GIÁO HỘI VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
“Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” : Thánh Thể bắt nguồn từ những lời này của Đức Giêsu
trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ. Thánh Thể hiện tại hóa mầu nhiệm trung
tâm của đức tin Giáo Hội, hiện tại hóa cái chết của Chúa để cứu độ nhân loại và
sự sống lại vinh hiển của Người. Các Kitô hữu đầu tiên đã không cử hành Thánh
Thể chiều ngày thứ năm như để diễn tả lại bữa tiệc ly, nhưng ngay từ thuở ban
đầu, họ đã cử hành lễ tạ ơn vào ngày chúa nhật, ngày Chúa Phục Sinh (x. Cv 20,7
; Didachè
14,1)
Thánh Thể tháp chúng ta vào mạch sống của mầu nhiệm phục
sinh. Và cũng chính từ mầu nhiệm phục sinh mà Giáo Hội đượïc hình thành. Mầu
nhiệm phục sinh trở thành nền tảng cho cả việc cử hành Thánh Thể và xây dựng
Giáo Hội trở thành cộng đoàn những kẻ
tin vào Đức Kitô là “Chúa Phục sinh”.
Trong bài này, chúng tôi muốn suy nghĩ về mối tương quan
giữa Giáo Hội và Thánh Thể. Một trong nhữõng quan niệm rộng rãi nhất về Thánh
Thể, có khả năng diễn tả tất cả vẻ phong phú mà Giáo Hội nhận thấy nơi Thánh
Thể là quan niệm được Henri de Lubac tóm tắt trong cái đượïc gọi là thần học
của các giáo phụ về Thánh Thể : Thánh Thể làm nên Giáo Hội và Giáo Hội làm nên
Thánh Thể.
Nhưng trước hết chúng ta
hãy hỏi xem Giáo Hội tiên khởi đã cử hành Thánh Thể như thế nào ? Các
Kitô hữu đầu tiên đã hiểu như thế nào về Thánh Thể ?
I. GIÁO HỘI TIÊN KHỞI VÀ VIỆC CỬ HÀNH
THÁNH THỂ
Giáo Hội – “Ekklèsia” là sự tập họp cộng đoàn những kẻ
tin vào Đức Giêsu là Chúa Phục sinh.
Tân Ước đã không gọi “Ekklèsia” là sự tập họp những kẻ tin vào
Đức Giêsu trước biến cố khổ nạn. Tân ướùc chỉ dùng từ này để gọi nhóm người tin
vào sự phục sinh của Đức Kitô. Vào lúc Nhất lãm được viết ra thì từ này đã
đượïc sử dụng. Trường hợp Luca là điển hình : từ Ecclesia không xuất hiện chỗ
nào trong quyển thứ nhất, nhưng ngược lại đượïc sử dụng 16 lần trong quyển thứ
hai tức Tông đồ công vụ. Trường hợp Mt 16,18, nhiều nhà chú giải cho rằng từ
này hướng về tương lai ; còn Mt 18,17 có lẽ sử dụng từ Ecclesia để nói về cộng đoàn
Syrie-Palestine của thập niên 80 (x. TILLARD, Eglise d’Eglises, Paris,
Cerf, 1987, p. 17-18)
Đây có phải là tình cờ không ? Đọc lại các bản văn chính
của Tân Ước, trong toàn bộ các truyền thống hình thành Tân Ước, ta tin rằng đối
với các tác giả Tân Ước, thực tại Ecclesia hoàn toàn không thể tách khỏi
biến cố chết và sống lại của Đức Giêsu. Như vậy, mầu nhiệm vượt qua của Đức
Giêsu làm nền tảng cho sự hiện hữu của Giáo Hội. Giáo Hội trước hết là “Giáo
Hội phục sinh”, Giáo Hội được xây dựng trên một biến cố.
Đến ngày lễ Ngũ Tuần, với việc nhận lãnh Chúa Thánh Thần,
cộng đoàn của “Giáo Hội – phục sinh” đã xuất hiện như sự biểu lộ mở ra thời đại
mới, thời đại của ơn cứu độ. Ba nhân tố làm nên “Giáo Hội ngũ tuần” là Thánh
Thần, lời chứng của các tông đồ về cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu và sự
hiệp thông Giáo Hội (x. Cv 2,14-47). Ba nhân tố này thuộc về bản chất của Giáo
Hội. Giáo Hội của Chúa Phục sinh cũng là Giáo Hội của Thánh Thần. Giáo Hội
đượïc liên kết thành một dân mới. Các nhà chú giải đã cho rằng đây chính là lý
do các giáo phụ của những thế kỷ đầu xem tường thuật lễ Ngũ tuần như đối nghịch
lại tường thuật Babel (x. St 11, 1-9 ; Cv 2,1-13).
Giáo Hội hiệp thông, một Giáo Hội của Thánh Thần, hiệp
thông trong liên đới, trong cầu nguyện, trong đứùc tin và đứùc ái. Giáo Hội
cũng được mô tả như là một Giáo Hội đượïc xây trên sự chuyên cần : chuyên cần
nghe lời giáo huấn của các tông đồ, luôn luôn hiệp thông với nhau, bẻ bánh và
cầu nguyện.
