TÔNG THƯ "MANE NOBISCUM"

CỦA ĐỨC CỐ GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

( Giới thiệu và phân tích )

 

Tông thư Mane nobiscum của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhằm mục đích cụ thể là giúp mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo hội toàn cầu sống năm Thánh Thể, do đó là một hướng dẫn rất chắc chắn, giúp chúng ta hiểu thông điệp Giáo hội sống nhờ Thánh Thể, học hỏi về mầu nhiệm Thánh Thể và đưa mầu nhiệm ấy vào cuộc sống. Tông thư cũng đã trích dẫn Công Đồng Vatican II khá nhiều, và muốn cho chúng ta thấm nhuần giáo lý của Công Đồng về Thánh Thể.

Tông thư rất súc tích và đầy chất liệu thiêng liêng. Ngay từ đầu, trong phần dẫn nhập, hình ảnh hai môn đệ Emmau nổi bật lên, rất gần gũi, làm cho chúng ta thấy như chính Chúa Giêsu Phục Sinh đang đến với chúng ta và đồng hành với chúng ta, bẻ bánh với chúng ta và cho chúng ta, mỗi khi chúng ta cùng nhau cử hành Thánh lễ trong lòng Giáo hội đang lữ thứ. Câu chuyện các môn đệ Emmau như sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ đầu chí cuối tông thư, mặc dù trong các phần sau, Đức thánh cha có trích dẫn những câu kinh thánh khác làm tựa đề cho các phần đoạn khác nhau. Tôi có cảm cảm tưởng Đức Thánh Cha đã không ngừng chiêm ngưỡng bức hoạ tuyệt vời của hoạ sĩ Rembrandt vẽ Chúa Giêsu đang đồng bàn và bẻ bánh với hai môn đệ Emmau .

Sau phần nhập đề, tông thư xoay quanh bốn trục chính được xem như bốn phần. 1/. Phần một hướng chúng ta về Công Đồng Vatican II, vẫn là kim chỉ nam cho Giáo hội toàn cầu đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba; Đức thánh cha cũng nhắc lại biến cố Năm Thánh 2000, mở đầu thiên niên kỷ mới, là một biến cố mang tràn đầy ân sủng cho Giáo hội và toàn thể nhân loại (số 6 đến số 10). 2/. Phần hai đề cập đến bí tích Thánh Thể, Mầu nhiệm Ánh Sáng là phần độc đáo của Đức thánh cha, người đã sáng kiến ra năm mầu nhiệm ánh sáng trong tông thư Rosarium Virginis Mariae. Trong số các mầu nhiệm ánh sáng, Thánh Thể là Đỉnh Cao, là Đèn Sáng được đặt trên cao để chiếu soi cho cả ngôi nhà của Thiên Chúa ở trần gian là Giáo hội,  cho  lịch sử loài người, cho cả gia đình nhân loại  (số 11-18). 3/. Phần ba đề cập đến Thánh Thể và mầu nhiệm Hiệp thông: Hiệp thông Ba Ngôi, Hiệp thông Giáo hội. Nhờ Thánh Thể chúng ta nên một với Chúa và nên một với nhau trong Chúa (số 19 – 23). 4/. Phần bốn đề cập đến Thánh Thể là nguồn gốc và là dự phóng cho sứ vụ. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội đều nhận lãnh sứ vụ từ Chúa Phục Sinh, và Chúa ban cho Giáo hội dự phóng yêu thương và phục vụ như Chúa, dự phóng đó chính là cách hiện hữu của Chúa Kitô phải dần dần trở thành cách hiện hữu của Giáo hội ( số 24-28 ).

Tông thư Mane nobiscum (xin Thầy ở lại với chúng con) rất sống động và đầy chất kinh thánh, được trình bày dựa vào một số câu kinh thánh quen thuộc. Chúng ta dừng lại một số nét cơ bản của nội dung tông thư, giúp chúng ta hiểu mầu nhiệm Thánh Thể cách sâu xa hơn,  thấy mầu nhiệm gần gũi với ta hơn và cử hành Thánh lễ sốt sắng hơn. 

