Chúa Thánh Thần Trong Đời
Sống Kitô Hữu
(catechesis.net )
Học Viện Đaminh
DẪN NHẬP
Có thể nói, trong những năm gần đây, Hội Thánh
mời gọi mọi Kitô hữu cùng học hỏi, suy niệm và sống lời tuyên xưng về Chúa
Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Hội Thánh muốn làm nổi
bật sự hiện diện và vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc thực thi ơn cứu độ của
Thiên Chúa. Mặt khác, Hội Thánh cũng muốn làm cho mọi người mở lòng ra để Chúa
Thánh Thần soi dẫn. Trong thực tế, từ xưa cho đến nay, chúng ta thấy rất ít tài
liệu của các nhà thần học trình bày về các hoạt động của Chúa Thánh Thần cách
rõ ràng và sống động, ngay cả nền thần học Tây phương cũng dành một chỗ rất
khiêm tốn để nói đến các công trình của Ngài. Cho nên, nhiều người Kitô hữu hầu
như vẫn chưa hiểu biết nhiều về vai trò Chúa Thánh Thần. Vì vậy, họ có vẻ xa lạ
với Chúa Thánh Thần và hầu như chỉ biết có Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần
nhưng chưa hiểu biết các công trình cũng như hoạt động của Ngài và Ngài có giúp
gì cho đời sống người Kitô hữu hay không. Xem ra sự hiện diện của Ngài quá tế
nhị, nhẹ nhàng, và chúng ta có cảm tưởng Ngài là vị Thiên Chúa bị quên lãng giữa
Ba Ngôi.
Quả thực, người
tín hữu chúng ta đôi khi không ý thức được Chúa Thánh Thần đang hiện diện, sống
trong mình như hơi thở và thôi thúc chúng ta làm điều thiện, ban những ơn cần
thiết để chúng ta chu toàn bổn phận, và chính Ngài làm cho chúng ta kết hợp
thâm sâu với Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì thế, qua những trang viết về “CHÚA THÁNH THẦN
TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU” dưới đây, tổ thuyết trình muốn gây ý thức rằng: Chúa
Thánh Thần là quà tặng của Thiên Chúa ban cho các Kitô hữu; đời sống của người
Kitô hữu là sống trong ơn của Chúa Thánh Thần; đồng thời chúng ta cần biết mở rộng
lòng mình để đón nhận các ơn của Ngài, và hãy để Ngài dẫn dắt chúng ta hướng về
Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu của đời sống người Kitô hữu.
I. THÁNH THẦN - QUÀ TẶNG CỦA THIÊN
CHÚA CHO CÁC KITÔ HỮU
1. Thánh Thần được hứa ban
a. Đức Giêsu hứa ban[1]
Đức Giêsu đã
đảm bảo cho các môn đệ rằng Người sẽ sai tới họ Đấng Cha đã hứa.
Như trong Tin mừng Luca, Đức Giêsu nói rằng: “Phần
Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong
thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,49); và trong sách Công vụ Tông đồ, thánh sử Luca
cũng viết: “Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Đức Giêsu rằng:
Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không? Người
đáp: Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,
nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh
em” (Cv 1,6-8).[2]
Đặc biệt
trong Tin mừng thứ tư, Đức Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các
môn đệ một cách rõ ràng hơn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của
Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến
ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón
nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người,
vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,15-17).
Lời hứa ban
Đấng Paráclê[3] (Thánh
Thần) nằm trong bối
cảnh các môn đệ đang bị khủng hoảng vì sự ra đi của Đức Giêsu và đang xao xuyến
sợ hãi trước thế gian thù ghét (14,1.27).[4] Việc “ở lại” của Đấng Paráclê nơi các môn đệ đã được tác giả Tin
Mừng thứ tư trình bày rõ trong đoạn văn Ga 14,16-17 qua ba giới từ “meta,”[5] (me-ta:
với), “para,”[6] (pa-ra: giữa) và “evn”[7] (en:
trong) và động từ “me,nw”[8] (me-nô: ở lại) để nhấn mạnh tầm quan trọng việc
“ở lại” mãi mãi của “Đấng Paráclê” trong cộng đoàn các môn đệ cũng như từng người
tin qua mọi thời đại.[9]
b. Điều kiện để đón nhận[10]
Thế nhưng, để
có thể đón nhận Đấng Paráclê, các môn đệ phải hội đủ những điều
kiện: Theo mạch văn Ga 14,15-17 và Ga 16,7-11, tác giả đưa ra hai điều kiện. Về
phía các môn đệ: Nếu các
môn đệ “yêu mến Đức Giêsu” và “giữ các điều răn của Ngài” (Ga 14,15) thì Người
sẽ can thiệp với Cha để Cha ban Đấng Pa-rác-lê cho họ. Về
phía Đức Giêsu: Chỉ
khi nào Đức Giêsu ra đi thì Đấng Paráclê mới đến với các môn đệ (Ga 16,7).[11] Hay qua cái chết trên thập giá của Đức Giêsu, Người đi về cùng
Cha và Ngài sẽ gởi Đấng Paráclê đến với các ông.
2. Thánh Thần được trao ban[12]
Sau khi Đức
Giêsu đi vào cuộc tử nạn, các tông đồ trở nên hoang mang, sợ sệt, đang tụ họp
trong nhà Tiệc ly, thì chiều ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với
các ông, trấn an họ bằng việc ban bình an và cho các ông xem tay và cạnh sườn
Người, và thổi hơi trao ban Thánh Thần cho các ông và nói: “Anh
em hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần” (Ga 20,19-23).
Và 50 ngày sau,
vào sáng ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ
đang hội nhau lại trong nhà Tiệc ly và cùng cầu nguyện với Đức Maria,
thân mẫu Đức Giêsu, để ban cho họ những đặc sủng của Ngài để họ mạnh dạn đi
loan báo Tin mừng và xây dựng Giáo hội (Cv 2,1-4). “Ai
nấy đều được ơn Thánh Thần và họ bắt đầu nói các thứ tiếng, tuỳ
theo khả năng của Thánh Thần ban cho” (Cv 2,4).
Thực ra, Đức
Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay khi Ngài hiện ra lần thứ nhất tại
nhà Tiệc ly vào buổi chiều hôm Phục sinh. Các
con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì người ấy được tha,
các con cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Còn ngày lễ Ngũ tuần chỉ là dịp Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các
ông một cách đặc biệt, với đặc sủng ngôn ngữ (Cv 2,4), đồng thời cũng là dịp giới
thiệu Giáo hội cho muôn dân và chính thức sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng
cứu độ cho mọi người.
Khi nói đến việc
Chúa Thánh Thần được trao ban cho các tín hữu, thánh Phaolô nói rằng Thần Khí
“ngự” (Rm 8,9.11) hoặc “ngụ trong” (2Tm 1,14) mỗi Kitô hữu, bởi vì Người được
“cử đến” (Gl 4,6; 1Pr 1,12) như một Đấng nào đó. Thư gửi tín hữu Êphêxô thậm chí còn cổ vũ người Kitô phải “thấm
nhuần Thần Khí” tương tự như lúc họ say sưa vì rượu vậy (5,18), như thể đó là điều
gì đó mà người Kitô phải có (Rm 8,9; 1Cr
7,40). Nhìn từ nhãn giới của Thiên Chúa, Thần Khí được “trao ban” (Rm 5,5; 2Cr
1,22), được “đổ tràn” như một chất lỏng (Cv 2,17; 1Cr 12,13; v.v.), được “ban
xuống” (Gl 3,5) như một quà tặng.
Nói tóm lại,
trước sự khủng hoảng của các môn đệ, Đức Giê-su đã hứa ban Thánh Thần cho các
môn đệ. Và sau khi Phục sinh và trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần được sai đến
với các môn đệ với điều kiện họ phải yêu mến Đức Giêsu và giữa các giới răn của
Người. Chúa Thánh Thần không chỉ được ban cho các môn đệ nhưng cho tất cả những
ai hội đủ những điều kiện ấy. Quả thật, đây là một quà tặng nhưng không của
Thiên Chúa được ban cho các Ki-tô hữu.
II. TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN ĐỐI
VỚI KITÔ HỮU
1. Thánh Thần hằng ở trong anh em
a. Thân xác anh em là đền thờ Chúa
Thánh Thần và Người ngự trong anh em (1Cr 3,16; Rm 8,9.11)
Trong Kinh
Thánh, Thần Khí được ví như là hơi thở, là sự sống xuất hiện ngay từ khi vũ trụ
được tạo thành. “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt
nước” (St 1,2). Chính
nhờ Thần Khí, con người đầu tiên trở thành sinh vật có sự sống. Khi dựng nên
Ađam, Thiên Chúa đã thở hơi vào thân xác bất động vừa được nhào nặn từ bùn đất,
lập tức thân xác ấy sống động (St 2,7). Đối với Thiên Chúa, hơi thở của Ngài là
một biểu tượng khả giác về sự hiện diện và quyền năng của Ngài, quyền mà Thiên
Chúa dùng để phát ra lời được biểu hiện trong hơi thở. Hơi thở của Ngài là “nguồn”
của mọi loài. Chúng sống được là nhờ sinh khí của Ngài (St 2,7; 6,17; Hc
3,9-21).[13]
Khi nói Thiên
Chúa gửi Thần Khí của Ngài đến ngự trong lòng tín hữu, có ý ám chỉ chiều kích
thâm sâu nơi mỗi con người được đánh động và được biến đổi. Do đó các tín hữu
trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Như thánh Phaolô đã khẳng định: “Nào anh em đã chẳng biết rằng thân xác anh em là đền thờ của
Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em đó sao?" (1Cr 3,16). Như vậy, thân xác chúng ta là nơi Thiên Chúa cư ngụ
vì đã được Chúa Thánh Thần thánh hóa, tẩy trừ những nhơ uế do tính xác thịt gây
ra. Thân xác trở nên tinh tuyền thánh thiện xứng đáng là ngôi đền cho Thiên
Chúa ngự. Thánh Thần được trao ban cho chúng ta, Thánh Thần đổ tràn đầy trong
lòng chúng ta và chúng ta đón nhận Ngài như của đầu mùa, làm cho chúng ta trở
nên thân mình của Đức Kitô.
Nói cách khác,
Thánh Thần đưa chúng ta đến đồng nhất với Đức Kitô: “chúng ta có Thánh Thần chúng ta thuộc về Đức Kitô” (Rm 8,9). Vì thế, thân xác không phải
là thứ ngục tù, xấu xa và đáng khinh bỉ. Nhưng ngược lại, thân xác ta được dựng
nên giống hình ảnh Thiên Chúa và “Thiên
Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1Cr 6,20), cái giá đó chính là máu Đức Kitô và được Chúa Thánh
Thần làm cho trong sạch và tươi trẻ để trở nên đền thánh nơi Thiên Chúa ngự, là
chi thể trong thân mình của Đức Kitô là Giáo Hội (1Cr 6,15.19).
Về vấn đề tôn
trọng thân xác, Công đồng Vaticanô II cũng khẳng định rằng:
Con người duy
nhất với xác và hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc
thế giới vật chất. Vì thế, nhờ con người, những yếu tố đó đạt đến tuyệt đỉnh của
chúng và tự do dâng lời ca tụng lên Đấng Tạo Hóa. Vậy con người không được
khinh miệt đời sống thể xác. Nhưng trái lại con người phải coi thân xác mình là
tốt đẹp và đáng tôn trọng vì thân xác ấy do Chúa tạo dựng và phải sống lại
trong ngày sau hết… chính phẩm giá con người đòi hỏi con người ca tụng Thiên
Chúa nơi thân xác mình chứ đừng để cho thân xác ấy nô lệ cho những xu hướng xấu
xa của lòng mình.[14]
b. Thần Khí là Đấng soi sáng và khai
mở
Thánh Phaolô
nói rằng: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần
Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức
Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người ngự trong anh em, mà
làm cho thân xác anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).