“Bẻ bánh”, một danh từ ám chỉ đến Thánh Thể. Giáo Hội ngũ
tuần cử hành bẻ bánh và chính việc chuyên cần này đã xây dựng Giáo Hội tiên
khởi (Cv 2,42-47 ; 4,32-35 ; 5,12-16).
Mặc dù sách Công vụ tông đồ không nói rõ, nhưng hình như
việc “bẻ bánh”, tên gọi của Thánh Thể đã đượïc cử hành đều đặn mỗi ngày chúa
nhật. Chúng ta không có những chi tiết về những gì diễn ra trong cử hành Thánh
Thể hay tạ ơn ngày chúa nhật, có thể việc cử hành vẫn còn gắn liền với các bữa
ăn.
Thánh Phaolô đã trách cứ các Kitô hữu Corintô đã không cử
hành đúng cách “bữa ăn của Chúa”. Ngài viết : “Khi anh em họp nhau thì không
phải để ăn bữa tối của Chúa nữa” (1 Cr 11,20). Ngài trách họ điều gì ? Trách
rằng thái độ của họ không phù hợp với sự cử hành của họ. Họ hiệp thông với Đấng
dạy rằng: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”, vậy mà trong thựïc tế “mỗi
người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại say. Hay
anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của”
(1 Cr 11,12).
Trong đoạn này, thánh Phaolô cho ta thấy có mối tương quan
giữa “bữa ăn của Chúa” và Giáo Hội. Cử hành “bữa ăn của Chúa” không đúng cách
là làm cho Giáo Hội bị thương tổn.
II. Giáo
HỘi đưỢc tẬP hỌp vào “ngày cỦa Chúa” đÊ cỬ hành
Didachè, chương
14, 1, để lại cho chúng ta chứng từ về “ngày của Chúa” là để “bẻ bánh” và để
“tạ ơn” :
“Ngày của Chúa, anh em hãy tụ họp lại để
bẻ bánh và để tạ ơn”.
Trong chương 67 của tác phẩm 1 Apologie (Minh giáo), được
viết vào khoảng năm 150 tại Rôma mà thánh Justinô gửi cho hoàng đế Antoniô le
Pieux (138-161), lần đầu tiên, chúng ta có đượïc chứùng từ về diễn
tiến của việc tập họp ngày chúa nhật của các Kitô hữu :
“Trong ngày mà người ta gọi là ngày của mặt trời, tất cả mọi
người ở thành thị cũng như thôn quê, đều hội họp lại ở một nơi. Người ta đọc
hồi ký của các tông đồ và các bài viết của các ngôn sứ, tùy theo thời giờ cho
phép. Đọc sách xong, vị chủ tọa lên tiếng và khuyên mọi người hãy bắt chước các
lời giáo huấn tốt lành đó. Sau đó tất cả chúng tôi đứng lên, và cùng nhau cầu
nguyện lớn tiếng. Rồi như chúng tôi đã nói, khi đã cầu nguyện xong, người ta
mang tới bánh mì, rượu nho và nước. Vị chủ tọa dâng lên trời những lời cầu
nguyện và cảm tạ tùy sức của người, và tất cả dân chúng đáp lại bằng lời hô lớn
: Amen. Sau đó là việc phân phối và chia phần các thứùc ăn đã đượïc thánh hiến
cho mỗi người, và giữ phần cho các người vắng mặt, nhờ thừa tác vụ của các phó
tế” (1 Apologie 67).
Thánh Justinô, trong chương này đã nhắc đến việc đọc các
“hồi ký của các tông đồ” (Mémoires des apôtres) có nghĩa là các “phúc âm” (x. 1 Apologie 66)
và bài viết của các ngôn sứ (Ecrits des prophètes) có nghĩa là Cựu Ước. Qua
việc đọc Cựu Ước, Giáo Hội thuở ban đầu muốn loan báo “ngày hôm nay” của việc
hoàn tất lời hứa nhờ Đức Kitô, trong mầu nhiệm Vượt qua của Người. Buổi hội họp
mà Justinô vừa mô tả vẫn là cấu trúc cơ bản của việc cử hành Thánh Thể cho tới
ngày nay : sự tập họp, phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời
nguyện chung, phụng vụ Thánh Thể với việc mang tới bánh và rượu, kinh tạ ơn,
thánh hiến và hiệp lễ.
Qua chứùng từ của thánh Justinô, chúng ta thấy “ngày của mặt
trời” trở thành “ngày của Chúa”. Và “ngày của Chúa” trở thành “ngày của
Giáo Hội”, ngày của sự tập họp (Eglise = rassemblement).
Tập họp để cử hành bẻ bánh và tạ ơn trở thành “nơi” ưu tiên
của Giáo Hội. Như thế, Giáo Hội “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông
truyền” biểu lộ căn tính của mình không chỗ nào rõ bằng lúc cử hành Thánh Thể
hay Tạ ơn.
Từ những gì nói ở trên, chúng ta có thể rút ra ba điểm
thần học quan trọng :
A. Trước hết, một Giáo Hội không có một cộng đoàn đượïc
tập họp sẽ là một mâu thuẫn ngay trong từ ngữ. Vì thế, “sự tập họp” hay “Giáo
Hội” của Thiên Chúa hay của Đức
Kitô là đặc tính của người kitô hữu.