Các chiều kích khác nhau của bí tích Thánh Thể:

Như đã viết trong thông điệp Giáo Hội sống nhờ Thánh thể (Ecclesia de Eucharistia), trong tông thư xin Thầy ở lại với chúng con, Đức thánh cha lưu ý chúng ta không được bỏ sót một chiều kích nào của bí tích Thánh Thể (x.số 14). Trong số 15, ngài tổng hợp cho chúng ta các chiều kích khác nhau của mầu nhiệm : bí tích Thánh Thể tưởng niệm hy tế thập giá trên đồi Golgôta, một lần duy nhất thay cho mọi lần; là mầu nhiệm Hiệp thông (khía cạnh “bàn tiệc”);  trong khi hiện tại hoá mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, bí tích Thánh thể hướng chúng ta tới ngày Chúa trở lại (chiều kích cánh chung).

Mục đích của tông thư không là khai triển hết các chiều kích khác nhau của bí tích thánh thể, nhưng nhấn mạnh nhiều hơn sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng ta. Trong số 16, Đức thánh cha viết tất cả các chiều kích của bí tích Thánh Thể đan kết lại với nhau trong một khía cạnh thử thách niềm tin của chúng ta hơn bất cứ khía cạnh nào khác, đó là sự hiện diện thực của Chúa. Bí tích Thánh thể là mầu nhiệm của sự hiện diện, là Chúa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Chiều kích quan trọng nối kết các chiều kích khác nhau của mầu nhiệm Thánh Thể là sự hiện diên thực. Vì Chúa đến, Chúa hiện diện, chúng ta mới có thể cử hành hy tế của Chúa trong hiện tại. Thánh lễ hiện tại hoá hy tế thập giá của Chúa, chứ không tái diễn hy tế ấy, vì hy tế ấy chỉ xảy ra một lần và có giá trị cứu độ vĩnh viễn. Chúa đến và hiện diện, chúng ta mới có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa, ở lại với Người, gắn bó và nên một với Người, hiệp thông và chia sẻ sự sống của Người.

Nếu tất cả các chiều kích khác của bí tích Thánh Thể đều đan kết với nhau trong mầu nhiệm của sự hiện diện, thì phải hiểu, chiêm ngắm sự hiện diện của Chúa gắn liền với các chiều kích khác nhau ấy. Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện hy tế và hiệp thông. Chúa tự hiến cho Chúa Cha làm của lễ và tự hiến cho chúng ta làm của ăn, để  ta được hiệp thông với Chúa và Chúa Cha. Đức thánh cha không quên yếu tố nào trong truyền thống của Giáo hội về bí tích thánh thể, nhưng tất cả những yếu tố ấy đều xoay quanh việc tưởng niệm bàn tiệc hy tế.

Lập lại tư tưởng của Phaolô VI trong thông điệp Mầu nhiệm đức tin, Đức thánh cha Gioan Phaolô II viết: sự hiện diện thực của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể không loại trừ các hình thức hiện diện thực khác của Chúa, nhưng khác biệt ở chỗ là hiện diện bản thểtoàn diện (Mane nobiscum, số 16). Đức tin đòi hỏi chúng ta, khi đứng trước Thánh thể, ý thức rằng mình đang đứng trước mặt Chúa. Và chính sự hiện diện này của Chúa làm cho các khía cạnh khác như bàn tiệc hay bữa ăn, sự tưởng niệm mầu nhiệm vượt qua, chiều kích cánh chung, không chỉ là biểu tượng thuần túy. 

Chúa đến, Chúa hiện diện trong dấu chỉ bí tích, nên chúng ta không thấy Người, mà thấy dấu chỉ. Chúng ta không thấy, nhưng chúng ta tin Chúa hiện diện thực, Chúa hiện diện bản thể. Chúng ta thấy Bánh, nhưng chúng ta tin là Mình Thánh Chúa, chúng ta thấy Rượu, nhưng chúng ta tin là Máu Thánh Chúa. Chúng ta ăn Bánh mà tin là Rước Chúa. Quả thật, đây là mầu nhiệm đức tin!