Trong hành
trình tiến về nhà Cha có những lúc người Kitô hữu lạc hướng, mờ tối, vì thế cần
sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để họ đi đúng hướng. Đó cũng chính là sứ mạng của
Chúa Thánh Thần. Nếu người tín hữu bước theo sự hướng dẫn của Ngài thì sẽ đến
được bến bờ bình yên. Dưới sự soi sáng của Thần Khí giúp, người tín hữu nhận ra
đâu là thánh ý của Thiên Chúa, đâu là ý riêng của của con người. Thánh Thần
giúp người tín hữu nhạy cảm với những giá trị thiêng liêng mà tự họ không thể
nhận ra được. Ngài hướng người đến chân lý một cách đầy đủ và toàn vẹn hơn.
Thánh Thần cũng dạy người tín hữu cách cư xử với anh em mình như lòng Chúa mong
muốn.[15]
Hơn nữa, Chúa
Thánh Thần còn là ân sủng đi vào tâm hồn con người. Trước hết và trên hết, Chúa
Thánh Thần biểu lộ chính Ngài giúp người tín hữu trong sự yếu đuối của họ. Vì
Ngài chính là ngọn lửa phá tan đi những tảng băng của hoài nghi, của thất vọng,
của tranh giành quyền lực, của nghi kỵ, của hận thù và chia rẽ giữa con người với
con người; Ngài chính là ngọn lửa sưởi ấm những tâm hồn băng giá, nguội lạnh và
khô khan, những tâm hồn nghèo hèn và đau khổ; Ngài chính là ngọn lửa thiêu cháy
những ngôn ngữ, chữ viết xúc phạm và phỉ báng Thiên Chúa, những lý lẽ lạc xa
chân lý; Ngài hướng dẫn người tín hữu thực thi giới răn của Thiên Chúa một cách
chu toàn và Ngài là Thầy dạy họ am hiểu Kinh Thánh một cách chuẩn mực nhất. Cuối
cùng Ngài chính là Đấng kiến tạo sự Bình An và Hiệp Nhất.
c. Thánh Thần đến củng cố “con người
nội tâm”[16]
Dưới ảnh hưởng
của Chúa Thánh Thần, con người nội tâm, tức là “thần thiêng” (spirituel), trưởng thành và thêm mạnh mẽ. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết
rõ sự thật về con người. Trong Chúa Thánh thần, Đấng là hồng ân vĩnh cửu, Thiên
Chúa khai mở cho con người, và hơi thở thầm kín của Chúa Thánh Thần lại làm cho
tinh thần con người mở ra với Thiên Chúa, Đấng đã tự khai mở cho con người để cứu
độ và thánh hóa con người. Chính vì vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng đang sống
trong mỗi người. Ngài không chỉ hiện hữu và giúp người tín hữu trong đời sống
thể lý, mà còn hoạt động và giúp mỗi người cảm nhận sự sống thiêng liêng của
Thiên Chúa. Chính nhờ Thần Khí mà người Kitô hữu mới hiểu được Thiên Chúa: “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ
nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha Người sẽ làm chứng
về Thầy” (Ga 15,26).
Và cũng chính
nhờ mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần, con người hiểu
mình, hiểu chính nhân tính của mình. Vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Sự
thật này cần được liên tục tái khám phá dưới ánh sáng của Đức Kitô, là khuôn mẫu
cho mối tương quan với Thiên Chúa. Là hình ảnh của vị Thiên Chúa luôn trao ban,
con người chỉ nhận được chính mình và hoàn thành bản thân khi biết tự trao ban
và hiệp thông với người khác. Sự trưởng thành của con người bên trong bao hàm sự
khám phá đầy đủ ý nghĩa của nhân tính. Khi thông ban cho con người trong Chúa
Thánh Thần, Thiên Chúa biến đổi thế giới của con người từ bên trong nơi trái
tim con người.
Trong sứ điệp gửi
các bạn trẻ nhân ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XXIII tại Sydney - Úc năm
2008, Đức Thánh Cha Benêđictô XVI nói rằng:
Quả thật, Chúa
Thánh Thần, thần khí tình yêu của Cha và Con, là nguồn mạch sự sống thánh hóa
chúng ta, “vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người
vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Tuy nhiên, biết Thần Khí không thì chưa đủ; chúng ta
phải đón tiếp Người như người hướng dẫn linh hồn chúng ta, như “Vị Thầy nội
tâm”, Đấng đưa chúng ta vào Mầu nhiệm Ba Ngôi, bởi vì chỉ mình Người có thể mở
lòng chúng ta đón nhận đức tin và cho phép chúng ta sống đức tin tròn đầy mỗi
ngày. Chính Người thúc đẩy chúng ta đi đến với tha nhân, thắp lên trong chúng
ta ngọn lửa tình yêu và làm chúng ta nên những người loan báo cho tình thương của
Thiên Chúa.[17]
d. Chúa Thánh Thần cầu thay nguyện
giúp
Thiên Chúa đã
tuôn đổ Thánh Thần của Người trong lòng các Kitô hữu. Ngài trở thành lời cầu
nguyện thay cho họ trước mặt Thiên Chúa vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới thấu suốt
mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Ngài cầu nguyện trong và cho
người tín hữu: “Để chứng thực anh em là con cái,
Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên:
Ápba, Cha ơi!” (Gl 4,6; x. Rm 8,16). Ở đây chính nhờ
tác động của Thánh Thần mà xảy ra việc người Kitô hữu trở nên đồng thừa tự với
Đức Kitô khi gọi Thiên Chúa là Cha của mình. Như thế, qua lời cầu nguyện của
Chúa Thánh Thần phát xuất từ tâm can người Kitô hữu lời của Đức Kitô, Chúa
Thánh Thần nối kết người tín hữu với Thiên Chúa.
Hơn nữa, Chúa
Thánh Thần vừa là lời ca ngợi vừa là động lực thúc đẩy con người hướng lòng lên
Thiên Chúa vì tất cả “những bài
thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” đều nhằm ca ngợi và tôn vinh Thiên
Chúa (Ep 5,18-20; Cl 3,16-17). Những lời ca ngợi này là lời của thụ tạo
dâng lên Đấng Tạo Hóa, lời phàm nhân dâng lên Thiên Chúa tối cao, lời của người
con thưa với Cha của mình, chính những lời ca ngợi của người tín hữu đem lại
cho họ ơn cứu độ và hồng ân cao cả.[18] “Thần
Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế
nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng
rên siết khôn tả" (Rm 8,26).
Cuộc sống hàng
ngày của mỗi người Kitô hữu tuy có những khác biệt về hoàn cảnh sống, lúc vui
lúc buồn, lúc thành công lúc thất bại…, nhưng chung qui đời sống của họ là kết
hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi bằng lời cầu nguyện và bằng chính cuộc sống chứng tá
của mình. Chúa Thánh Thần làm cho người Kitô hữu trở về và sống đúng với căn
tính của mình. Căn tính của họ là hiệp thông với Thiên Chúa bằng chính lời cầu
nguyện. Họ được kêu gọi đến với Thiên Chúa là “Cha”, đồng thời hiệp thông với mọi
người và thực hiện các đòi hỏi của đức tin trong tình nghĩa anh em tương ái lẫn
nhau. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 2672) dạy rằng có bao nhiêu người cầu
nguyện thì có bấy nhiêu cách cầu nguyện, nhưng chỉ có một Thánh Thần, Đấng tác
động trong mọi người và cùng với mọi người. Được thông hiệp nhờ Chúa Thánh Thần,
khi người Kitô hữu cầu nguyện, họ được cầu nguyện trong Đức Kitô.[19]
2. Thánh Thần là Đấng ban sự sống
Khi mới chào đời,
yếu tố cần thiết nhất cho cuộc sống con người là hơi thở. Một khi không thở được,
lập tức đứa trẻ chết ngay và người ta gọi nó là đứa chết ngạt. Nó sẽ không có
khai sinh, không có tên gọi và bị xem như không hiện hữu trên đời. Chính nhờ
hơi thở mà người ta phân biệt người sống với người chết.
Hơi thở cũng giống
như các bí tích là sự sống của người Kitô hữu vì đời sống của họ bắt đầu bằng
các bí tích và kết thúc bằng bí tích. Qua các bí tích, Chúa Thánh Thần hoạt động
mạnh mẽ trong đời sống người Kitô hữu. Nhờ mầu nhiệm tử nạn Phục Sinh của Đức
Kitô, con người được đồng hóa với bản tính Thiên Chúa trở nên con của Ngài. Nơi
mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, Chúa Thánh Thần được mạc khải như là Đấng ban
sự sống. Nhân danh mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, Giáo hội loan báo sự sống
và đồng thời loan báo Đấng ban sự sống, trong sự hiệp thông mật thiết với Chúa
Thánh Thần và khiêm tốn phục vụ Ngài.[20]
Dưới tác động của
Chúa Thánh Thần, con người khám phá ra chiều kích thần linh của mình để có thể
thoát khỏi những ràng buộc xuất phát từ việc tuyệt đối hóa vật chất. Nhờ Chúa
Thánh Thần, con người mới hoàn thành người trọn vẹn và có thể sống trong tự do
của con cái Chúa. Dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, con người thần thiêng trưởng
thành và thêm mạnh mẽ. Chỉ Chúa Thánh Thần mới biết rõ sự thật về con người.
Trong Chúa Thánh Thần, Đấng là hồng ân vĩnh cửu, Thiên Chúa khai mở cho con người,
cho tinh thần con người đồng thời hơi thở thầm kín của Chúa Thánh Thần lại làm
cho tinh thần con người mở ra với Thiên Chúa, Đấng đã tự khai mở cho con người
để cứu độ và thánh hóa con người.[21]
a. Thần Khí tái sinh[22]
Mọi người kể cả
những người được coi là công chính, đều cần có sự sống mới, sự sống thần linh.
Sự sống do Ađam không đủ, vì đó là sự sống cũ đưa tới cái chết. Sự đổi thay
trên bình diện tự nhiên không đủ để mang lại ơn cứu độ. Con người cần phải tái
sinh và đó là công việc của Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu khẳng định với Nicôđêmô:
“Ai không sinh bởi nước và Thần Khí,
thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5-6).
Trong thư Rôma,
thánh Phaolô mô tả tình trạng hư mất của con người rõ ràng và sống động hơn cả.
Trạng thái ấy là một trạng thái vô vọng (Rm 1,23; 3,9.18). Con người không thể
thay đổi tình trạng đó nên Thiên Chúa phải can thiệp để cứu chữa và thay đổi tận
gốc lòng dạ con người. Sự thay đổi tận gốc tâm hồn con người là sự thay đổi sâu
xa và toàn diện, giống như tái sinh cho một đời sống mới. Qua bí tích Rửa tội,
người Kitô hữu được sinh ra cho sự sống mới bởi nước và Thần Khí (Ga 3,5). Sự
tái sinh này làm cho con người không còn thuộc lãnh vực xác phàm nữa, mà thuộc
lãnh vực Thần Khí: “Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt,
và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí” (Ga 3,6).
Qua Phép rửa, với
nước (chất thể) và Thần Khí (Thiên Chúa), người Kitô được tái sinh để mặc lấy một
thể dạng hiện hữu mà truyền thống thiêng liêng gọi là “Thần Khí - thiêng liêng”
hoặc “thần nhân,” tức là dạng cách hiện hữu bao hàm cả yếu tố thần linh lẫn
nhân loại. Thánh Gioan đã làm nổi bật khi cho rằng: “phàm ai được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội, vì mầm
sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 3,9); còn thánh Phaolô thì quả quyết như sau: qua Phép rửa,
người tín hữu được dìm vào cái chết của Đức Kitô để cũng được sống lại như
Ngài, và nhờ đó, có khả năng “sống một đời sống mới” (Rm 6,4); nói cách khác, “những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác
thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần
Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” và – nếu đã là như vậy, thì – “đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tị
nhau” (Gl 5,24-26).[23] Bởi thế, có sinh bởi
Thần Khí mới được vào Nước Thiên Chúa, vì đó không phải là nước thế gian mà là
Nước Trời thuộc lãnh vực thần thiêng. Sự tái sinh này là một sự thay đổi tận gốc
do Chúa Thánh Thần thực hiện. Chính Chúa Thánh Thần chuẩn bị và hoàn tất việc
tái sinh này.