Từø cái nhìn này, chúng ta có thể nói, ngườøi kitô hữu là người đến tập họp với
anh em mình nhân danh Đức Kitô và để tưởng nhớ công trình cứu chuộc của Người
mà cao điểm là cái chết trên thập giá và sự sống lại.
B. Mô hình mẫu của Giáo Hội là sự tập họp ngày chúa nhật,
ngày của Chúa, ngày mà người kitô tưởng nhớ Đức Giêsu như là “Chúa” phục sinh.
Ngày này mang một ý nghĩa thần học và phụng vụ. Nó như nền tảng cho đời sống
phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi và đã trở thành một thói quen cho cộng đoàn
kitô hữu từ những năm 50 (x. 1 Cr 16,1-2) : đoạn văn này cho ta thấy rằng
Phaolô đã đề cập đến thói quen này đã có nơi giáo đoàn Corintô cũng như tại
Galat) ; sách công vụ cho thấy Phaolô cùng cử hành “bẻ bánh” ngày chúa nhật khi
ngài ghé qua thành Troa (Cv 20,7-12). Như thế, với việc tưởng niệm Chúa Kitô
Phục sinh, ngày thứù nhất trong tuần của người Do thái trở thành ngày trung tâm
và nền tảng của đờøi sống Giáo Hội Kitô, ngày Giáo Hội đượïc tập họp, ngày Giáo
Hội đượïc quy tụ lại, được xây dựïng.
Chắc hẳn việc “bẻ bánh” (Thánh Thể) đã trở thành trung
tâm cho ngày này (x. Didachè 14,1). Nhiều chứng từ của các giáo
phụ cho biết rằng việc cử hành Thánh Thể trước hết nằm vào ngày chúa nhật tại
tất cả các Giáo Hội, sau đó đến ngày thứ tư và thứù sáu, rồi thứ bảy, rồi đến
mỗi ngày trong tuần. Tuy nhiên, đối với các ngày khác ngày chúa nhật thì tùy
thuộc vào các Giáo Hội khác nhau và tùy vào từng thời đại (x. Augustin, Lettre 54,2 : “tại một vài
nơi, không có ngày nào qua đi mà không có hy lễ (Thánh Thể), ở những nơi khác,
chỉ có hy lễ ngày thứù bảy và chúa nhật, và một số nơi thì chỉ có ngày chúa
nhật” ; Basile, Lettre 93
(372). Thánh lễ hằng ngày dườøng như đượïc thánh Cyprianô ở Carthage nói đến
vào giữa thế kỷ thứ III, nhưng thói quen này được phổ biến trong các Giáo Hội
rõ ràng nhất kể từ thế kỷ IV (cf R. TAFT, Concilium, 172, 1982, p.27-44).
Nhưng nếu Thánh Thể chiếm một vị trí trung tâm của ngày
chúa nhật thì Thánh Thể cũng là trung tâm cho cộng đoàn cử hành biến cố vượt
qua của Chúa mình. Ta thấy có một sự liên hệ mật thiết giữa ngày của
Chúa, Thánh Thể và ngày của Giáo Hội.
Các chứng từ của các giáo phụ trong 4 thế kỷ đầu đều cho
thấy có mối liên hệ sâu xa giữa “ngày của Chúa” – “cử hành Thánh Thể” – “việc
giảng dạy” (thánh kinh, luân lý, các mầu nhiệm) và đời sống Giáo Hội và cộng
đoàn. Phụng vụï ngày chúa nhật là nơi đào luyện, duy trì và củng cố khuôn mặt
của kitô hữu và của Giáo Hội Chúa Kitô (x.Cyrille
de Jérusalem, Les catéchèses mystagogiques )
Chúng ta có thể tóm tắt như sau: là kitô hữu có nghĩa là
thuộc về Giáo Hội và thuộc về Giáo Hội có nghĩa là tham dự vào việc cử hành
ngày Chúa sống lại để bẻ bánh và để tạ ơn.
Tác giả cuốn La Didascalie hay là Doctrine catholique des douzes apôtres
et des saints disciples de notre Sauveur, có lẽ là một giám mục
thuộc vùng Syrie vào khoảng giữa thế kỷ III đã viết như sau :
“Hỡi vị giám mục, khi ngài giảng
dạy, hãy truyền dạy và khuyến dụ dân chúng phải trung thành tới hội họp trong
cộng đoàn Giáo Hội : họ đừng vắng mặt, mà hãy trung thành tớùi hội họp, để
không một ai làm cho Giáo Hội nhỏ bé đi vì tại mình không tới, và đừng để thân
thể Chúa Kitô thiếu mất một chi
thể (… ).
Vì anh em là chi thể của Chúa
Kitô , anh em đừøng để mình hư mất ở ngoài Giáo Hội, do sự anh em không tới hội
họp. Bởi vì Chúa Kitô là Đầu của anh em đúng như Ngài đã hứa, Ngài hiện diện và
hiệp thông với anh em. Vậy anh em đừøng coi thường bản thân mình và đừng để
Chúa Cứu Thế bị mất đi các chi thể của Người. Đừng xé nát và đừng phân tán chi
thể của Người” (Didascalie 13).