Chúng ta tin chúng ta đang đón Chúa, đang đối diện với Chúa, dù mắt phàm không thấy Chúa. Chúa ở trước mặt ta;  ta chiêm ngắm Chúa và sấp mình thờ lạy Chúa. Ánh Sáng của Chúa chiếu toả cho con mắt đức tin của chúng ta, do đó càng tin càng có nhiều ánh sáng. Đức tin mạnh làm cho chúng ta được chan hoà ánh sáng, ngụp lặn trong ánh sáng của Chúa, khám phá ra Chúa, nhận ra Tình Thương của Chúa, của Chúa Cha và của Chúa Thánh Thần. Chúng ta nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa Ba Ngôi  đang tiếp đón chúng ta, khi chúng ta hiệp thông, nên một với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa. Ánh sáng cho chúng ta nhận ra mình đang trở thành con cái của Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Ánh sáng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang nhận chúng ta làm con, làm nghĩa tử của Người. Ánh sáng Tình Yêu làm cho chúng ta có thể thốt lên Abba, Cha ơi  với Thiên Chúa.

Sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi nhà tạm trở nên như một thứ nam châm thu hút càng ngày càng đông đảo hơn những người ngưỡng mộ Chúa, sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi nghe tiếng Người, và thậm chí nghe cả nhịp đập của trái tim Người (x. Mane nobiscum, số 17). Chúng ta phải vun trồng một ý thức sống động về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu trong Thánh Lễ và nơi nhà tạm sau Thánh Lễ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thúc giục giáo dân, và một cách đặc biệt hơn các tu sĩ : Hãy ở lại lâu giờ phủ phục trước Chúa Giêsu đang hiện diện trong Thánh Thể, đem lòng tin và lòng mến đền bù những khoảnh khắc lơ là, những bổn phận thiếu sót và cả những sỉ nhục Chúa Giêsu phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới. Hãy đào sâu đời sống chiêm niệm của cá nhân, cũng như cộng đoàn nhờ việc thờ phượng (x . Mane nobiscum, số 17).

Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc, vì Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bối cảnh một bữa ăn.  Người còn mời gọi các môn đệ hãy ăn và uống. Nhưng bàn tiệc ấy là bàn tiệc hy tế, bàn tiệc Giao Uớc, nơi chúng ta được ăn Mình và uống Máu Thánh Người. Mục tiêu của hành vi ăn và uống là để thông phần Sự Sống của Chúa; và đó là ơn cứu độ. Mình Thánh Chúa là Bánh Hằng Sống; Máu Thánh Chúa là Chén Cứu Độ.

Nơi bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô làm cho hiến tế duy nhất chỉ một lần cho mãi mãi trên đồi Gôngôtha trở thành hiện thực cho chúng ta. Tuy hiện diện trong Thánh Thể như là Đấng Phục Sinh, Người vẫn mang những dấu tích của cuộc khổ nạn. (x.Mane nobiscum, số 15). Do vậy mỗi thánh lễ cũng là một  tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự Phục Sinh của Chúa; đồng thời quy hướng chúng ta tới Ngày Quang Lâm của Chúa.

            Không những Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, Chúa Sống lại cũng vì chúng ta và cho chúng ta. Chúa Phục Sinh ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Chúa chết là Chúa ra đi, Chúa Phục Sinh là Chúa đến, như Chúa đã nói với các môn đệ : “Thầy ra đi và đến cùng anh em” ( Ga 14, 28 ). Tử nạn và Phục Sinh là hai mặt gắn chặt với nhau của cùng một mầu nhiệm mà chúng ta cử hành trong Thánh Lễ, như lời tung hô sau phần Truyền Phép: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.”      

Hai bàn tiệc: Lời Chúa và Thánh Thể

So với thông điệp Giáo hội sống nhờ Thánh Thể không dành chỗ đặc biệt cho Lời Chúa, tông thư “Xin Thầy ở lại với chúng con” bù lắp vào chỗ trống này cách rất dồi dào. Việc lựa chọn câu truyện hai môn đệ Emmau như sợi chỉ xuyên suốt, hướng tông thư về chiều hướng đó. Trong lần gặp gỡ giữa hai môn đệ Emmau với Chúa Phục Sinh, có hai lúc đặc biệt ý nghĩa. Thời điểm thứ nhất là lúc Chúa Giêsu đồng hành với hai môn đệ, nói với họ về Kinh thánh, giải thích cho họ một số nội dung chứa đựng trong đó, cho họ thấy rằng Kinh thánh quy chiếu về Ngài. Thời điểm thứ hai là lúc Chúa ngồi vào bàn với họ, cầm lấy Bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ, bấy giờ mắt họ mở ra và họ mới nhận biết Chúa.

Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm Ánh Sáng, vì Phụng Vụ Lời Chúa luôn đi trước Phụng Vụ Thánh Thể, Lời Chúa gắn liền với Thánh Thể giống như hai bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa. Lời Chúa là Lời Sự Sống, nên cũng là lương thực, là bánh để ăn. Lời Chúa là đèn rọi bước chân ta, là ánh sáng chỉ đường cho ta. Lời Chúa hướng chúng ta đến chính Chúa là Ngôi Lời Nhập Thể hiện diện cách đặc biệt, hiện diện bản thể trong Mình và Máu Thánh Chúa. Lời Chúa giúp ta nhận ra Chúa như hai môn đệ Emmau. Lời Chúa làm cho ta hiểu biết Chúa, đón nhận Tình Yêu tự hiến của Chúa trong bí tích Thánh Thể.

Trước hết Chúa Giêsu đã tự hiến qua Lời của Người, Lời của Người đã là lương thực, nhưng sự tự hiến chỉ hoàn tất trong mầu nhiệm Thánh Thể. Trong mầu nhiệm Thánh Thể Chúa tự hiến trọn vẹn cho chúng ta,  hiến dâng mạng sống  cho Thiên Chúa,  tặng ban sự sống bản thân cho chúng ta. Cái chết của Chúa là cái chết cứu độ, Chúa chết cho chúng ta được sống: Này là Mình Thầy hiến tế vì anh em.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc lại ý hướng của Công Đồng Vatican II, khi canh tân Phụng Vụ, muốn bàn tiệc Lời Chúa cung cấp kho tàng Lời Chúa trọn vẹn hơn cho các tin hữu (PV 9). Và chính vì thế đã cho phép đọc các bài kinh thánh bằng tiếng bản xứ. Chúa  nói với chúng ta qua lời kinh thánh được đọc trong thánh lễ. Chúa đến với chúng ta qua Lời Chúa trước khi đến cách  trọn vẹn và đầy đủ trong bí tích Thánh Thể.

Bàn tiệc Lời Chúa là tất cả phần Phụng Vụ Lời Chúa, bao hàm cả bài giảng lễ của linh mục. Lời lẽ của linh mục cũng là lương thực nuôi dưỡng đức tin của giáo dân. Linh mục vừa cung cấp nội dung đức tin, vừa chia sẻ sự sống đức tin. Nội dung đức tin được cung cấp dựa vào Lời Chúa. Lời Chúa là Lời Sự Sống và là Lời Mặc Khải chờ đợi sự đáp trả. Đức tin không chỉ là một nội dung tư tưởng, mà còn là sự sống, là ân sủng do Thiên Chúa ban qua trung gian của linh mục. Linh mục truyền đạt một đức tin sống động, chứ không phải một mớ ý tưởng.

Thánh Gioan, trong diễn từ Bánh Trường Sinh, cho thấy rõ sự liên tục và gắn bó chặt chẽ giữa Lời Chúa và Mình Máu thánh Chúa, giữa tin vào Người và ăn thịt uống máu Người. Đức Giê-su bảo những người do thái: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35) …vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.(Ga 6, 55). Nhiều người xầm xì khó chịu, nhưng Thánh Phêrô đã khẳng định lòng tin của ông và các tông đồ, cũng là niềm tin của Giáo Hội: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 68).

Trong bài tường thuật của Luca cũng thế, những lời giải thích Sách Thánh của Chúa Giêsu đều hướng tới cái chết và sự sống lại của Người. “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24, 45 - 46). Những lời của Chúa Giêsu Phục Sinh đi vào trái tim của hai môn đệ Emmau và làm cho lòng họ bừng cháy lên (x. Lc 24, 32), khơi dậy lòng khao khát được gần gũi Chúa, ở lại với Chúa, và họ đã nài nỉ Chúa: Xin Thầy ở lại với chúng con. Trên con đường đi Emmau, hai môn đệ đã được Lời của Chúa chuẩn bị sẵn sàng, nên vừa đến lúc đồng bàn họ tức khắc nhận ra Chúa qua cử chỉ rất đơn giản là Người bẻ bánh. Khi tâm trí đã được soi sáng và trái tim đã được sưởi ấm, thì các dấu chỉ bắt đầu lên tiếng. Qua các dấu chỉ mầu nhiệm Thánh Thể như mở ra trước mắt các tín hữu. (x. Mane nobiscum, số 13 và 14). 