Công việc chuẩn
bị của Chúa Thánh Thần là soi sáng và thuyết phục để con người nhận ra mình là
kẻ có tội. Không ai có thể được cứu độ, nếu không nhận ra thân phận tội lỗi của
mình. Nhờ Chúa Thánh Thần, con người nhận ra mình cần ơn cứu độ, và tin
tưởng hướng tâm hồn lên Đức Kitô Cứu Thế. Niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là điều
kiện cần thiết để được cứu, và niềm tin ấy là hoa quả của Thánh Thần (Ga 5,22;
1Cr 1,9). Con người có niềm tin viên mãn cũng là con người đầy Thánh Thần (Cv
6,5; 11,24). Sứ vụ của Thánh Thần là củng cố, làm cho niềm tin phát triển và trở
nên viên mãn. Tiến trình tái sinh cũng là tiến trình canh tân đổi mới của Chúa
Thánh Thần (Tt 3, 5). Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng
với Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Ađam mới.
b. Thần Khí thánh hóa
Thánh hóa hay
phát triển và nuôi dưỡng là công việc của Chúa Thánh Thần. Mỗi người Kitô hữu
được mời gọi lớn lên trong ân sủng và hiểu biết hơn nữa về Đức Kitô, Chúa chúng
ta và Đấng Cứu Thế (2 Pr 3,18). Thần học coi tác động thánh hóa như là “sứ mạng
vô hình” chính yếu của Thánh Thần. Cha không thể được sai đi, nhưng lại đến
cùng với Con, trong sức tác động của Thần Khí, bởi vì mọi hoạt động đều phát xuất
từ tình yêu: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy.
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người
ấy” (Ga 14,23).[24]
Nếu Chúa Thánh
Thần là sợi dây tình yêu của đời sống Ba Ngôi, thì Người cũng là trung tâm của
toàn thể đời sống người Kitô hữu. Quả thế, Yves Congar cho thấy rằng qua phụng
vụ, và các Bí tích, Chúa Thánh Thần bày tỏ vai trò của mình như là một người thực
hiện, người thánh hóa, người hướng dẫn và cùng hành động với chúng ta, Ngài ban
các ân sủng và quà tặng của Ngài cho chúng ta. Chúa Thánh Thần không xuất hiện
như một Người “xa lạ” nhưng là Đấng cư ngụ, hành động và thánh hóa chúng ta
(1Cr 3,16); một cách tuyệt vời theo cách nói của Thánh Agustinô, Người là Thiên
Chúa “intimior intimo meo et superior summo
meo” (mật thiết hơn cả
chính con với con và vượt hẳn hơn chính con). Theo chiều hướng đó, J. Moltmann
cũng nói: “Như thế, Thánh Thần của Thiên Chúa gần
gũi với chúng ta hơn tất cả những gì mà chúng ta gần gũi với chính mình… Chúng
ta biết rất ít về Chúa Thánh Thần bởi vì Người quá gần với chúng ta, chứ không
phải là Người ở quá xa chúng ta”.[25]
Bên cạnh đó, chứng
từ của Chúa Thánh Thần không là chứng từ bên ngoài, mà là chứng từ nội tâm.
Bình an và lòng mến là hai dấu chỉ quan trọng nhất của chứng từ Thần Linh. Sự
thay đổi con người cụ thể của chúng ta trong cuộc sống thường ngày là kết quả
hoạt động của Chúa Thánh Thần bên trong. Thánh Thần được ví như Lửa, vì Ngài sưởi
ấm tâm hồn chúng ta, làm cho trái tim chúng ta bừng cháy lửa yêu mến Thiên
Chúa. Người soi sáng tâm trí chúng ta, xóa tan bóng tối do tội lỗi và ác thần.
Người thanh tẩy đền thờ, làm cho sạch mọi rác rưởi và nhơ bẩn của con người cũ;
Người trang hoàng và làm cho đền thờ xinh đẹp, xứng đáng một nơi thờ phượng
Thiên Chúa. Người như ngọn lửa toàn thiêu, lan rộng và đốt cháy mọi nơi mọi chỗ
trong con người ta. Nhờ Thánh Thần, chúng ta thiêu hủy, giết chết dục vọng của
xác thịt; hằng ngày chúng ta phải chiến thắng các mãnh lực của con người cũ và
chỉ có Chúa Thánh Thần mới bảo đảm chiến thắng trong từng ngày sống của chúng
ta. Ngoài bình an và lòng mến là hai dấu chỉ quan trọng bên trong thì ấn tích
cũng được quy gán cách đặc biệt cho Thần Khí. Bởi vì Thần Khí được gọi là “Đấng
xức dầu” và “ấn tín”, nên ấn tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh là những
hiệu quả đặc biệt phát sinh từ sức tác động của Thánh Thần, Đấng “đóng ấn tín”
lên các linh hồn qua một dạng cách hiện diện đặc thù. Có như thế thì khi tội
nhân đánh mất ơn thánh sủng, ấn tích kia vẫn giúp giữ được một mối liên hệ với
Thánh Thần, Đấng hằng ra sức thực hiện những tác động để cứu giúp tội nhân đó.[26]
Trong tác vụ
thánh hóa, Chúa Thánh Thần cũng làm cho ta lớn lên và trở thành chứng tá của
Chúa Kitô Phục Sinh: chúng ta dám chịu thử thách và bách hại khi bị những thế lực
vô thần chống đối Tin Mừng và tìm cách bêu xấu; chúng ta cũng có thể chịu chết
để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh của chúng ta trong thế giới hôm
nay.
c. Thần Khí làm cho chúng ta được
vinh hiển
Ngoài việc tái
sinh và thánh hoá chúng ta, Chúa Thánh Thần còn làm cho chúng ta được hưởng
vinh quang bất diệt. Kinh Thánh diễn tả hoạt động này của Chúa Thánh Thần bằng
nhiều thành ngữ khác nhau: chúng ta được niêm ấn bởi Thánh Thần (Ep 1,13-14;
2Cr 1,21-22); Chúa Thánh Thần phục sinh thân xác chúng ta và Chúa Thánh Thần
làm cho chúng ta được vinh hiển. Chúng ta được ghi dấu ấn bởi Thánh Thần. Ấn
tín là dấu hiệu bảo đảm được ghi khắc trên con người chúng ta, khiến Thiên Chúa
Cha nhận chúng ta làm con cái, đồng thừa tự với Đức Giêsu. Ấn tín ấy là Chúa
Thánh Thần trong tâm hồn chúng ta. Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống. Ngài
là Thần Khí tác sinh (Ga 6,63). Ngài làm cho các bộ xương khô được phục hồi sự
sống (Ed 37,1-14). Như Người đã Phục Sinh thân xác Đức Giêsu, Người sẽ phục
sinh thân xác chúng ta (Rm 8,11). Ngày Đức Kitô trở lại, Chúa Thánh Thần sẽ lôi
kéo chúng ta khỏi sự chết, phục sinh toàn diện con người chúng ta.
Thần khí vinh
hiển là một danh hiệu có thể đọc thấy trong thư thứ nhất của thánh Phêrô tông đồ:
“Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh
em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên
Chúa, ngự trên anh em”
(1Pr 4,14).
Như vậy Chúa
Thánh Thần làm cho chúng ta được vinh hiển. Người sẽ làm cho Đức Kitô được vinh
hiển và thông báo cho các môn đệ tất cả những gì thuộc về Đức Kitô: “Ngài sẽ làm Ta được vinh hiển, vì Ngài sẽ lấy của Ta, mà
thông báo cho các ngươi”
(Ga 16,14). Như đã làm cho Đức Kitô được Phục Sinh vinh hiển, Chúa Thánh Thần
cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại vinh quang. Trong Chúa Thánh Thần, con
người và thân xác chúng ta không còn nô lệ sự hư nát, nhưng sẽ sáng láng vinh
hiển, thông phần vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 15,42-45).
Nói tóm lại,
không có Chúa Thánh Thần, chúng ta chẳng làm được gì. Nhờ Chúa Thánh
Thần, cuộc đời của mỗi người Kitô hữu đồi thay đổi toàn diện. Những con người
ham lợi, sợ hãi, chậm hiểu, chậm tin đã trở thành những chứng nhân nhiệt thành,
tận tâm, vị tha, bất khuất. Thánh Thần làm người Kitô hữu hiểu mầu nhiệm Đức
Giêsu, nghĩa là hiểu giáo huấn, sự nghiệp, bản thân Đức Giêsu. Ngài giúp chúng
ta hiểu những điều Đức Giêsu đã dạy về Nước Thiên Chúa, về con đường trở nên
toàn thiện, về ý nghĩa thập giá và phục sinh của Ngài. Thánh Thần còn đến ngự
trong tâm hồn các Kitô hữu, nhờ đó tâm hồn được tràn đầy sự sống thần linh và
trở thành đền thánh của Thiên Chúa.
3. Thánh Thần – Điều luật mới cho người
Kitô hữu
Trong tác phẩm
“Các sách Ngôn sứ”, tác giả Nguyễn Ngọc Rao trình bày rằng:
Luật xưa đã
thành vô hiệu vì sự thất trung của Israel, nên không có sức hướng dẫn đời sống
tôn giáo của dân Thiên Chúa nữa. Nó có quá nhiều luật lệ và nghi thức bên
ngoài. Sự giữ luật cứ chữ và vụ nghi thức đã bóp nghẹt tinh thần, không khơi
lên được trong thâm tâm người tín hữu sự tận hiến sâu thẳm và chân tình. Hơn nữa
vì thiếu nguyên lý căn bản là ơn thánh, nên việc giữ luật như vậy là bất khả
thi ( Rm 7,7-8; 8,3). Vì thế, Giêrêmia nhân danh Đức Chúa loan báo một giáo ước
mới, một lề luật mới được ghi khắc vào trái tim con người thay vì giao ước cũ
khắc ghi trên đá...[27]
Tân ước hiểu luật
mới được khắc ghi vào trái tim người tín hữu đó chính là Thánh Thần. Quả vậy,
Thần Khí là nguồn mạch của đời sống Kitô giáo, Thần Khí là chuẩn mực hướng dẫn
đời sống Kitô hữu, bởi vì bản thân Ngài là lề luật Tân Ước.[28] Đây là luật “nội
tại”: Thánh Thần chính là nội tâm của Thiên Chúa đã được đổ tràn trong
tâm lòng của các tín hữu. Thánh Gioan Tông đồ gọi là “dầu từ Đức Kitô và dầu của
Đức Kitô”: “Phần anh em, dầu mà anh em lãnh nhận
từ Ðức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa. Nhưng vì dầu
của Người dạy dỗ anh em mọi sự” (1Ga 2,27). Còn thánh Phaolô thúc giục các tín hữu: “Nếu
chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25).[29] Quả vậy, Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống
lòng các tín hữu để Thánh Thần trở nên giới luật, trở nên tiêu chuẩn cho các
tín hữu:[30] Luật tự do và yêu thương.
a. Thánh Thần – Luật tự do
Nhờ Chúa Thánh
Thần, người Kitô hữu được tự do vì “ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17). Thật vậy, khi ban giới luật nội tâm bằng việc đổ
tràn Thánh Thần của Ngài trong tâm hồn tín hữu, Thiên Chúa mời gọi họ khám phá
ra chính mình trong sự tự do là con cái của Ngài thay vì làm nô lệ cho sự
yếu đuối của chính mình. Thánh Phaolô nhắc nhở: “thưa
anh em, anh em đã được gọi để được hưởng tự do” (Gl 5,13).