Như thế, sự thuộc về Giáo Hội đượïc bày tỏ và đượïc thựïc
hiện bằng sự thuộc về cộng đoàn cử hành Thánh Thể.
Mỗi cộng đoàn Thánh Thể biểu lộ thựïc tại Giáo Hội với
điều kiện được cử hành trong sự hiệp thông với giám mục và với những cộng đoàn
khác của Giáo Hội. Điều này muốn nói lên rằng Giáo Hội của Chúa Kitô không ở
đâu xa xôi nhưng ngay trong chính cộng đoàn cử hành tạ ơn.
Thánh Ignatiô, giám mục thành Antiokia (+110), trong thư
gửi cộng đoàn tín hữu Ephesô cho ta những thông tin về những cuộc họp của các
tín hữu quanh giám mục và linh mục đoàn để
“bẻ bánh” (x. Ignace d’Antioche, Eph. 20,2 trong ‘coll. Littératures chrétiennes’, Paris, 1957).
Bây giờ chúng ta tìm hiểu nền thần học của giáo phụ được
Henri de Lubac trình bày lại : Thánh Thể làm nên Giáo Hội và Giáo Hội làm nên
Thánh Thể.
III. Thánh Thể
làm nên Giáo Hội
(L’eucha-ristie fait l’Eglise)
Trong vế thứ nhất này, chữ “Thánh Thể” phải được hiểu theo
nghĩa rộng nhất. Thánh Thể ở đây là sự tập họp các tín hữu để cử
hành thánh lễ, để lắng nghe Lời Chúa, lấy Lời Chúa soi sáng cuộc sống của mình,
múc lấy trong Lời Chúa những nghị lực để cảm tạ Thiên Chúa Cha, trong Chúa
Thánh Thần, vì những gì Chúa Kitô làm cho họ : họ đi vào tâm tình Chúa
Kitô khi hiệp lễ, rồi họ được sai đi
vào môi trường của thế giới để xây dựng tình thương, công lý và hoà bình ; để
đến với những người nghèo và phục vụ họ, để chia sẻ với họ bánh của trái đất và
bánh tình thương, để loan báo Tin Mừng cho một thế giới được Thiên Chúa yêu
thương và cứu chuộc. Thánh Thể chỉ làm nên Giáo Hội thực sự trong chiều hướùng
Thánh Thể đượïc cử hành trong bầu khí bác ái của Giáo Hội. Lý do bởi vì Thánh
Thể làm nên sựï hiệp nhất và do đó bác ái phải trở nên động cơ của đờøi sống
Giáo Hội. Thánh thể quy tụ lại những ai tham dự vào Thân Mình của Đức Kitô như
những chi thể của một thân thể
A. Thánh Thể xây dựng Giáo Hội và làm tăng trưởng dân Kitô
Sống Thánh Thể là sống sự hiệp thông trong Giáo Hội và của
Giáo Hội như là hồng ân của Thiên Chúa. Truyền thống luôn luôn phủ nhận một sự
cắt đứt căn bản giữa việc thuộc về Đức
Kitô, nguồn mạch ơn cứu độ và thuộïïc về Giáo Hội. Bởi vì làm sao có thể thuộc
về Đức Kitô mà lại không tháp nhập vào Người một cách nào đó ? Làm sao có thể
thuộc về Đức Kitô mà lại không thuộc về
Giáo Hội của Người ? Chúùa Giêsu không thể nào phân ly khỏi Giáo Hội.
Như vậy, sẽ thực sự là mâu thuẫn khi tách thân thể Chúa
Kitô trong bí tích khỏi thân-thể-Giáo-hội của Người. Hay nói cách khác, Thánh
Thể làm nên Giáo Hội.
Chúng ta cũng cần chắc lại rằng từ những thế kỷ đầu, người
ta đã hiểu từ “ex-communion” theo hướùng Thánh Thể rồi dần dà theo hướng
Giáo-hội-học. Từ đó chúng ta sẽ thấy Giáo-hội-học không thể tách ra khỏi thần
học về Thánh Thể. Giáo-hội-học của Vatican II là Giáo Hội học hiệp thông hay
nói khác đi là Giáo Hội Thánh Thể (Eglise eucharistique) theo nghĩa rộng của từ
ngữ này.
Hiểu như thế, với sức năng động của Thánh Thần, thì rõ
ràng Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Thánh Thể biến đổi các người tham dự thành
thân thể Đức Kitô. Kinh tạ ơn III đã diễn tả như sau:
“Và khi chúng con được Mình và
Máu Con Cha bổ dưỡng,
đượïc đầy tràn Thánh Thần của Người,
xin cho chúng con
trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”.
Thánh Augustinô đã trình bày cách tuyệt hảo về mối tương
quan giữa thân thể Chúa Kitô mà chúng
ta nhận lấy một cách bí tích và thân thể Giáo Hội của Chúa Kitô mà chúng ta trở thành khi hiệp lễ trong bài
giảng 272 :
“Bạn muốn hiểu thân thể Chúa Kitô
là gì không ? thì bạn hãy nghe thánh tông đồ nói với các tín hữu : “anh chị em
là thân thể Chúa Kitô và là các chi thể của Người” (1 Cr 12,27). Vậy nếu anh
chị em là thân thể Chúa Kitô và là chi thể của Người, thì chính mầu nhiệm của
anh chị em đang ngự trị trên bàn tiệc của Chúa. Anh chị em nhận lấy mầu nhiệm
của mình. Anh chị em thưa Amen để đáp lại lời nói về bản thân anh chị em, và
lời đáp này nói lên sựï chấp thuận của anh chị em. Bạn nghe nói “Mình thánh
Chúa Kitô” và bạn hãy là chi thể của Chúa Kitô, để lời thưa Amen của bạn là
chân thật” (sermon 272).
