Người
mà mọi sự được tạo thành ; Chúa Thánh Thần là nguyên nhân làm cho hoàn hảo”.
Những
lời đầu tiên của Kinh Thánh ("Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.
Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thấn Khí
bay lượn trên mặt nước"), muốn nói rằng hành động sáng tạo của Chúa Thánh
Thần là nguồn gốc sự hoàn hảo của sáng tạo; không chỉ là Đấng làm cho thế giới
từ hư vô sang hiện hữu, Người còn là Đấng làm cho thế giới từ tình trạng chưa
có hình dạng sang tình trạng có hình dạng và hoàn hảo, cho dù người ta phải
luôn nhớ rằng mọi hành động mà Thiên Chúa thực hiện bên ngoài luôn là một công trình
chung của cả Ba ngôi.
Nói
cách khác, Chúa Thánh Thần là Đấng, theo bản tính của mình, đưa tạo thành từ hỗn
mang đến vũ trụ, làm cho tạo thành nên đẹp đẽ, trật tự, sạch sẽ : một "thế
giới" theo ý nghĩa nguyên thủy của thuật ngữ này. Thánh Ambrosiô ghi chú:
"Trước
khi Thần Khí bắt đầu bay là là trên tạo thành, thì tạo thành chưa được đẹp. Trái
lại, khi có Thần Khí hoạt động, tạo thành nhận được vẻ đẹp sáng chói đã làm cho
nó huy hoàng như "thế giới".
Một
tác giả vô danh của thế kỷ thứ hai thấy sự lạ lùng này được lặp lại, với một sự
tương ứng gây ấn tượng, trong sự sáng tạo mới được thực hiện trong biến cố Phục
Sinh của Đức Kitô. Điều "Thần Khí Thiên Chúa" đã thực hiện lúc tạo dựng,
được "Thần Khí Đức Kitô" thực hiện lúc này trong sự cứu chuộc. Tác giả
viết:
Toàn
thể vũ trụ sắp rơi vào hỗn mang và tan rã, hiệu quả của sự hỗn loạn trước cuộc
khổ nạn, khi Chúa Giêsu trao thần khí mà kêu lên một tiếng lớn: "Lạy Cha, con
xin phó thác hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46). Và bỗng chốc, khi tất cả mọi
sự đều run rẩy và sợ hãi, thì vũ trụ như sống lại, có sự sống và mạnh mẽ nhờ Thần
Khí Thiên Chúa, tìm lại được sự ổn định.
5. Đức Kitô hành động thế
nào trong sự sáng tạo
Cuối
cùng là câu hỏi có ý nghĩa hơn hết liên quan đến sinh thái : Đức Kitô có gì để
nói về những vấn đề thiết thực mà thách thức về sinh thái đặt ra cho nhân loại
và cho Giáo hội? Chúng ta có thể nói theo ý nghĩa nào khi cho rằng Đức Giêsu Kitô,
hoạt động qua Thần Khí của Ngài, là yếu tố then chốt cho một chủ nghĩa sinh
thái Kitô giáo lành mạnh và thực tế?
Tôi
nghĩ rằng Đức Kitô thật sự có một vai trò quyết định cả trong những vấn đề cụ
thể của việc bảo vệ tạo thành, nhưng Ngài làm gián tiếp, bằng cách hành động
trên con người và - qua con người - trên tạo thành. Ngài làm điều này với Phúc Âm
của Ngài, Phúc Âm mà Chúa Thánh Thần "nhắc nhớ" cho các tín hữu, và
làm cho sống và hoạt động trong lịch sử, cho đến tận thế (Ga 16,13). Điều xảy
ra thì đã xảy ra lúc khởi đầu sáng tạo : Thiên Chúa tạo dựng thế giới và ủy
thác cho con người gìn giữ và bảo vệ nó. Kinh nguyện Thánh Thể IV diễn tả như
sau:
Cha
đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Cha,
và
giao phó cho việc trông coi vũ trụ
để
khi phụng sự một mình Cha là Đấng Tạo Hóa
con
người thống trị mọi loài thụ sinh.
Chúa
Kitô mang lại sự mới mẻ trong lãnh vực này. Ngài cho thấy ý nghĩa đích thực của
từ "cai trị", hay "thống trị" theo ý Thiên Chúa, tức là như
một sự phục vụ. Ngài nói trong Phúc Âm:
"Anh
em biết : thủ lãnh các dân thì dùng uy quyền mà cai trị dân, những người làm lớn
thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy : Ai muốn làm
lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em
thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta
phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”
(Mt 20,25-29).