Sự tự do này ở
bên trong tâm hồn, nên không chỉ loại bỏ những bó buộc bên ngoài của luật cũ
chi phối (x. Rm 7,6), mà còn có sức giải thoát con người khỏi những vướng mắc của
tội lỗi. Tự do trong Thánh Thần không phải muốn làm gì thì làm, nhưng phải
làm theo điều Thiên Chúa muốn, đó là điều Kinh Thánh luôn khẳng định. Tự do
trong Thần Khí giúp con người luôn hướng về Thiên Chúa với một ý chí tự do được
giải thoát khỏi áp lực bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng tự do nếu không có ân sủng
thì cũng chỉ là một thứ tự do để thỏa mãn nhu cầu xác thịt và dục vọng. Đó là một
thứ tự do trói buộc, một thứ tự do dẫn đến cái chết. Trong tác phẩm “Hiểu và sống
mầu nhiệm Thánh Thần Thiên Chúa, tác giả F.X. Durrwell giải thích sự tự do này
như sau:
Ai “bước đi
theo Thần Khí”, Đấng tràn đầy trong tâm lòng họ, chẳng qua là vâng phục một quy
luật của chính trái tim họ. Vẫn biết người ấy làm theo một ý “Người Khác”, theo
thánh ý Thiên Chúa, nhưng “Người Khác” ấy lại ở trong thâm tâm họ, vì Chính là
nỗi khát vọng của con người. Tựu trung là họ làm điều mình thích. Vì luật nội tại
ấy là sức mạnh, nó giải thoát người Kitô hữu khỏi những lực lượng thù địch và
khỏi sự yếu đuối của chính mình trong đó họ bị tù hãm. Không ai tự do cho bằng
người mà tất cả bổn phận quy về có một việc: làm theo lòng mình ao ước và có đủ
sức để làm.[31] Khi lề luật đồng nhất với Thánh Thần, mà Thánh Thần vốn là tự
do thì việc suy phục lề luật và sự tự do cũng như nhau.[32]
Để hiểu được sự
cao quý của luật tự do, ta có thể so sánh hai góc độ khác nhau của hai Giao ước,
hai Điều luật.[33]
- Đối với người
Do Thái của giao ước cũ, tự do gắn liền với Lề Luật: Tự do là nhờ Lề Luật. Điều
này được một thầy rabbi Dothái giải thích khi ông giới thiệu tự do của dân liên
quan đến lễ Vượt Qua: “Sự việc giống
như một nhà vua kia giải thoát người con mình khỏi ngục tù, rồi nói với nó: Kể
từ hôm nay, hằng năm con hãy cử hành một ngày lễ; ngày đó là ngày con ta từ vực
sâu tối tăm được dẫn đến sự sáng; từ xiềng xích gông cùm được dẫn đến sự sống;
từ kiếp nô lệ đến đời sống tự do; từ cuộc sống bị áp bức đến ơn cứu độ”.
Cũng vậy, Thiên
Chúa đã giải thoát dân Israel khỏi tù ngục, khỏi cảnh nô lệ để cho họ được tự
do: “Hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh
phúc” (Tv 68,7), “Người ra tay cứu họ thoát ngàn nỗi gian truân: đưa
ra khỏi cảnh tối tăm mù mịt và đập tan xiềng xích gông cùm” (Tv 107,14). Họ được tự do vì họ được làm con của Thiên Chúa và
được sống dưới Lề Luật của Thiên Chúa thay vì sống dưới ách gông cùm: “Anh
em là những người con của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 14,1) và “Ông
Mô-sê lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Ðức
Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân
theo” (Xh 24,8). Như vậy,
dân của Giao ước cũ cũng ý thức họ là con của Thiên Chúa, được Thiên Chúa cho
hưởng sự tự do dựa vào việc tuân giữ luật.
- Trong khi đó,
đối với người được lãnh nhận Thần Khí, lãnh nhận Đức Giêsu Kitô trong tâm hồn
mình, thánh Phaolô quả quyết: người đó sống trong Giao ước mới thực hiện trong
Máu Đức Giêsu Kitô: “Giờ đây, anh em thuộc về một người khác, tức là thuộc về
Ðấng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết” (Rm 7,4).
Bởi thế, họ là
Con cái của Thiên Chúa vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa nhờ lãnh nhận và được tái
sinh bởi Thần Khí của Đức Kitô. Từ đó, họ được đồng thừa tự với Đức Kitô (x. Rm
8,15; Gl 4,4-7) và được tự do. Tự do này không chỉ hệ tại đối với Lề Luật từ
bên ngoài“nhưng nay, chúng ta không còn bị Lề
Luật ràng buộc nữa” (Rm 7,6), mà còn được tha thứ khỏi mọi tội
lỗi. Vì thế, thay vì ban Lề Luật, Thiên Chúa đã đổ Thần Khí của Người vào tâm
khảm họ, cụ thể trong thư Rôma đã nói “Luật của Thần Khí ban sự sống trong Ðức Kitô Giêsu, đã giải
thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết” (Rm 8,2).
Vậy, nhờ Thánh
Thần tác sinh, người tín hữu được hưởng tự do của con cái Thiên Chúa thì hãy để
cho Thánh Thần hướng dẫn mà sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa (x. 1Tx 4,1).[34]
Sống đẹp lòng
Thiên Chúa là sống yêu thương. Cho nên, luật tự do không tách rời với luật yêu
thương.[35]
b. Thánh Thần – Luật yêu thương
Thánh Augustinô
gọi Thánh Thần là “Đấng Yêu Thương, Đấng được yêu thương và Tình Yêu”.[36] Tân
Ước thường xuyên nối kết, thậm chí đồng nhất hai từ ngữ Thánh
Thần và Tình
yêu,[37] mặc dù đây
không phải là gia tài của Cựu Ước. Tương quan này, tuy không hiển nhiên trong
nhiều nhiều đoạn Kinh Thánh, nhưng chắc chắn có, vì phát xuất từ kinh nghiệm của
đời sống Kitô giáo.[38]
Đoạn minh nhiên
hơn cả là trong thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma: “Thiên
Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban
cho chúng ta” (Rm 5,5). Tuôn
đổ là một thuật ngữ của Kinh Thánh thường
được dùng để chỉ ân sủng hay Thánh Thần được ban cho các tín hữu một cách tràn
trề. Nhờ Thánh Thần Thiên Chúa cũng là tình yêu của Thiên Chúa được ban cho các
tín hữu làm cho họ “sẽ không phải thất vọng” (Rm 5,5). Sự hiện diện của Thánh
Thần bảo đảm ơn cứu độ, mà hiện sủng chỉ là khai ân.[39]
Nhiều đoạn
khác, tuy không minh nhiên bằng, nhưng cũng cho thấy rằng Tình
Yêu là một sắc thái đặc biệt của Ngôi Vị Thánh Thần. Tín hữu Côlôxê được thánh Phaolô khen ngợi vì lòng mến của họ
trong Thánh Thần (x. Cl 1,8). Gần như có một sự tương đương gần như đồng nghĩa
giữa hai thành ngữ “trong Thánh Thần” và “trong Lòng Mến”. Các tín hữu sống
trong Thánh Thần và trong Lòng Mến (Rm 8,4.14 và Ep 5,2; Rm 15,16 và Ep
1,4).[40]
“Thánh Thần là một mãnh lực di chuyển hoạt bát trong tâm
can các tín hữu (Rm 5,5; 2Cr 1,22), tận
ở tâm điểm sâu thẳm mà con người được thai nghén cho tình yêu”.[41] Tất cả những gì thuộc lĩnh vực đức
ái là do Thánh Thần. Thánh Thần không chỉ đối lập với xác thịt (Gl 5,17) như sức
mạnh đối ngược với yếu đuối, mà còn là Tình Yêu, là sự cởi mở vô hạn đối với sự
ích kỷ và “hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận,
tranh chấp, chia rẽ, bè phái”(Gl 5,17-23). Cho nên người tín hữu sống trong Thánh Thần là sống
nhờ và sống “vì tình yêu của Thánh Thần” (Rm 15,30). Giáo hội kinh nghiệm mạnh
mẽ rằng Đức Kitô đã biến lửa đỏ Thánh Thần thành hình ảnh tình yêu sôi bỏng,
nên Giáo hội khẩn cầu Thánh Thần: “Xin Ngài đổ trên tâm can các tín hữu của
Ngài, xin thắp lửa tình yêu Ngai trong họ”.[42]
Như vậy, “Agapê” là danh từ nòng cốt của nền luân lý Kitô
giáo. Lòng mến là dấu tích của Thánh Thần trong các tâm hồn tín hữu, và cũng
như Thánh Thần, lòng mến chứa đựng trọn cả lề luật: “Vì
tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Hãy yêu mến…”(Gl 5,14; x. Rm 13,9). Lòng mến đúc kết
tất cả sự trọn lành, vì nó là dấu ấn của Thánh Thần trong các tâm hồn. Điều này
khiến cho Đức mến trở thành nguồn mạch mọi nhân đức: “Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,7).
Luật yêu thương
đồng thời cũng chính là “hạnh phúc. Tự nó đã là phần thưởng: ai yêu thương, người
ấy không đòi hỏi gì hơn là cứ được yêu thương. Người Do Thái ví lề luật Môi sê
với cái ách; Đức Giêsu tuyên bố ách của Ngài êm ái, gánh của Ngài nhẹ nhàng (Mt
11,29). Sức nặng của nề luật gọi là tình yêu, ôm mang lấy người Kitô hữu khi họ
ôm mang lấy nó.[43]
4. Thánh Thần - mối dây hiệp nhất[44]
Công đồng
Vaticanô II định rằng: “Thần Khí là nguyên lý hiệp thông”.[45] Điều này được Sách GLHTCG, số 738 giải thích: “Tất
cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, chúng ta hiệp
nhất với nhau và với Thiên Chúa” (x. Rm 5,5).
a. Thánh Thần nối kết các Kitô hữu với
Thiên Chúa[46]
Trong chương 8
thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô nhắc đến sự thật của đời sống tâm linh là
sau khi được rửa tội, người Kitô hữu không những được rửa trong Thánh Thần mà
còn được Thánh Thần hiện diện trong người ấy ( Rm 8,11) để gắn kết người ấy với
Đức Kitô và làm cho họ thuộc về Đức Kitô, vì “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức
Kitô” (Rm 8,9).
Thật vật, chính
Chúa Thánh Thần làm cho các Kitô hữu hướng về Chúa Kitô, hiểu biết cuộc đời,
giáo huấn và mầu nhiệm Chúa Kitô cách sâu xa. Chúa Thánh Thần dẫn đưa các Kitô
hữu vào mối thân tình với Chúa Kitô bằng cách giúp họ lắng nghe, tin tưởng và
muốn làm đẹp lòng Chúa Kitô và trở nên một với Chúa Kitô. Sự hiệp thông nên một
này đã được Chúa Kitô nói đến bằng hình ảnh sống động: “Thầy
là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho… Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở
lại trong anh em” (Ga 15,1-4). Những lời giản dị đó hé mở
tính cách huyền nhiệm của sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu và các môn đệ - những
người được thanh tẩy - một sự hiệp thông tích cực và đem lại sự sống mà qua đó
các Kitô hữu không còn thuộc về cá nhân mình nữa nhưng thuộc về chính Chúa,[47]
như cành nho là một với cây nho mà sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo mô tả là
“nên một Thân Thể”, trong đó“Chúa
Thánh Thần như là nhựa sống cho cây nho của Chúa Cha, sinh hoa kể quả nơi các
ngành nho”.[48] Hiệp
thông nên một với Đức Kitô đến nỗi nói như thánh Tông Đồ: “Tôi
sống, nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).Nếu nhờ Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu được gắn kết
nên một với Đức Kitô thì cũng nhờ Chúa Thánh Thần, họ được chia sẻ sự sống, gia
nghiệp và vinh quang với Ngài, điều mà thánh Phaolô gọi là “được đồng thừa kế với Đức Kitô”. Đức Kitô là Con Thiên Chúa nên người
tín hữu cũng được nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa.
Quả vậy, phàm
ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa… Thần Khí làm
cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi!” Chính Thần
Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy
đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng
thừa kế với Ðức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng
được hưởng vinh quang với Người (Rm 8,14-17).