Giáo Hội là một biến cố : Giáo Hội đượïc tạo thành khi các
kitô-hữu họp nhau nghe Lời Chúa Kitô, đón nhận Thân mình Người và hiệp thông
với mầu nhiệm chết đi và sống lại của Người.
Không những Thánh Thể quy tụ và xây dựng Giáo Hội, nhưng
theo nghĩa chặt, Thánh Thể còn là lương thựïc của Giáo Hội.
B. Thánh Thể, lương thựïc của Giáo Hội lữ hành
Chúng ta sẽ đi từ chứùng từ của các giáo phụ :
Giá trị cứu chuộc của Thánh Thể rất rõ nét trong tư tưởng
của các giáo phụ khi các ngài gợi lên tư tưởng sau đây : Thánh Thể như là sự
cứu rỗi cho Giáo Hội và là sự hiệp nhất cho Giáo Hội.
Thánh Ignatiô thành Antiôkia cho rằng tường thuật về việc
thành lập Thánh Thể nói lên bánh và rượu Thánh Thể chứa đựng Mình và Máu Đức
Kitô . Ngài nói rằng cử hành Thánh Thể là để thực hiện và bày tỏ tính hiệp nhất
của Giáo Hội. Tư tưởng này đượïc viết trong thư gởi người thành Philiphê :
“Anh chị em hãy cẩn thận chỉ tham dự vào một cử hành
Thánh Thể mà thôi, bởi vì có một nhục thể của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, chỉ
có một ly rượu để hiệp nhất chúng ta trong máu Người, chỉ có một bàn thờ cũng
như chỉ có một giám mục cùng với linh mục đoàn và các phó tế là những bạn cùng phục vụ với tôi” (Phil 4,2).
Thánh Justinô trong cuốn 1 Apologie chú thích như sau
:
“Chúng tôi gọi lương thực này là
Thánh Thể (eucharistie = tạ ơn), không ai có thể tham dự mà không tin vào chân
lý của giáo huấn của chúng tôi và không được rửa trong giếng của ơn tha tội và
của ơn tái sinh và không sống theo giáo huấn của Chúa Kitô. Bởi vì chúng tôi
không cầm lấy lương thực này như bánh thường và của uống thường… Thức ăn này
nuôi dưỡng chúng ta bằng cách đồng hóa máu và thịt chúng ta với Máu và Thịt của
Chúùa Giêsu nhập thể ; đó là giáo lý của chúng tôi. Trong các sách hồi ký của
các ngài mà người ta gọi là sách phúc âm, các tông đồ đã kể lại cho chúng ta
những gì mà Chúùa Giêsu đã nhắn nhủ các ngài ; Chúa cầm lấy bánh và sau khi đã
tạ ơn ; Người nói với các ông : anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy.
Cũng thế, Chúa cầm lấy chén rượu, và sau khi đã tạ ơn, Người nói : Đây là Máu
Thầy và Người đã ban các thứù đóù cho họ mà thôi” (1Apologie 66).
Trong lời chú thích này, thánh Justinô nhấn mạnh đến đức
tin của Giáo Hội : Giáo Hội cử hành “tạ ơn” trong đức tin. Đức tin và việc gia
nhập vào Giáo Hội là những điều kiện để lãnh nhận lương thực này. Lương thực
này kết hiệp mật thiết những người tham dự vào Thân mình Đức Kitô. Giáo Hội
không coi Thánh Thể như của ăn của uống thông thường, nhưng như lương thực
thiêng liêng và đích thực nuôi dưỡng Giáo Hội.
Giáo Hội, ngay từ những thế kỷ đầu tiên đã nhìn Thánh Thể
như bánh nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng mến cho Dân Chúa lữ hành.
Nhiều chứng từ cho chúng ta thấy, ngay từ thế kỷ thứ II, trong nhiều Giáo Hội,
đã xuất hiện thói quen đem về nhà một phần bánh được hiến thánh để được hiệp
thông mỗi ngày, hay dành cho những người đau yếu không thể đếùn trong các buổi
tụ họp ngày chúa nhật hay là dành cho những tín hữu chuẩn bị chấm dứt hành
trình trần gian như “của ăn đường” (x. 1 Apologie 67).
Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng đức ái của Giáo Hội, vì
Thánh Thể đưa Giáo Hội vào kinh nghiệm sự viên mãn của tình yêu dâng hiến mà
cao điểm là mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô. Khi cử hành Thánh Thể, Giáo Hội
được mời gọi sống khai mở cho Thiên Chúa và cho thế giới. Là lương thực nuôi
dưỡng đức ái của Giáo Hội, Thánh Thể xây dựng một Giáo Hội hiệp thông và không
ngừng canh tân khuôn mặt của Giáo Hội này.