Tất
cả các động cơ mà các nhà thần học đã cố gắng gán cho sự nhập thể, cho "lý
do tại sao Thiên Chúa làm người", đã bị phá vỡ trước sự hiển nhiên của lời
tuyên bố này: "Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn
người". Một áp dụng ý tưởng mới về sự thống trị liên quan đến tạo thành, bằng
cách sử dụng tạo thành nhưng là để phục vụ nó, tôn trọng nó, bảo vệ nó khỏi bất
kỳ một thao tác nào.
Đức
Kitô hành động trên tạo thành cũng như hành động trong lãnh vực xã hội, nghĩa
là với lệnh truyền yêu thương người lân cận. Về mặt không gian theo một nghĩa có
thể nói là đồng đại (synchronique), những
người lân cận là những người sống bên cạnh chúng ta, ở đây và lúc này ; về mặt
thời gian, theo nghĩa lịch đại (diachronique),
những người lân cận là những người sẽ đến sau chúng ta, bắt đầu từ những trẻ em
và những người trẻ tuổi hôm nay; chúng ta đang làm cho chúng không còn khả năng
sống trong một hành tinh có thể ở được, trừ khi đi chơi phải mang mặt nạ để thở
hoặc "thiết lập chỗ ở trên các hành tinh khác". Về tất cả những người
lân cận ấy, trong không gian và thời gian, Đức Giêsu đã nói: "Các ngươi đã
làm cho chính Ta ... các ngươi đã không làm cho chính Ta" (Mt 25,40.45).
Giống
như mọi việc, chăm sóc tạo thành được thực hiện ở hai cấp độ: cấp độ toàn cầu
và cấp độ địa phương. Một câu ngạn ngữ thời nay nói rằng : suy nghĩ ở mức toàn
cầu, nhưng hành động ở mức địa phương (Think globally, act locally). Điều này
có nghĩa là việc hoán cải phải bắt đầu từ cá nhân, tức là từ mỗi người chúng
ta.
Thánh
Phanxicô Assisi có thói quen nói với các anh em mình: "Tôi chưa bao giờ là
một tên ăn trộm của bố thí, xin hoặc sử dụng của bố thí hơn mức cần thiết. Tôi
luôn luôn lấy ít hơn những gì tôi cần, để những người nghèo khác không bị chia phần
; bởi vì làm khác đi sẽ là ăn cắp".
Ngày nay quy tắc này có thể có một ứng dụng rất hữu ích cho tương lai của trái
đất. Chúng ta hẳn cũng nên đề ra cho mình : không là những người ăn trộm tài
nguyên, khi sử dụng nhiều hơn mức cần thiết và do đó làm cho những người đến
sau chúng ta không được sử dụng. Để bắt đầu, chúng ta, những người thường dùng
giấy để làm việc, có thể cố gắng không góp phần gây lãng phí rất lớn về nguyên
liệu này, làm cho mẹ trái đất của chúng ta mất đi một số cây rừng.
Giáng
sinh là một lời nhắc nhở mạnh mẽ về sự điều độ và sự tằn tiện này khi sử dụng đồ
vật. Chính Tạo Hóa nêu gương cho chúng ta. Khi làm người, Ngài chỉ cần một chuồng
chiên để chào đời. Chúng ta hãy nhớ lại hai câu đơn sơ mà sâu sắc này của bài
hát "Ngài xuống từ các ngôi sao" của Thánh Alphongsô Liguori: "Chúa
là Đấng tác tạo mọi sự, mà lại không có tã và lửa, lạy Chúa của con".
Bất
cứ ai, tin hay không tin, đều được kêu gọi dấn thân vào lý tưởng điều độ và tôn
trọng tạo thành, nhưng người Kitô hữu chúng ta có thêm lý do và ý định siêu việt
để làm điều đó. Nếu Cha trên trời đã làm mọi sự "nhờ Đức Kitô và cho Đức
Kitô", thì chúng ta cũng phải làm mọi sự nhờ Ngài và cho Ngài, tức là nhờ
ân sủng của Ngài và cho vinh quang của Ngài. Đó cũng là những gì chúng ta làm
ngày hôm nay.
-------
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Bài giảng thứ nhất Mùa Vọng 2017, tại Phủ Giáo hoàng)
Lm Micae Trần Đình Quảng