Như vậy, chính
trong Đức Kitô, nhờ ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần, mà người Kitô hữu được
hiệp thông với Chúa Cha,[49] và tham dự vào sự hiệp thông của Ba Ngôi.[50]
Thánh Athanasiô viết: “Phần chúng
tôi, nếu không có Thần Khí, chúng tôi trở nên xa lạ với Thiên Chúa và sống xa
cách Người; trái lại, nếu chúng tôi dự phần vào Thần Khí, chúng tôi kết hợp với
Thiên Chúa” (Diễn
từ chống bè phái Ariô, III,24; Thư gửi Sarapion, I,14).[51]
Từ sự hiệp
thông giữa các Kitô hữu với Thiên Chúa lập tức tạo ra sự hiệp thông mà họ sống
với nhau như “anh em”.[52] Sự nên một của các Kitô hữu là sự phản ánh và tham dự
kỳ diệu vào đời sống yêu thương thắm thiết của Thiên Chúa Ba Ngôi, hay nói cách
khác sự hiệp nhất của Chúa Con với Chúa Cha trong ân sủng Chúa Thánh Thần là mẫu
mực và là nguồn mạch hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau trong Giáo hội.
Thánh Cyprianô nói rằng: “Giáo hội là một dân được hiệp nhất lại nhờ sự hiệp nhất của
Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần” (Kinh
Lạy Cha, 23; x. LG 4).
Trong đời sống thâm sâu và vĩnh cửu của Thiên Chúa Ba Ngôi, Thần Khí là mối
giây hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con, thì cũng vậy, trong Giáo hội, Thần
Khí là hồng ân khôn tả của Chúa Cha, hiệp nhất mọi người đã được thanh tẩy
thành một thân thể duy nhất.[53]
b. Hiệp nhất giữa các Kitô hữu trong
Giáo hội: Một thân thể với nhiều chi thể[54]
Trước khi tự hiến
làm lễ vật tinh tuyền trên thánh giá, Đức Giêsu đã cầu xin cùng Chúa Cha cho
các tín hữu: Xin cho “tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở
trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai
con” (Ga 17,21). Công đồng Vaticanô II cho rằng:
sự hiệp nhất này chỉ có thể được thực hiện trong Chúa Thánh Thần. Thánh
Thần là Thần Khí của Đức Kitô, “Đấng đến hoàn tất công trình của Đức Kitô và
xây dựng thân mình của Đức Kitô. Chính vì thế, Thánh Thần không ngừng được gọi
là nguyên lý sự sống của thân thể tức là Giáo hội”.[55]
Thật vậy, khi
lãnh nhận Phép rửa, các tín hữu trở thành các phần tử trong Giáo hội. Giáo hội
là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Cho nên, tuy có “nhiều thành phần” nhưng
các thành phần lại trong “một thân mình duy nhất”.[56] Công việc hiệp nhất này
là của Chúa Thánh Thần.
Trước hết, “Nhờ
Thánh Thần, Đức Giêsu đã kêu gọi và đoàn tụ dân của Giao Ước Mới, tức là Giáo Hội
trong cùng một đức tin, đức cậy và đức mến như Thánh Tông Ðồ dạy: ‘Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được
ơn để chia sẽ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa’ (Ep 4,4-5)”.[57] Cho nên, “bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Ðức Kitô, đều
mặc lấy Ðức Kitô… tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô” (Gl 3,27-28).
Kế đến, Chúa
Thánh Thần hiệp nhất họ trong một “tinh thần”. Điều này được thánh Cyrilô
d’Alexandria quả quyết khi ngài suy nhiệm và chú giải Tin mừng Gioan:
Vì tất cả chúng
ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất, tức là Thánh Thần, nên có thể nói tất
cả chúng ta được hòa trộn với nhau và với Thiên Chúa. Quả thực, dù chúng ta là
nhiều và sống tách biệt, dù Chúa Kitô làm cho Thần Khí của Chúa Cha và của
riêng Ngài cư ngụ nơi mỗi người chúng ta, Thần Khí đó vẫn chỉ là một và bất khả
phân. Như thế bởi chính mình, Ngài quy tụ tinh thần của mỗi người vào mối hiệp
nhất và làm cho họ nên một thực thể duy nhất trong Ngài… Thần Khí duy nhất và bất
khả phân của Thiên Chúa ngự trong tất cả mọi người, hướng dẫn mọi người đến chỗ
hiệp nhất thiêng liêng.[58]
Hiến chế Lumen Gentium (số 4) nói rõ thêm rằng:
Chính Thánh Thần
hợp nhất thân thể bằng thần lực Ngài và bằng sự liên kết tinh thần các chi thể
lại với nhau; như thế Ngài làm phát sinh và thúc bách đức ái giữa các tín hữu.
Vì thế, nếu một chi thể nào đau đớn thì tất cả các chi thể khác đều bị đau đớn;
và nếu một chi thể nào được vinh dự thì tất cả các chi thể khác cùng chung vui
(x. 1Cr 12,26).[59]
Và, Chúa Thánh
Thần làm nên sự hiệp nhất trong việc xây dựng một thân thể duy nhất. Chúa Thánh
Thần ban ân sủng cho các tín hữu trong những khả năng, phận vụ khác nhau để họ
hướng về, xây dựng và làm triển nở Giáo hội.[60] Thánh Phaolô viết: “Chúng
ta được rửa tội trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1Cr 12,13) và tuy “Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều
chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên
Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người” (1Cr 12,3).
Điều này đã được
Công đồng Vaticanô II khẳng định lại cách rõ ràng. Sắc lệnh Hiệp Nhất viết rằng:
“Chúa Thánh Thần ngự trong lòng các tín hữu, đổ đầy ơn và cai trị Giáo Hội,
Ngài thực hiện sự thông hiệp kỳ diệu ấy nơi các tín hữu, và liên kết tất cả
trong Chúa Kitô cách mật thiết đến nỗi Ngài chính là Nguyên Lý Hiệp Nhất Giáo Hội.
Ngài phân phát các ân sủng và phận vụ để nhờ có nhiều chức vụ khác nhau mà Giáo
Hội Chúa Kitô nên phong phú. ‘Nhờ đó, các thánh được chuẩn bị để làm công việc
phục vụ, là xây dựng thân thể Ðức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự
hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng
con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của đức Kitô’ (Ep 4,12-13)”.[61]
Và Hiến chế Lumen Gentium khẳng định: Thật vậy, tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ tạo
thành một thân thể; cũng thế, các tín hữu hợp thành một thân thể trong Chúa
Kitô (1Cr 12,12). Trong việc xây dựng thân thể Chúa Kitô, cần có nhiều chi thể
với phận vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh Thần ban những ân sủng khác nhau để
làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Ngài và tùy nhu cầu của công việc
(1Cr 12,1-11). Trong các ân sủng ấy, ơn ban cho các Tông Ðồ đứng hàng đầu:
chính Chúa Thánh Thần đặt dưới quyền các ngài cả những người lãnh nhận những ơn
đặc biệt (x. 1Cr 14).[62]
Như vậy, sự hiệp
thông trong Giáo hội là một đặc ân, một đặc ân vĩ đại của Chúa Thánh Thần nên
các tín hữu cần biết ơn, và đồng thời sống theo với ý thức trách nhiệm sâu sắc.
Điều này được thể hiện cách vững chắc qua sự tham dự của các tín hữu vào đời sống
và sứ mạng của Giáo hội.[63]
Tuy nhiên, ta
nói rằng “Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất” không có nghĩa đó là một sự co cụm,
đóng khung, mà là một sự mở ra. Chúa Giêsu khẳng định: Thánh Thần cũng như gió,
muốn thổi đâu thì thổi. Cho nên, ở đây ta hiểu rằng Chúa Thánh Thần đến để đem
muôn người tản mác về một mối dù họ là “Do
thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà”(Gl 3,28), hay nói cách khác Ngài đến để
hướng dẫn và thúc đẩy việc loan báo Tin Mừng cho mọi người.
c. Hướng dẫn và thúc đẩy việc truyền
giáo
Trong Sắc
lệnh về Hoạt động Truyền giáo, Công đồng Vaticanô II nói rằng: “Thiên Chúa muốn mời gọi mọi
người tham dự vào sự sống của Ngài, không những chỉ từng cá nhân không liên lạc
gì với nhau, mà Ngài còn liên kết họ thành một dân duy nhất, trong đó đoàn tụ mọi
con cái đã tản mác khắp nơi... Ý định của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi toàn thể nhân
loại…”[64] Bởi vậy, các tác giả Tin Mừng đều ghi lại lệnh truyền của Chúa Kitô
Phục Sinh cho các môn đệ của Người, đó là “Lệnh truyền giáo”: “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ…, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh
em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20; x. Mc 16,15-18; Lc 24,46-49; Ga 20,21-23). Thánh
Gioan còn ghi rõ hơn: “Nói xong, Người
thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Như vậy việc truyền giáo gắn
liền với Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính yếu cho toàn thể sứ
vụ truyền giáo của Giáo Hội nói chung và các Kitô hữu nói riêng.
Cũng trong Sắc
lệnh về Hoạt động Truyền Giáo, Công đồng Vaticanô II nói tiếp:
Ðể hoàn thành
việc đó, Chúa Kitô đã sai Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha đến để Ngài thực hiện
công trình cứu chuộc trong các tâm hồn và thúc đẩy Giáo Hội bành trướng thêm
mãi. Dĩ nhiên là Chúa Thánh Thần đã hành động nơi trần gian trước khi Chúa Kitô
được vinh hiển, nhưng trong ngày Hiện Xuống, Ngài đã ngự xuống trên các Tông Ðồ
để ở lại với họ muôn đời (x. Ga 14,16): Giáo Hội công khai ra mắt dân chúng,
Phúc Âm bắt đầu được phổ biến giữa muôn dân nhờ lời giảng dạy, và sau hết tiên
báo sự hợp nhất các dân tộc trong tính cách công giáo của đức tin, nhờ Giáo Hội
Tân Ước (x. Cl 1,13; Cv 10,38) nói mọi thứ tiếng, thấu hiểu và bao gồm mọi ngôn
ngữ trong tình bác ái, và như thế đã thắng vượt sự phân tán do tháp Babel…
Chính Chúa Giêsu trước khi hiến mạng sống mình cho thế gian một cách tự do, đã
xếp đặt chức vụ Tông Ðồ và hứa sai Chúa Thánh Thần đến hầu chức vụ và việc sai
ban Chúa Thánh Thần liên kết với nhau, để công trình cứu chuộc luôn luôn đem lại
kết quả khắp nơi. Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần… đổ dần vào lòng các tín hữu
cũng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Kitô. Ðôi khi Chúa Thánh
Thần lại chuẩn bị một cách hữu hình cho hành động truyền giáo, cũng như không
ngừng dùng những phương thế khác nhau để theo sát và hướng dẫn vậy.[65]
Trong Thông
điệp Redemptoris Missio,
Đức Gioan Phaolô II nhắc lại: Chúa Thánh Thần ban cho người tông đồ tinh thần
tông đồ truyền giáo của Chúa Giêsu để sai đi rao giảng Tin Mừng và làm chứng
cho Chúa Giêsu. Đồng thời, Chúa Thánh Thần cũng đồng hành với người tông đồ để
nhắc nhở và gợi ý cho người tông đồ những điều phải làm và phải nói.[66]
Với ánh sáng và
sức mạnh của Chúa Thánh Thần, lời rao giảng của người tông đồ truyền giáo sẽ
không còn là một lý thuyết trừu tượng, nhưng là loan tryền một kinh nghiệm sống,
có sức đánh động tâm khảm của người thành tâm thiện chí:
Điều chúng tôi
đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và
tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống... Chúng tôi đã thấy và chúng tôi
làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng
về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi… Ðiều chúng tôi đã thấy và đã
nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp
thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Ðức Giêsu
Kitô, Con của Người (1Ga 1,1-3).