Cử hành, tôn thờ, chiêm ngắm

Có một điều bị quên lãng khá nhiều trong những thập niên vừa qua mà Đức thánh cha Gioan Phaolô II nhắc đi nhắc lại trong thông điệp Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể, và trong tông thư Mane nobiscum, đó là việc tôn thờ Chúa Kitô ngoài giờ thánh lễ.

Thánh Thể là mầu nhiệm cực trọng! Mầu nhiệm này trước hết phải được cử hành một cách tốt đẹp. Thánh lễ phải là trọng tâm của đời sống kitô hữu (xem Mane nobiscum số 17). Vì lẽ đó mà Đức thánh cha mời gọi các chủ chăn hãy lưu tâm tới huấn giáo dẫn vào mầu nhiệm (mystagogie), điều mà các thánh giáo phụ rất ưa thích. Giúp cho giáo dân hiểu được ý nghĩa của các dấu chỉ và lời đọc, và từ các dấu chỉ có thể đi vào mầu nhiệm, làm cho cuộc sống bám rễ sâu trong mầu nhiệm. Đức thánh cha yêu cầu học hỏi quy chế tổng quát của sách lễ Roma, để việc cử hành được nghiêm túc và sốt sắng. (x.số 17)

Nhưng có người nhấn mạnh vai trò của Thánh Lễ một cách lệch lạc, loại trừ mọi hình thức tôn thờ và sùng kính khác. Tại một số nhà thờ bên Tây Phương ngày nay, chỗ để Mình Thánh dành cho việc thờ phượng bị giảm thiểu tối đa, rất khó nhìn thấy, làm cho không còn bầu khí linh thiêng nữa. Thánh Lễ kéo dài nửa tiếng đồng hồ hay hơn một chút, không còn tạo được bầu khí của một cảnh vực thần linh cần thiết cho những người muốn tôn thờ Chúa cách xứng đáng. Thời gian và không gian bị giảm thiểu, Thánh Lễ trong thực tế đã trở thành một hòn đảo nhỏ trong thời gian cả một ngày, một tuần, thời gian bận rộn với công việc và nhiều thứ khác. Muốn nhìn vấn đề cách thật đúng đắn, đừng xem việc thờ phượng Thánh Thể ngoài giờ lễ cạnh tranh với Thánh Lễ, làm cho Thánh Lễ không còn vai trò trung tâm nữa. Trái lại hãy xem đó như điều kiện, như môi sinh cần thiết. Việc cử hành Thánh Lễ chỉ có thể sốt sắng và mang lại nhiều hoa trái trong một không gian thánh thiện.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đưa ra một vài suy nghĩ vừa sâu sắc, vừa thực tế, giúp  chúng ta khám phá lại tương quan giữa thờ phượng ngoài thánh lễ và chính Thánh Lễ. Nhờ việc thờ phượng ngoài giờ lễ, chúng ta thấy rõ thêm tương quan giữa chức tư tế thừa tác và chức tư tế cộng đồng được thể hiện trong Thánh Lễ. Hai chức tư tế ấy thấm nhập vào nhau. Tất cả chúng ta, linh mục cũng như tín hữu đều là những người lãnh nhận. Đối diện với Thánh Thể, chỉ có một thái độ đúng, đó là thờ phượng.

Đón Chúa, gặp gỡ Chúa, thờ phượng Chúa là những tâm tình gắn chặt với nhau. Chúng ta tin Chúa, yêu Chúa, ngưỡng mộ Chúa, tôn thờ Chúa. Yêu mến và tôn thờ đi đôi với nhau. Ý thức và tâm tình tôn giáo sâu xa  không thể thiếu một trong hai yếu tố. Lời Chúa trong sách Khải Huyền nhắc lại ý nghĩa sâu xa của lòng yêu mến Thánh Thể: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:20-20).

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dạy chúng ta không được bỏ việc tôn thờ Chúa Kitô Thánh Thể. Không nên quá tiết kiệm thời gian gặp gỡ thờ phượng Chúa. Sự mật thiết với Chúa Kitô Thánh Thể là cốt lõi của việc sùng kính bí tích Thánh Thể. Thờ phượng Chúa trong bí tích Thánh Thể là trường đào tạo lương tâm kitô hữu. Chiêm ngắm gương mặt của Chúa Kitô chịu khổ nạn, không còn hình tượng người nữa, ta sẽ nhận ra sự tàn bạo của loài người trong đó có chúng ta. Ta được mời gọi thanh tẩy lương tâm trước khi cải cách xã hội. Chiêm ngắm Chúa Phục Sinh, lòng ta tràn ngập hân hoan, ta sẽ được đầy sinh lực mới.