Vì vậy mà cộng đoàn Kitô hữu thựïc sự trở thành Hội Thánh
của Thiên Chúa nơi cử hành Thánh Thể. Khi người tín hữu tham dự Thánh Thể, Chúa
Thánh Thần liên kết họ vào thân thể Chúa Kitô và làm cho họ trở nên thân thể
Hội Thánh của Người. Kinh tạ ơn III đã diễn tả mối tương quan này như sau :
“Và khi chúng con đuợc Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng,
được đầy tràn Thánh Thần của Người,
xin cho chúng con trở nên
một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”
Tóm lại, Thánh Thể cung cấp năng lực sống và liên kết các
phần tử của Giáo Hội như Giáo Hội là cộng đoàn bác ái (Eglise = communauté de
charité). Thánh Thể xây dựng Giáo Hội xét như là thân thể Đức Kitô.
IV. GIÁO HỘI LÀM NÊN THÁNH THỂ
Thánh Thể làm nên Giáo Hội nhưng ngược lại, chính Giáo Hội
làm nên Thánh Thể. Giáo Hội, chứ không phải một cá nhân nào. Toàn thể Giáo Hội
là người cử hành Thánh Thể. Chủ thể của việc cử hành tạ ơn là Giáo Hội, có
nghĩa là cộng đoàn cụ thể của nhữõng người đã được rửa tội nhân danh Chúa Kitô.
Chắc chắn, linh mục có một vai trò đặc biệt, đó là “chủ sự” nhân danh Đức Kitô.
Nhưng chức vụ này không đặt ngài ở trên Giáo Hội, nhưng về phương diện thần
học, ngài ở trong lòng Giáo Hội. Chỉ có một chủ sự, nhưng tất cả đều cử hành
(un seul préside, mais tous célèbrent). Hay nói theo Vatican II thì chủ thể của
phụng vụ là Giáo Hội cử hành. Sách Lễ Rôma, trong quy chế tổng quát, đã nhấn
mạnh về điểm này khi nói: “Thánh lễ là sựï cử hành của dân Chúa được tổ chức có
phẩm trật” (x. Quy chế tổng quát Sách Lễ Rôma, ch. I, 1 ).
Không có Thánh Thể nếu không có Giáo Hội. Giáo Hội làm nên
Thánh thể trước hết bằng cách mời gọi các tín hữu tụ họp quanh Chúa Giêsu, Đấng
chịu đóng đinh thập giá và đã sống lại, Đấng mà họ tuyên xưng là “Chúa”
(Kyrios) và là Thiên Chúa (Théos) của họ. Lời mời gọi này gắn chặt
với “ngày
của Chúa”. Lẽ dĩ nhiên, sự tập họp của cộng đoàn thánh thể trước hết
là do lời mời gọi của Thiên Chúa, bởi vì Giáo Hội là Dân đuợc Thiên Chúa tuyển
chọn và kêu gọi nhờ việc Đức Giêsu chịu chết và sống lại trong quyền năng Chúa
Thánh Thần.
Giáo Hội làm nên Thánh Thể khi mà Thánh Thể đượïc cử hành
trong bối cảnh của đứùc bác ái, vì bản chất của Giáo Hội là hiệp thông sự sống
như hiến chế về phụng vụ đã viết :
“Tại bữa ăn sau cùng, trong đêm
Người bị nộp, Chúa Cứu Thế của chúng ta đã lập hy lễ Thánh Thể Mình và Máu
Người, để tồn tại muôn đời lễ hy sinh thập giá của Người cho tới khi Người lại
đến, và cũng là để ủy thác cho Giáo Hội, hiền thê chí ái của Người, việc tưởng
niệm sự chết và sựï sống lại của Người : đó là bí tích tình yêu, dấu chỉ của
hiệp nhất, dây ràng buộc của đứùc ái, bữa tiệc phục sinh, trong đó Chúa Kitô đượïc người ta ăn, linh hồn ta đượïc tràn
đầy ân sủng, và bảo chứùng của phúc vinh quang sau này đã được ban cho chúng
ta” (PV 47).
Chúng ta sẽ dễ hiểu vế này : Giáo Hội làm nên Thánh Thể
khi chúng ta hiểu Giáo Hội như là “bí tích của ơn cứu rỗi” hay “bí tích của
Nước Thiên Chúa”. Đây không phải là bí tích thứ tám, nhưng là “bí tích căn bản”
(sacrement fondamental), bí tích bao gồm các bí tích khác. Lẽ dĩ nhiên, Giáo
Hội chỉ là “bí tích căn bản” do sự lệ thuộc hoàn toàn và mãi mãi vào “bí tích
uyên nguyên” (sacrement-source) của Thiên Chúa và sự gặp gỡ giữa con ngườøi với
Thiên Chúa là Đức Kitô .
Giáo Hội mạc khải và thể hiện ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban
cho nhân loại trong Con của Người là Đức Giêsu nhờ sức mạnh của Thánh Thần.
Chính trong cử hành Thánh Thể và các bí tích khác mà Thánh Thể là trung tâm mà
Giáo Hội tưởng nhớ đến Chúa của mình, nhớ
đến mầu nhiệm Đức Kitô, mầu nhiệm đã làm nên sự hiện hữu của Giáo Hội
như là Giáo Hội của Chúa Kitô và hiện tại hóa mầu nhiệm này để sống lấy mỗi
ngày.