Bên cạnh đó,
Chúa Thánh Thần cũng tác động trong tâm hồn người nghe để họ có thể hiểu và đón
nhận Tin Mừng ơn Cứu Độ.[67]
Như vậy, bản chất
của Giáo hội cũng như của các tín hữu là truyền giáo, vì truyền giáo là Thánh Ý
của Chúa Cha, là lệnh truyền của Chúa Con và là sự thúc đẩy bằng ân sủng và
tình thương của Chúa Thánh Thần.[68] Qua truyền giáo, sự hiệp nhất được nên trọn
vẹn.
III. NHẬN BIẾT VÀ ĐÁP LẠI LỜI GỌI MỜI
TỪ CHÚA THÁNH THẦN
1. Một vài dấu hiệu để nhận biết
Thánh Thần
Thánh Thần -
hay Thần Khí của Thiên Chúa - là một thực tại vô hình, không ai thấy được bằng
đôi mắt xác thịt và cũng không ai nghe được bằng đôi tai xác thịt. Sách GLHTCG
số 687 nói rằng:
Thánh Thần mạc
khải cho con người biết Thiên Chúa, biết Ðức Kitô là Ngôi Lời hằng sống, nhưng
Thánh Thần lại không nói về mình. Thánh Thần đã "dùng các ngôn sứ mà phán
dạy", để giúp chúng ta nghe được lời của Chúa Cha. Nhưng còn chính Người,
chúng ta lại không nghe tiếng Người, chúng ta chỉ nhận biết Người qua việc Người
mạc khải và chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận Ngôi Lời bằng đức tin. Thánh Thần
Chân Lý “vén màn cho ta thấy” Ðức Kitô, nhưng “không nói điều gì về mình” (Ga
16,13). Một kiểu xóa mình như vậy, đúng là phong cách của Thiên Chúa, giải
thích tại sao, “thế gian không thể đón nhận Người, vì thế gian không thấy và
không biết Người”, còn những ai tin vào Ðức Kitô thì biết Người vì Người ở lại
với họ (Ga 14, 17).[69]
Như vậy, chúng ta chỉ nhận biết Người qua việc
Người mạc khải và qua những biểu hiện cụ thể của Người mà thôi. Cụ thể không có
nghĩa là căn cứ vào các hoạt động bên ngoài, để nhận định sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần. Vì thực tế, một việc bên ngoài có thể được xem là tốt lành, nhưng
được sai khiến bởi những động lực tầm thường. Tiêu chuẩn để nhận ra có sự hiện
diện và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần dựa trên những cảm nghiệm nội tâm. Khi
người Kitô hữu thấy mình được thúc đẩy làm một điều gì tốt, như yêu thương và
hy sinh cho người khác, tha thứ những lầm lỗi cho họ, hay khi người tín hữu cảm
thấy muốn cầu nguyện với Thiên Chúa… thì biết ngay và biết chắc chắn rằng Thánh
Thần đang hoạt động trong họ, thúc đẩy họ làm những việc ấy. Vì không có một việc
gì tốt đẹp khởi lên trong lòng người tín hữu mà không phải do Thánh Thần: “Không ai biết được những gì thuộc về Thiên Chúa, nếu không
phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1Cr 2,11b); “Tất
cả những điều ấy, cũng một Thần Khí duy nhất làm ra và phân chia cho mỗi người,
như ý Thần Khí muốn”
(1Cr 12,11); “Hoa quả của Thần Khí là : bác ái,
hoan lạc, bình an, kiên nhẫn,, nhân hậu, hảo tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23a).[70]
Ngay từ thời
các tông đồ, những biểu lộ của Thánh Thần đã cần được làm sáng tỏ. Vì thế,
thánh Phaolô đã giúp cho tín hữu phân định những lẫn lộn bằng cách đưa ra một
tiêu chuẩn Kitô học:[71] đó là phủ nhận quyền làm Chúa của Đức Giêsu hay nhìn
nhận quyền này là một dấu hiệu chắc chắn cho biết ở đó có Thánh Thần hay không
có Thánh Thần. Ngài nói: “Vì thế, tôi
nói cho anh em biết: chẳng có ai phát ngôn nhờ sức Thần Khí Thiên Chúa mà lại
nói : “Giê-su là đồ khốn kiếp!” ; cũng không ai có thể nói rằng : “Đức Giê-su
là Chúa”, nếu người ấy không nhờ sức Thánh Thần”.(1Cr 12,3). Cùng với tiêu chuẩn đó,
thánh Gioan tông đồ khuyên nhủ rằng:
Anh em yêu quý,
đừng bạ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy nhận định các thần khí xem thần khí
nào bởi Thiên Chúa, vì có nhiều ngôn sứ giả đã xuất hiện trong thế gian. Căn cứ
vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa : thần khí nào tuyên xưng
Đức Giêsu Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên
Chúa ; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa ;
đó là thần khí của tên Phản Ki-tô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới và hiện
nay nó ở trong thế gian rồi”. (1Ga 4,1-3).
Vì là sự hiệp
thông sống động trong đức tin các Tông Đồ do Hội Thánh lưu truyền, nên người
tín hữu nhận biết Thánh Thần nhờ và trong Hội Thánh. Sách GLHTCG số 688 đưa ra
những yếu tố mà người tín hữu có thể nhận biết Thánh Thần nhờ và trong Hội
Thánh:[72]
- trong Thánh
Kinh được Người linh hứng;
- trong Thánh
Truyền, mà các giáo phụ là những chứng nhân cho mọi thời đại.
- trong Huấn
Quyền được Người trợ lực
- trong Phụng Vụ
Bí Tích mà qua các lời nói và biểu tượng, Thánh Thần giúp chúng ta hiệp thông với
Ðức Ki-tô.
- trong kinh
nguyện, lúc Người chuyển cầu cho chúng ta.
- trong các đặc
sủng và thừa tác vụ xây dựng Hội Thánh.
- trong các dấu
chỉ của đời sống tông đồ và thừa sai.
Một cách cụ thể
để nói về các dấu hiệu nhận biết Thánh Thần, dựa trên những cơ sở trên, ta có
thể trình bày một vài điểm sau đây:
a. Hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa
Thần Khí của
Thiên Chúa làm việc của Người cách nhẹ nhàng nơi các tâm hồn lành thánh. Người
đi vào cách bình an, êm ái. Người soi sáng cho người tín hữu có những tư tưởng,
những tâm tình đạo đức, thậm chí nâng đỡ họ lên tới một sự chiêm niệm sâu thẳm
với Thiên Chúa, đồng thời, Người cũng ban cho họ sức mạnh và lòng can đảm để vượt
qua những khó khăn, nhờ đó họ mạnh mẽ để tự chiến thắng bản thân và làm vinh
danh Thiên Chúa.
Trái lại, Người
đối xử cứng rắn với những tâm hồn có tội và ngoan cố. Người thúc đẩy họ bằng việc
“cắn rứt” lương tâm, không cảm thấy bình an trong những vinh quang trần gian và
trong những hào nhoáng do của cải giàu sang, để khi họ đã kinh nghiệm được rồi,
họ quay trở vào với chính nội của mình.
Đặc điểm riêng
của Thần Khí Thiên Chúa là đi vào trong các linh hồn tín hữu và biến đổi họ
cách trọn vẹn.[73]
b. Dấu hiệu hoạt động của Thần Khí
Thiên Chúa
Bằng các
hoạt động của Thánh Thần (“Thánh Thần sẽ
ngự xuống”: Lc 1,35),
Thiên Chúa tạo nên những cuộc tiếp xúc với con người, hoặc bằng những cuộc hiện
ra bên ngoài hay bằng một thị kiến bên trong, hoặc những mạc khải, thì Ngài đưa
sự sợ hãi thâm nhập vào linh hồn con người ngay từ đầu. Nhưng nỗi sợ hãi này sẽ
nhường chỗ cho bình an, niềm vui và sự an ủi thiêng liêng. Bởi vì chính Thánh
Thần soi sáng, trấn an tâm hồn và làm cho tâm hồn họ chan hòa những niềm an ủi
ngọt ngào, như trường hợp của Áp-ra-ham (St 15,12), Đức Ma-ri-a (x. Lc 1,30)…
c. Phân định khuynh hướng và động cơ
- Nhìn nhận những khuynh hướng
Chúng ta cần nhận
thức rằng khuynh hướng thúc đẩy ước muốn yêu mến, phục vụ thường đưa đến cảm
nghiệm bình an, nhưng tiêu chuẩn đáng tin cậy nhất để nhận ra sự hiện diện của
Thần Khí Thiên Chúa không phải chỉ là cảm nghiệm bình an hay cảm giác được an ủi.
Trước hết chúng
ta phải nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong chúng ta ngay khi
chúng ta ước muốn yêu mến, phục vụ mà không chỉ cảm thấy được cảm giác vui
thích, hay yên ủi. Chúa Thánh Thần có thể biến đổi lòng muốn của chúng ta,
nhưng không luôn luôn cùng lúc biến đổi cảm giác của ta. Riêng những lúc chúng
ta cảm thấy niềm an ủi cùng xảy đến với lòng ước muốn yêu mến, phục vụ Thiên
Chúa và tha nhân, thì lúc đó chúng ta có thể tin nhận là Chúa Thánh Thần đang
biến đổi cảm giác của chúng ta trong cảm nghiệm nội tâm của mình. Chúng ta biết
rằng trạng thái cảm giác của chúng ta thay đổi hàng ngày hàng giờ. Do đó, việc
cảm thấy thiếu vắng những vui thú hay an ủi ngọt ngào không thể dùng làm tiêu
chuẩn xác định không có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Khi chúng ta thực tâm
ước muốn yêu mến phục vụ Thiên Chúa và tha nhân ngay cả trong những khi chúng
ta cảm thấy chán chường, đó là lúc chúng ta đáp lại sự soi sáng của Thần
Khí ở mức độ sâu thẳm nhất.[74]
Cảm nghiệm bình
an không phải là tiêu chuẩn tốt nhất để giúp nhận ra sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần. Bình an đích thực[75] ở đây phải là sự bình an thâm tín cách chắc
chắc rằng tất cả mọi sự đều đúng và phải lẽ giữa bản thân với Thiên Chúa và tha
nhân có chết cũng chẳng sợ hoặc chẳng hối tiếc gì. Khi có sự bình an như thế,
chúng ta có thể nói được rằng Chúa Thánh Thần không những chỉ biến đổi lòng ước
muốn của chúng ta mà còn biến đổi cả những khía cạnh khác của lý trí chúng ta nữa.
Tuy nhiên có những
lúc cảm thấy Thiên Chúa dường như quá xa cách, và lòng chúng ta cảm thấy thật
trống vắng không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Những lúc đó, không những
chúng ta cảm thấy không được an ủi hoặc không có sự hiện diện của Thiên Chúa mà
chúng ta còn cảm thấy dường như Thiên Chúa bỏ chúng ta. Những lúc như thế,
chúng ta nhớ rằng bao lâu lòng ước muốn phục vụ Thiên Chúa và tha nhân còn đó
thì bấy lâu chúng ta còn ở trong vòng ảnh hưởng của Thiên Chúa. Bởi vì chúng ta
phải tin nhận rằng tự sức riêng mình, chúng ta không thể có lòng ước muốn đó được.
Do đó chúng ta có thể kết luận rằng có được lòng ước ao yêu mến phục vụ Thiên
Chúa và tha nhân là dấu chỉ của sự hiện diện của Thần Khí nơi chúng ta.