Thờ phượng Chúa Kitô Thánh Thể còn là một trường học yêu mến tha nhân. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta không dừng lại việc thờ phượng Thiên Chúa: đời sống phượng tự bí tích không chỉ là tôn thờ Thiên Chúa siêu việt, mà là tôn thờ một Thiên Chúa gần gũi, một Thiên Chúa hạ mình, một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa cứu độ biến đổi thế giới trong trái tim của con người. Trong sự thờ phượng đó chúng ta cảm nghiệm được hy tế của Chúa Giêsu Kitô, gặp được tình Yêu của Chúa. Chúng ta sẽ thông phần tình yêu của Chúa, chúng ta cùng yêu với Chúa. Không những chúng ta biết yêu thương, mà chúng ta thực sự bắt đầu yêu thương.

Điều tối quan trọng khác mà chúng ta khám phá nhờ việc thờ phượng là sự thiêng thánh của bí tích Thánh Thể. Khuynh hướng  tục hoá mọi sự trong thế giới hôm nay làm cho chúng ta dễ dàng đánh mất cảm thức về sự thiêng thánh. Chúng ta chiêm ngắm và thờ phượng Chúa Kitô trước hết trong thánh lễ. Việc chiêm ngắm và thờ phượng Chúa ngoài Thánh lễ có mục đích kéo dài sự gặp gỡ, sự kết hợp giữa chúng ta với Chúa, giúp chúng ta đào sâu đời sống chiêm niệm cá nhân và cộng đồng. Chúng ta có thể dùng những bản kinh đậm chất kinh thánh, những kinh nghiệm thiêng liêng của các nhà thần bí và dùng cả tràng hạt mân côi, để cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm Chúa. (x.số 18)

Thánh lễ vẫn là trọng tâm và điểm quy chiếu cho sự thờ phượng của chúng ta, vì trọng tâm của bí tích Thánh thể là mầu nhiệm Vượt Qua mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ, và được mời gọi thông phần, cùng chết với Chúa để cùng sống lại với Người.  

Hiệp thông và Liên đới:

Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em (Ga 15, 4).

Đức thánh cha trích Gioan 15,4 là lời mời gọi của Chúa, đối chiếu với Luca 24,29 là lời nài xin của hai môn đệ Emmau, để làm nổi bật tình thương của Chúa. Nơi bí tích Thánh Thể, hồng ân của Chúa còn lớn hơn ước muốn của chúng ta gấp bội. Chúa không những ở lại với chúng ta, mà còn ở trong chúng ta. Rước Chúa là hiệp thông mật thiết với Chúa, là ở lại trong Chúa như Chúa ở lại trong chúng ta. Hạnh phúc của Nước Trời đã bắt đầu từ đây. (xem Mane nobiscum số 19) 

Từ ngữ Hiệp Thông:

Sự Hiệp thông với Chúa, chỉ có thể hiểu và sống trọn vẹn trong lòng Giáo hội. Chúng ta nên một với Chúa và nên một với nhau trong Chúa. Hiệp thông Thánh thể làm nên Hiệp thông Giáo hội; Hiệp thông Giáo hội cần thiết cho Hiệp thông Thánh thể. Đức thánh cha lập lại nhiều lần tư tưởng này trong thông điệp Giáo hội sống nhờ Thánh Thể cũng như trong tông thư Mane nobiscum. Trong mầu nhiệm Thánh thể, Chúa Giêsu kiến tạo sự Hiệp thông Giáo hội theo mẫu mực Hiệp thông Ba Ngôi: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 21).  (x. Mane nobiscum số 20)

Thượng Hội Đồng giám mục thế giới năm 1980, kỷ niệm 25 năm bế mạc Công Đồng Vatican II, đã coi ý tưởng Hiệp Thông là tư tưởng nồng cốt của Giáo Hội học Công Đồng. Từ ngữ Hiệp Thông hướng chúng ta đến Thánh thể là trọng tâm của Giáo Hội, và nhìn nơi sự tự hiến của Chúa Giêsu nền tảng cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người. “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” (1 Coritnô 10, 16 – 17).