Thánh thể cũng như các bí tích khác đều được cử hành trong
Giáo Hội, với Giáo Hội và bởi Giáo Hội (dans l’Eglise, avec l’Eglise et par l’Eglise).
Sau khi đã tìm hiểu hai vế trong tư tưởng thần học của
giáo phụ về Thánh Thể, chúng ta hỏi xem vậy đâu là thần học của mối tương quan này.
V. TRUYỀN THỐNG THẦN HỌC VỀ MỐI TƯƠNG
QUAN GIỮA THÁNH THỂ VÀ GIÁO HỘI.
A. Thánh Thể : điểm tới của các bí tích
khai tâm kitô giáo (initiation chrétienne)
Truyền thống phụng vụ trong 6 thế kỷ đầu luôn luôn cử hành
các bí tích khai tâm kitô giáo mà ngày nay ta gọi là Rửa tộâi – Thêm sức –
Thánh Thể như một toàn thể thống nhất. Bộ ba này đã trở thành khuôn mẫu và quy
tắc cho việc nhập Kitô-giáo.
Thánh Augustin đã diễn tả bằng một biểu tượng tuyệt vời để
nói lên tính năng động gắn bó của bộ ba này :
“Như những hạt lúa mì, anh em đã
đượïc chứa vào các kho lẫm khi bước vào bậc dự tòng ; rồi trong suốt thời gian
dự tòng, anh em đã đượïc nghiền nát bởi các cuộc chay tịnh và các lần trừ tà ;
sau đó anh em tới giếng rửa tội để được thấm nước, rồi đượïc nướng chín trong
lửa Chúa Thánh Thần. Anh em đã trở nên tấm bánh của Chúa. Vậy anh em hãy là
những gì anh em xem thấy và hãy nhận lấy những gì mà anh em là” (sermons 227 và 272).
Như vậy, từ rửa tội, bí tích của sự gia nhập vào Giáo Hội
đến Thánh Thể tạ ơn là một hành trình duy nhất gồm nhiều giai đoạn. Nếu rửa tội
là điểm khởi hành thì Thánh Thể là điểm tới của hành trình. Vấn đề cốt yếu là
trở thành những chi thể của thân thể Giáo Hội của Chúa Kitô bằng cách tham dự
vào thân thể Thánh Thể.
Hành trình đi vào Giáo Hội phải dẫn người tân tòng đến
Thánh Thể. Đến với Giáo Hội để đến với Chúa Kitô và kết hiệp với Chúa Kitô để
trở nên chi thể trong thân-thể-giáo-hội của Người. Chính bằng cách hiệp thông
với Thân mình Đức Kitô mà người tân tòng hoàn toàn trở thành thành viên của
Giáo Hội. Bí tích Thánh Thể xác định chúng ta thuộc về Giáo Hội. Cả hai bí tích
đều được xây dựng trên mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Kitô .
Bí tích rửa tội – thêm sức tìm thấy hướng đi nơi Thánh
Thể. Thánh Phaolô nói : Rửa tội là một sự ngụp lặn vào trong sự chết với Chúa
Kitô, rồi Ngài nói chúng ta cùng được “mai táng” (Rm 6,3), “cùng đóng đinh” (Rm
6,6), “cùng tháp vào Người” (Rm 6,5) để được “cùng sống với Người” (Rm 6,8).
Chết với Đức Kitô và sống lại với Đức Kitô (x. Rm 6,4-6),
người Kitô hữu đượïc mời gọi hiến dâng thân xác mình như mộïït của lễ dâng hiến
trong hy tế Thánh Thể. Khi dâng Thánh lễ, ngườøi kitô hữu dâng chính mình với
Đức Kitô. Thánh Tôma nói rằng tất cả ơn các bí tích đều bắt nguồn từ Thánh Thểû
và cốt yếu là ơn làm con trong Giáo Hội.
B. Truyền thống La-tinh về tương quan
giữa Thánh Thể và Giáo Hội
Truyền thống thần học Tây phương về Thánh Thể đã nhìn
Thánh Thể như phần trung tâm, thánh thiện nhất của toàn bộ đời sống Giáo Hội :
Giáo Hội phổ quát cũng như Giáo Hội địa phương và đối với từng tín hữu (x. Quy chế tổng
quát sách lễ Rôma, ch. I, 1 ; PV 41 ; GH 11). Chỉ có bí tích Thánh
thể mới thực hiện trong con người sự hiệp thông viên mãn với Đấng mà con người
tuyệt đối cần để được sống và sống dồi dào sung mãn. Truyền thống còn nhìn bảy
bí tích của Giáo Hội lữ hành bắt nguồn trong sự phục sinh của Đức Kitô và Thánh
Thể là bí tích tuyệt vời, là chóp đỉnh của mọi bí tích. Các giáo phụ luôn nhìn
trong Máu và Nước từ cạnh sườn Đức Kitô
trên thập giá như nguồn mạch phát sinh các bí tích, và Máu Đức Kitô
tượng trưng cho Thánh Thể và Nước cho bí tích Rửa tội.