Lý do đặt tiêu
chuẩn cho việc nhận ra sự hiện diện của Thần Khí được nói chung với việc yêu mến
phục vụ Thiên Chúa và tha nhân là vì mọi tình yêu đến từ Thiên Chúa. Do đó Chúa
Thánh Thần có thể được nhận ra trong tình yêu tha nhân cũng như trong tình yêu
Thiên Chúa. Đức Giêsu đã xác nhận chân lý này khi Người dạy về hai điều
răn quan trọng nhất: điều răn thứ hai là yêu mến tha nhân cũng quan trọng như
điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa (Lc 10,25-28). Đồng thời chúng ta cũng
phải nhận ra rằng yêu mến tha nhân cũng đến từ yêu mến Thiên Chúa.[76]
- Chúa Thánh Thần trong các sinh hoạt
hàng ngày
Nhiều người
quan niệm sự hiện diện của Thần Khí chỉ ở trong một số sinh hoạt có tính cách
thiêng liêng. Nhưng Thần Khí hiện diện trong cuộc sống hằng ngày nhiều hơn người
ta nghĩ. Để có được cảm nghiệm sâu xa hơn về sự hiện diện của Thần Khí trong đời
sống, thiết tưởng người Kitô hữu nên duyệt qua lịch trình các hoạt động hàng
ngày xem những sinh hoạt nào được thực hiện bởi lòng ước muốn yêu mến phục vụ
Thiên Chúa và tha nhân, những hoạt động nào không được thực hiện theo lòng ước
muốn đó. Làm điều này là vì người tín hữu muốn nhận ra sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần trong đời sống hằng ngày hầu giúp họ biết ngợi khen cảm tạ Thiên
Chúa vì những hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi mình.[77]
- Tổ chức đời sống
Qua việc ôn duyệt
chương trình sinh hoạt hằng ngày, người tín hữu có thể có được cảm nghiệm về sự
hiện diện hay vắng bóng của Chúa Thánh Thần trong đời sống. Tuy nhiên, để đáp lại
lời mời gọi của Chúa Thánh Thần cách trọn vẹn đòi phải có hai điều kiện:
+ Điều kiện thứ
nhất là người tín hữu phải tổ chức một đời sống hòa hợp với Thiên Chúa. Đời sống
này không những đòi buộc họ phải chu toàn các việc làm và bổn phận của mình, mà
còn đòi hỏi họ phải sống và chu toàn bổn phận ấy trong một lối sống phản ánh sự
hiện diện của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành bổn phận.
+ Điều kiện thứ
hai là biết can đảm nhìn nhận những khuynh hướng xấu nơi bản thân: Tất cả mọi
người đều cảm nghiệm thấy có những biến đổi nội tâm thường hướng chiều về đàng
xấu cũng như về đàng tốt. Thực vậy, khi người ta càng suy tư nhiều về những động
lực nội tâm, thì dường như họ càng thấy rõ hơn mình bị ô nhiễm bởi những ước muốn
ích kỷ. Họ phải nhìn nhận sự thật là họ vẫn còn là con người và luôn bị cám dỗ.
Ước muốn yêu mến
phục vụ Thiên Chúa và tha nhân phát xuất từ nội tâm là tiêu chuẩn giúp người
tín hữu nhận định xem có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần hay không. Trong các
sinh hoạt hằng ngày, họ cần dành thời giờ để ôn duyệt ý thức nội tâm này hầu
luôn biết đặt mình trong ảnh hưởng của Thần Khí.[78]
- Thức tỉnh trong Thánh Thần
Sự thức tỉnh
trong Chúa Thánh Thần là một tiến trình trên bước đường theo Đức Kitô. Có sự
khác nhau giữa trước và sau thức tỉnh. Trước khi thức tỉnh, người tín hữu cố gắng
theo Đức Kitô bằng cách tỏ ra trung thành trong việc tuân giữ lề luật, thực
hành các giáo huấn, và bắt chước gương Đức Kitô cách máy móc vì bổn phận hay vì
lề luật đòi buộc. Còn sau khi thức tỉnh, người tín hữu không những cố gắng sống
theo lề luật và các giáo huấn của Đức Kitô như một đòi hỏi, mà họ còn đáp lại
cách tự do và yêu mến đối với sự hướng dẫn, thúc giục của Chúa Thánh Thần ở nội
tâm của mình.
Khi người Kitô
hữu ý thức về Chúa Thánh Thần, chứng nghiệm được những hoạt động của Chúa Thánh
Thần trong bản thân mình, trong đời sống của mình, đồng thời ngày càng vững tin
vào quyền năng của Thánh Thần, thì đời sống tâm linh và siêu nhiên của người
Kitô hữu sẽ phát triển mạnh mẽ. Nhờ đó họ sẽ có kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần
thật sự, vì “ai
tìm thì sẽ thấy” (Mt 7,8). Đức tin về Thánh Thần và quyền năng của Thánh Thần được
xây dựng trên những chứng nghiệm thật sự mới chắc chắn và có tác dụng thật sự
trong đời sống.[79]
2. Người Kitô hữu đáp lại Chúa Thánh
Thần
Từ những hồng
ân Thánh Thần ban được, người Kitô hữu đáp lại Thánh Thần bằng thái độ và hành
động đối với chính Chúa Thánh Thần (tin tưởng, yêu mến Người), cũng như đối với
bản thân và tha nhân.
a. Đối với Thánh Thần: Tin tưởng, yêu
mến Thánh Thần
Chúa Thánh Thần
luôn hiện diện trong đời sống người Kitô hữu. Đức Giêsu đã hứa: “Thầy sẽ cầu
xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác để Đấng ấy ở với
anh em mãi mãi” (Ga 14,16). Vì vậy, người tín hữu phải có một niềm tin tưởng vững
chắc vào Chúa Thánh Thần: tin vào sự hiện diện của Người ở khắp mọi nơi, nhất
là trong tâm hồn những người công chính; tin vào những hoạt động nhiệm mầu và kỳ
diệu của Người trong linh hồn.
Một niềm tin sống
động vào những sự thật này sẽ cho phép người tín hữu có một sự phụng thờ Chúa
Thánh Thần cho đúng. Họ bước đi trong sự hiện diện của Người, tôn vinh Người bằng
một đời sống thánh thiện và luôn chạy đến xin Người nâng đỡ. Họ cùng làm việc với
Người và tránh làm trở ngại cho các hành động yêu thương của Người.[80]
Không chỉ đặt
niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu còn phải yêu mến
Người và luôn cầu xin Người đến với tâm hồn mình.
Yêu mến Chúa
Thánh Thần là tránh không làm buồn lòng Người. Thánh Phaolô căn dặn:“Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì
chính Người là ấn tín đóng trên anh em, chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4,30). Điều làm Thánh Thần buồn nhất là tội lỗi, là khinh dể,
dửng dưng, cứng lòng, giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi của Người và lạm dụng
đối với ơn thánh của Người, là chống lại với ơn thánh Người gieo vào lòng mỗi
người tín hữu. Người bị đuổi ra khỏi trái tim họ khi họ phạm tội trọng, đáng lẽ
họ phải thánh thiện vì họ được gọi là đền thờ của Thánh Thần: “Thật thế, Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy
chính là anh em” (1Cr
3,17). Có những tội đối với Chúa Thánh Thần là một sự lăng nhục hơn các tội
khác. Đức Giêsu đã nói rõ về điều này: “Vì
thế, tôi bảo các ông, mọi tội lỗi và lời phạm thượng sẽ được tha cho loài người,
chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói lời chống lại Con Người
thì sẽ được tha ; còn ai nói chống lại Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này
lẫn đời sau.” (Mt
12,31-32).
Khi yêu mến,
người Kitô hữu không những không được làm phiền lòng Chúa Thánh Thần mà còn muốn
làm đẹp lòng Người. Họ phải mau lẹ và vui vẻ làm theo những ơn Người soi sáng,
đồng thời, họ cần phải luôn hướng các việc làm của mình lên Chúa Thánh Thần,
Chúa Cha và Chúa Con. Họ không ngừng dâng lên Người những lời ngợi khen và tri
ân của mình.[81]
Việc đáp lại
Chúa Thánh Thần của người Kitô hữu còn được thể hiện trước những hồng ân Thánh
Thần ban cho mình. Họ không chôn cất đi mà cộng tác Người để làm triển nở trong
đời sống cá nhân và tha nhân. Đó là sống theo Thánh Thần.
b. Sống theo Thánh Thần
Thần Khí là nguồn
mạch và là chuẩn mực hướng dẫn đời người Kitô hữu. Thánh Phaolô đã dạy: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí
mà tiến bước” (Rm
5,5).
- Đối với bản thân: tích cực sửa đổi
và lớn lên trong Thánh Thần
Hoạt động của
Thánh Thần nơi người tín hữu không tự động, bởi vì cùng với hoạt động đó, Người
không chấp nhận thái độ thụ động, trái lại, con người cần cộng tác vào bằng
cách loại trừ điều gì có thể làm ngăn trở công việc của Người. Macaire
l’Egyptien quả quyết ý muốn con người là chính yếu để Thiên Chúa có thể hành động
nơi họ: “Có thể nói, ý muốn con người là điều kiện cốt yếu; nếu không có ý muốn
này, thì một mình Người, Thiên Chúa không làm gì hết” (Bài giảng, XXXVII,10). Việc con người cộng tác với
Thiên Chúa để tinh luyện tâm hồn khỏi mọi ô uế của tội lỗi và mọi tham vọng
ngăn trở hình ảnh của Thiên Chúa chiếu tỏa, được truyền thống Kitô giáo gọi là
“tu luyện”. Grégoire de Nysse viết: “Tâm trí con người, do tội lỗi, giống như tấm
gương lộn ngược, khiến cho, thay vì phản chiếu Thiên Chúa, lại phản chiếu hình ảnh
vật chất dị hình” (Việc tạo dựng con người, XII). Chính vì lẽ đó mà các tham vọng làm đảo lộn sự hòa hợp sơ
khai nơi con người, khiến cho tạo vật dễ dàng và vội vàng “hưởng thụ” vật chất
chóng qua thay vì Đấng Tạo Hóa, những hình bóng giả tạo thay vì nguyên
hình.[82]
Chính vì vậy,
Thánh Thần can thiệp vào, trợ giúp con người tái tạo nơi mình hình ảnh của
Thiên Chúa, như đoạn văn rất hay của giám mục Basile d’Cesarée, tổng hợp hoạt động
đó của Thánh Thần nơi các tâm hồn, tạo nên các thành quả như sau:
Về sự kết hợp
thân mật của Thánh Thần với tâm hồn, điều đó không hệ tại ở sự gần gũi về nơi
chốn… mà ở sự loại trừ các tham vọng. Nó tinh luyện chúng ta khỏi những ô uế do
các tật xấu, tìm gặp lại vẻ đẹp của bản tính, và tái tạo nguyên hình cho ảnh thực
thụ qua sự trong sạch; với điều kiện này, Đấng Bảo Trợ ngự đến. Và Người, giống
như mặt trời tác động đến con mắt trong sạch, sẽ chỉ cho bạn hình ảnh của Đấng
vô hình nơi Người; trong sự chiêm ngắm đầy diễm phúc về hình ảnh đó, bạn sẽ thấy
vẻ đẹp vô giá về khuôn mẫu đầu tiên. Nhờ Thánh Thần, tâm hồn được nâng cao, những
kẻ yếu đuối được bàn tay dẫn dắt, những người tiến bộ trở nên trọn lành.[83]
- Đối với tha nhân: yêu thương phục vụ
Tình yêu được xếp
đầu trong hoa trái Thần Khí, đổ tràn trong tâm hồn người tín hữu (Rm 5,5). Như
tất cả mọi hoạt động của Thiên Chúa ra bên ngoài đều được coi như trào ra từ
tình yêu trao ban nội tại của Ba Ngôi, nghĩa là tất cả những gì Thiên Chúa làm
trong vũ trụ và lịch sử nhân loại đều bởi Tình yêu Thánh Thần, tình yêu trao
ban và đón nhận giữa Cha và Con, thì người Kitô hữu phục vụ tha nhân bằng tình
yêu Thánh Thần đã được đổ tràn trong tâm hồn mình như vậy. Bởi vì chính tình
yêu Thánh Thần là căn tính và lý do hiện hữu của con người: con người được dựng
nên vì và cho tình yêu. Trong thư gửi tín hữu Galat, thánh Phaolô đã dạy: “…hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được
nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình
ngươi” (Gl 5,14). Tình yêu Thánh Thần chính là
sự chân tình, lòng thương cảm, con tim rộng mở: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm
ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người
khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục
vụ…” (Rm 12,10-11). Ðó là khả năng hiểu được
nỗi đau, niềm vui của người khác: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Đây vừa là dấu chỉ của người môn đệ Ðức Kitô vừa là
mệnh lệnh: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là
anh em hãy yêu thương nhau”; “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Tình yêu Thánh Linh vẫn
được coi như Tình Yêu liên kết Cha và Con, Tình Yêu trao ban hỗ tương.