Từ ngữ hiệp thông cắm rễ sâu  trong bí tích Thánh Thể, đầu tiên có nghĩa là thông phần Mình và Máu Thánh Chúa. Theo quan niệm do thái, máu chỉ sự sống, nên khi chúng ta hiệp thông với Máu Thánh Chúa, có sự thấm nhập hổ tương giữa sự sống của Chúa và sự sống của chúng ta. Trong mầu nhiệm Thánh Thể, máu còn chỉ sự tự hiến của Chúa Giêsu, cuộc sống tự trao ban vì chúng ta và cho chúng ta. Thông phần với máu của Chúa là được hội nhập vào năng động đời sống của Chúa, của máu Chúa đổ ra, làm cho cuộc sống của chúng ta trở thành cuộc sống tự hiến, sống cho và sống vì tha nhân, giống như hình ảnh trái tim Chúa.

Bánh chỉ sự thông phần thân thể của Chúa Kitô, mà Phaolô so sánh với sự kết hợp giữa người nam và người nữ (1 Cr 6,17). Bánh, thức ăn manna mới mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, là Chúa Kitô duy nhất  được ban cho mọi người, Chúa Kitô mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể. Bánh ấy lớn hơn chúng ta, không bị thân xác chúng ta đồng hoá, nhưng làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, trở thành chi thể của Người và nên một với nhau trong Người. Chúng ta ăn cùng một Chúa Kitô, được lôi kéo khỏi cá nhân đóng kín của mình và được đưa vào Đấng Lớn hơn ta. Chúng ta trở thành chi thể của nhau; hiệp thông với Chúa Kitô cũng là hiệp thông với nhau.

Một nền tu đức Hiệp Thông đương nhiên sẽ mang tính xã hội. Khi rước Chúa Kitô, chúng ta hướng cái nhìn về Người, để cho Người biến đổi ta. Nhờ sự kết hợp với Chúa Kitô, ta học cởi mở với mọi người, cởi mở với thế giới. Sự cởi mở ấy không chấm dứt ở nhà thờ, nhưng tiếp tục trong cuộc sống. Sự hiệp thông của cá nhân với Chúa và sự sống hiệp thông của Giáo hội  gắn chặt với nhau. Giáo hội không là kết quả của một liên minh các cộng đồng. Nhưng Giáo Hội sinh ra từ Đấng Chúa Duy Nhất, và từ Người, làm thành một Giáo hội Duy Nhất, một Thân Thể Duy Nhất từ một bánh duy nhất.

Đoạn kinh thánh thứ hai cần lưu ý khi đề cập đến hiệp thông là thư thứ nhất  của thánh Gioan (1 Ga 1,3-7):  “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn. Đây là lời loan báo của Đức Giê-su Ki-tô mà chúng tôi đã nghe, và nay chúng tôi loan báo cho anh em: Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào. Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người mà lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối và không hành động theo sự thật. Nhưng nếu chúng ta đi trong ánh sáng cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giê-su, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.”

Thánh Gioan nói đến ơn được gặp gỡ Ngôi Lời Nhập Thể, mà ngài đã thấy tận mắt, và tay ngài đã đụng chạm đến. Sự gặp gỡ đó đã cho ngài được hiệp thông với Chúa Cha và Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Sự hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống ban cho con người ánh sáng, để nhận ra chân lý và tình yêu. Hiệp thông với Lời Sự Sống làm nên một đời sống tốt, làm cho cuộc sống trở thành tình yêu và sự hiệp thông với nhau. Ở đây Gioan và Phaolô gặp nhau: hiệp thông với Chúa Giêsu trở thành hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng và tình yêu, và hiệp thông với nhau trong tình yêu và chân lý.

Hình ảnh lý tưởng của Hiệp thông Giáo hội trong sách Công vụ các tông đồ là Cộng Đồng Giáo hội sơ khai họp lại chung quanh các Tông đồ, được quy tụ bởi Lời Chúa, sẵn sàng chia sẻ những của ăn tinh thần và của cải vật chất (Cv 2, 42- 47):  “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng”.