Bí tích Rửa tội đưa ta vào cuộc tạo dụng mới trong mầu
nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Thánh Thể kết hiệp ta với Đức Kitô và là “mầm mống
ơn trường sinh bất tử” và là lương thực cho ta được phục sinh (x. Ga 6, 54-48
: diễn từ về bánh hằng sống).
Như thế, các bí tích đều chất chứa ân sủng đến từ phục
sinh của Đức Kitô. Vì vậy, tất cả mọi bí tích đều hoàn tất và viên mãn trong
Thánh Thể.
C. Truyền thống Đông phương về tương quan
giữa Thánh Thể và Giáo Hội
Cũng đồng ý với thần học Tây phương, Jean Zizioulas 1, một nhà thần học nổi tiếng của Đông phương, trong tác phẩm
“l’être ecclésial” thêm rằng : Thánh Thể như là biến cố của hiện xuống (
événement de Pentecôte) và ông nhấn mạnh đến chiều kích vũ hoàn của Thánh Thể.
Chính vì Thánh Thể liên kết Giáo Hội một cách mật thiết
với sức sống phục sinh của Đức Kitô mà Giáo Hội, dưới sức mạnh của Thánh Thần,
được củng cố và canh tân sứ mạng thừa sai của mình. Cũng như Giáo Hội – ngũ
tuần đã để cho Thánh Thần đổi mới để thực sự trở thành Giáo Hội của Chúa Phục
sinh thì nếu Giáo Hội ngày nay cũng chấp nhận để cho Thánh Thể canh tân chính
mình, Giáo Hội cũng tìm lại được căn tính và ơn gọi nguyên thủy của mình.
Đồng thời, khi cử hành Thánh lễ tạ ơn, Giáo Hội dược mời
gọi để hy vọng : cùng với Đức Kitô, Giáo Hội tham dự vào sự hình thành một nhân
loại được cứu độ và được tập họp trong niềm mong đợi ngày mà Thiên Chúa sẽ là
tất cả trong tất cả (1 Cr 15, 28).
Giáo Hội tìm
thấy trong mầu nhiệm tạ ơn lương thực nuôi dưỡng niềm tin tưởng và hy vọng của
mình. Khi tham dự vào biến cố cứu độ được hiện tại hóa trong bữa ăn của Chúa,
các chi thể của thân thể Giáo Hội đã được kết hiệp với Đấng giải thoát họ và họ
hướng về ngày mà mọi con cái của Thiên Chúa sẽ cởi mở hoàn toàn để đón nhận
tình thương của Chúa Cha. Tuy vẫn là Giáo Hội lữ thứ, nhưng trong sự mong đợi,
Giáo Hội đã có chân trong cuộc biến đổi vĩ đại sẽ làm cho vũ trụ này thay hình
đổi dạng .
Cuối cùng, theo ông, cộng đoàn Thánh Thể chính là thân thể
của Đức Kitô tuyệt hảo nhất và Giáo-hội-học của Đông phương luôn hướng về Thánh
Thể.
1 ZEAN ZIZIOULAS, thần học gia chính
thống, giáo sư thần học tín lý tại Đại học Glasgow. Ông sinh tại Hy lạp năm
1931. Sau khi tốt nghiệp tại Đại học Athena, ông chuyên về lịch sử giáo hội
trong ba thế kỷ đầu tại Đại học Harward, Hoa Kỳ. Tác phẩm đầu tay của ông: “Sự
duy nhất của Giáo hội trong Thánh Thểû và trong chứùc giám mục trong ba thế kỷ
đầu” đã đóng một vai trò quyết định trong việc soi sáng thần học và lịch sử về
khoa Giáo hội học Thánh Thể (ecclésiologie eucharistique).
KẾt luẬn
Thánh Thể là kho tàng xây dựng Giáo Hội, nghĩa là nguồn
suối và cùng đích của đời sống Kitô hữu, là kinh nguyện tạ ơn, là cuộc gặp gỡ
với Thiên Chúa.
Thánh Thể, bánh của Lời Chúa và Bánh của Mình và Máu Chúa
Kitô (x. Origène, Homélie
XIII, 3 ; Ambroise, Traité sur
l’évangile de saint Luc)â, nuôi dưỡng cuộc sống Giáo Hội và tạo nên
khuôn mặt tín hữu của các chi thể. Thánh Thể là thức ăn đem niềm vui đến cho
Giáo Hội mỗi ngày, là lương thực hàng ngày giúp Giáo Hội lữ hành bướùc tới phía
trước, hôm nay và ngày mai.
Thánh Thể làm cho Giáo Hội mạnh sức tiến về Nướùc Trời và
đặt Giáo Hội luôn hướùng về Nước Trời. Nơi Thánh Thể, Giáo Hội nhận được sự
hiểu biết, niềm tin tưởng và tính bâát tử. Thánh Thể hiệp nhất tạo vật đã đượïc
tạo thành với tạo vật đang hình thành, hiệp nhất sự phục vụ Thiên Chúa với sự
phục vụï anh em.
Và để kết luận những gì chúng ta vừa trình bày, chúng ta
hãy nghe lại một trong những suy tư của Thánh Phaolô về Thánh Thể và Giáo Hội :
“Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng
phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ bánh thánh, đó chẳng
phải là dự phần vào Thân thể Người sao ? Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả
chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là
một thân thể” (1 Cr 10,17-19).