Từ ngữ liên đới :

Từ ngữ liên đới không có trong các sách tin mừng, nhưng xuất hiện trong các phong trào xã hội, nối dài từ ngữ bác ái của kitô giáo, mà nội dung được coi như một giải đáp mới, hợp lý và hữu hiệu cho các vấn đề xã hội. Ngày nay mọi người đang chạy theo kinh tế thị trường, và cố gắng sữa chữa những thiếu sót của chủ nghĩa tự do kinh tế bằng một số tư tưởng xã hội kitô giáo. Từ ngữ liên đới do đó trở thành phổ biến, không những trong những môi trường thế tục, mà cả trong những môi trường đạo đức tôn giáo.

Sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta thận trọng, vì động cơ mạnh nhất nơi nhiều người, cá nhân cũng như tổ chức xã hội, vẫn là khuynh hướng nghiêng về lợi nhuận, về thế lực của đồng tiền. Người công giáo nên noi gương Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công nhận những sai lầm của các kitô hữu trong lịch sử. Nhưng công bằng mà nói, cũng phải đề cập tới sự hy sinh và tinh thần phục vụ của nhiều  kitô hữu đã làm xoa dịu bớt những đau khổ của loài người.

Trong những thập niên vừa qua, nhờ những giáo huấn luân lý của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, từ ngữ liên đới đã được kitô giáo hoá dần dần và được biến đổi sâu sắc, có thể được thêm vào hai từ quan trọng của kitô giáo là tạ ơn và hiệp thông. Trong chiều hướng này, liên đới có nghĩa: những người này chịu trách nhiệm về những người kia, những ai khoẻ mạnh chịu trách nhiệm về những người đau yếu, những ai giàu có chịu trách nhiệm về những người nghèo khổ, những vùng phát triển chịu trách nhiệm về những vùng chậm phát triển.

Ngày hôm nay tiến trình toàn cầu hoá là một xu thế không thể đảo ngược. Nhưng nó có thể thực hiện theo hai chiều hướng: một là hoàn toàn vì lợi nhuận, hai là thật sự vì con người và cho con người. Sự toàn cầu hoá theo chiều hướng tốt đẹp là cơ hội cho mọi người trả lẽ về những người khác, là nơi mà mỗi người mang gánh nặng của người khác. Chỉ có thể làm được điều đó, nếu chúng ta chú trọng đến những giá trị tôn giáo và đạo đức. Những giá trị này phải có chỗ đứng trong những quyết định về kinh tế. Nếu toàn cầu hoá kỷ thuật và kinh tế mà không kèm theo sự khai mở mới về tinh thần  và ý thức về Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi trách nhiệm, thì sẽ đưa đến đổ vỡ.

Mục đích của kitô giáo nhằm hợp nhất nhân loại, nhờ một Chúa duy nhất, một Bánh duy nhất làm cho chúng ta trở nên một thân thể. Trong khi sự hợp nhất bên ngoài của nhân loại đã là một thực tế không chối cải được, người kitô hữu không thể từ chối trách nhiệm góp phần cho thế giới xoay chiều theo hướng tốt.

Bí tích Thánh Thể là nguồn gốc và là dự phóng cho sứ vụ của người kitô hữu. Việc gặp gỡ Chúa Kitô trong bí tích Thánh thể thúc bách các kitô hữu dấn thân loan báo Tin mừng Cứu độ: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11,26). (xem Mane nobiscum số 24-25)

Đời sống thánh thể là một cách thức hiện hữu được chuyển từ Chúa Kitô sang cho người kitô hữu, và nhờ chứng tá của họ, được lan toả trong văn hoá xã hội. Để có thể thực hiện điều đó, người tín hữu phải dần dần hấp thụ những giá trị mà bí tích Thánh thể diễn tả, những thái độ mà Thánh thể khơi gợi, những quyết tâm mà Thánh thể làm nảy sinh. Ba từ ngữ quan trọng trong dự phóng Thánh thể cần chuyển từ Chúa Giêsu sang cho người kitô hữu là xin vâng, cảm ơnamen. Đưa dự phóng Thánh thể vào cuộc sống thường ngày là làm chứng rằng thực tại con người sẽ vô nghĩa nếu không quy chiếu về Đấng Tạo Hoá. (x.ib. số 25-26)

Đức Cha Phaolô BÙI VĂN ĐỌC


Mục Lục