Vì thế, chỉ có
Tình yêu Thánh Thần mới giúp người tín hữu chia sẻ tình yêu của mình cho người
khác. Tình yêu này giữ vai trò căn bản trong đời sống Kitô hữu. Nhờ đó, toàn thể
đời sống người tín hữu trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa. Quả vậy, mọi sự tốt
lành, khôn ngoan ,thánh thiện đều bắt nguồn bởi Tình yêu Thánh Thần tác động
lên người tín hữu làm cho họ không chỉ yêu mến Thiên Chúa, mà còn yêu thương
người khác nữa.[84] Nói cách khác, tình yêu của Thánh
Thần là thầy dạy yêu mến, biến đổi người Kitô hữu bằng những đường lối riêng biệt
và làm cho họ nên giống Chúa Kitô.
Thế Đức Kitô đã
yêu thương như thế nào? Theo Tin mừng Nhất Lãm, mục tiêu của việc Đức Giêsu đến
thế gian không phải là “được người ta
phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Tinh thần phục vụ của Người được Tin mừng Gioan diễn
tả cách cụ thể: “Người cúi xuống rửa chân cho các môn
đệ” (Ga 13,1-17). Đức
Giêsu qua Chúa Thánh Thần cũng kêu gọi các môn đệ và Hội Thánh bắt chước Người
để phục vụ như vậy, vì là thái độ nền tảng và là một chọn lựa căn bản.[85]
- Phục vụ phải
là thái độ nền tảng : Người Kitô hữu được mời gọi phải đặt phục vụ là thái độ nền
tảng chi phối toàn bộ đời sống, từ lời nói, cử chỉ cho đến mọi quyết định và
hành động. Thái độ nền tảng của người phục vụ là tự đặt mình ở dưới, là thái độ
sống cho tha nhân và vì tha nhân. Muốn có thái độ nền tảng này, họ phải là những
con người tràn đầy Thần Khí. Ngài sẽ khai mở lòng trí, giúp người tín hữu vượt
ra khỏi chính mình (cái tôi ích kỷ), đưa họ đến với Thiên Chúa và tha nhân.
- Phục vụ là một
chọn lựa: vì chúng ta có thể từ chối không phục vụ. Lựa chọn này rất cơ bản vì
nó đụng tới những gì vừa thâm sâu, vừa thực tế trong cuộc đời. Sự lựa chọn này
rất cam go vì nó ảnh hưởng đến tinh thần và vật chất của con người. Nó đòi sự từ
bỏ thời gian, sở thích, sức khỏe và các quan hệ gia đình; và cấp độ cao nhất là
sẵn sàng hy sinh mạng sống để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.[86] Từ bỏ mạng sống
mình theo như Đức Kitô đòi hỏi, biểu hiện trong thực tế bằng việc người Kitô hữu
phải rất can đảm phấn đấu và nỗ lực hằng ngày mới có thể lựa chọn con đường phục
vụ, sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, họ cần có sự giúp đỡ của Thần Khí
để kiên trì bước đi trên con đường dấn thân phục vụ.
Ngoài ra, Thần
Khí soi sáng để người tín hữu nhận ra các bậc thang giá trị và cấp thiết của
các nhu cầu và biết được khả năng của mình hầu phục vụ tha nhân cách tích cực.
Phục vụ tích cực là vừa sinh ích cho người khác và vừa tôn trọng tự do của người
khác bằng thái đội khiêm tốn và âm thầm.[87] Như vậy, họ sẽ tìm thấy niềm vui hạnh
phúc trong phục vụ.
KẾT LUẬN
Qua những gì đã
được trình bày trên đây, ta có thể nhận thấy vai trò Chúa Thánh Thần
trong đời sống người Kitô hữu như thế nào! Ngài thực sự là tâm điểm, là hơi thở
của chính người Kitô hữu. Do đó người Kitô hữu không những phải tin tưởng và
yêu mến Chúa Thánh Thần, mà còn phải sống bằng Thần Khí và hít thở trong Ngài.
Trong cuộc đời
mình, người tín hữu cần phải tìm gặp lại một số giá trị căn bản của đời sống
mình, là được sống và rao giảng dưới ánh sáng của Thánh Thần. Như thế, người
Kitô hữu sẽ không bao giờ nhấn mạnh đủ về sự kiện ơn thánh hóa. Ơn
này không là một cái gì đó trừu tượng, mà là chính sự sống của Thiên Chúa
kết nối người Kitô hữu nhờ ơn huệ Thánh Thần.
Ơn cứu độ không
phải là hoa quả do sự chinh phục của con người. Thật vậy, nhờ ân sủng của Thánh
Thần, con người đi sâu vào đời sống mới, được dẫn vào trong thực tại siêu nhiên
của đời sống thần linh, thành chi thể của thân mình Đức Kitô, thành ngôi đền thở
của Chúa Thánh Thần. Trong đền thờ ấy, Thánh Thần nâng cao những ước muốn của
con người khiến cho họ chỉ sống và ước muốn những điều thuộc về Thánh Thần chứ
không còn lo thỏa mãn những đam mê thuộc xác thịt nữa. Nhờ mối tương quan mật
thiết với Thánh Thần, con người hiểu mình, biết địa vị cao cao của mình là được
dựng nên gống hình ảnh cua Thiên Chúa, “là thụ tạo duy nhất ở trần gian này được
Thiên Chúa dựng nên vì chính họ”.[88]
Con người nhận
ra được chân giá trị của mình không chỉ hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, mà
còn hiệp thông hiệp thông với anh em đồng loại. Bởi vì khi thông ban cho con
người Thánh Thần, Thiên Chúa biến đổi thế giới nội tâm của con người “ban cho họ
một trái tim mới và một thần khí mới”. Một Thần Khí mới của Đấng Phục Sinh luôn
tác động trên và trong họ để họ có quả tim biết trao ban, chia sẻ với người
khác. Đây là không gian trách nhiệm, theo đó mỗi tín hữu được mời gọi sống phục
vụ chứng tá và đức ái. Được mời gọi xây dựng những tương quan mới với chính anh
em mình và với thực tại trọn vẹn, người tín hữu thực hiện căn tính của mình, được
đánh giá như một con đường tiến đến tự do qua kinh nhiệm đích thực trong
Thánh Thần: đó là con đường giải thoát mình để yêu thương.
Ngày nay, người
Kitô hữu đang bước đi trong một thời đại, một thế giớ đầy hy vọng và lo âu.[89]
Ánh sáng và bóng tối đan xen nhau. Thế giới đang cần đến những chứng cứ sống động
và cụ thể từ những người Kitô hữu, từ Giáo hội của Đức Kitô. Điều này cho thấy,
người Kitô hữu không thể không gắn kết với Thánh Thần và sức năng động của Người,
ngõ hầu có sức biến đổi những điều mà dưới mắt của con người không thể nào làm
đảo ngược được. Điều cần thiết trước tiên là làm sao để cho Thánh Thần Thiên
Chúa thấm nhuần vào từ lời nói đến hành động của người Kitô hữu để trên mọi sự
người Kitô hữu ao ước được Thánh Thần Thiên Chúa và tác động của Người.
***
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kinh Thánh Trọn Bộ - Tân
Ước và Cựu Ước. Bản dịch của Nhóm Phiên dịch Các Giờ
Kinh Phụng Vụ. Hà Nội: Tôn Giáo. 2008.
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Bản dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn.
1993.
Sách lễ Rôma,
Kinh Tiền tụng IV.
2007.
Công đồng Vaticanô II. Sắc
lệnh Hiệp nhất. 1960.
__________________. Sắc
lệnh về Hoạt động Truyền giáo. 1965.
__________________. Hiến
chế Lumen Gentium.
1964
__________________. Hiến
chế Gaudium et spect.
1965.
Gioan Phaolô II. Tông huấn Kitô giáo dân Christifideles Laici. 1988.
_____________. Thông điệp Redemptoris Missio. 1990.
_____________. Thông điệp Dominum et Vivificantem. 1998.
_____________. Chúa Thánh Linh - Đấng Ban Sự Sống Và Tình Yêu. Nguyễn Đức Tuyên chuyển ngữ. [nơi xuất bản, nhà xuất bản không
rõ]. 2005.
Martinez, M. True Devotion to the Holy Spirit. Sophia Institute Press. 1957.
Horton, Stanley. M. What
the Bible says about the Holy Spirit. Gosple publishing house. 1986.
Moltmann. Lo Spirito della Vita. Per una pneumatologia integrale [1991], Queriniana, Brescia. 1994.
Harrington, Wilfrid. Nouvelle
- Introduction A La Bible.
Bản việt ngữ Dẫn vào Kinh Thánh nói chung, [dịch giả, nơi xuất bản, nhà
xuất bản và năm xuất bản không rõ].
Tigpen, Paul. Bản Việt ngữ Suy
niệm về Thánh Linh.
Martin Lưu và các người khác chuyển dịch. Tủ sách Ngàn năm Thứ Ba. [nơi xuất
bản, nhà xuất bản không rõ]. 1998.
Conseil de Présidence du Grand Jubilé de l’An 2000. L’Esprit
Saint Remplit L’Univers.
Éd. Mane. 1997. Bản Việt ngữ Thánh Thần chan hòa vũ trụ. [dịch giả không rõ].
Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh. Chúa
Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống. Tp.HCM: Tp.HCM. 1997.
________________________. Chúa
Thánh Thần trong Kinh Thánh. Hà Nội: Tôn Giáo. 2009.
Norberto. Thiên Chúa Ba Ngôi. [nơi xuất bản, nhà xuất bản không rõ]. 2000.
Aquinas, Thomas. Bản Việt ngữ Tổng
Luận Thần học: về Hạnh Phúc của con người I-II. Nguyễn Văn Liêm dịch. Tp. HCM: Chân
lý. 2003.
Durrwell, F.X. Bản Việt ngữ Hiểu
Và Sống Mầu Nhiệm Thánh Thần Thiên Chúa. Vũ Văn Thiện chuyển dịch. Hà Nội: Tôn Giáo. 2004.
Nguyễn Ngọc Rao. Các Sách Ngôn Sứ. Tp. HCM: Chân lý. 2006.
Manise, Ernest. Bản Việt ngữ Chúa Thánh
Thần Đấng Thánh Hóa Linh Hồn Qua Bảy Ơn Thánh. Nguyễn Thị Chung chuyển dịch. Hà Nội: Tôn Giáo. 2010.
Lê Minh Thông. Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư. Hà Nội: Tôn Giáo. 2010. Thần
Khí với đời sống thiêng liêng. Hợp tuyển thần học. số 45
Nguyễn Kim Long. Chúa Thánh Thần Trong Đời Sống Kitô Hữu. Truy cập ngày
01-10-2011.http://www.huynhde.conggiao.net/Tailieuthamkhao.htm
Nguyễn Chính Kết. Hãy
chứng nhận Thần Khí trong cuộc sống. Truy cập ngày 01-10-2011.
http://www.dongcong.net/LoiChua-SuyNiem/SuyNiemNamA/JK/ps2a.htm
Bài 17: Hãy Nhận Lấy Thánh Thần. Truy cập ngày
20-10-2011.http://vietcatholic.com/News/PdfHandler.ashx?id=24324
Bài 33: Thần Linh: Bảo Chứng của Niềm Hy Vọng Cánh Chung. Truy cập ngày
20-10-2011.http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/1caotinh/33mach.htm.;
Thánh Thần được trao ban cho Giáo Hội; Truy cập ngày
20-10-2011.http://www.simonhoadalat.com/Suyniem/BaiGiang/GiangLeChuaNhat/NamA/LeHienXuong.htm
[1] Gioan Phaolô II, Thông
điệp Dominum et Vivificantem, 1998, số 3.
[2] Wilfrid Harrington, Nouvelle
– Introduction A La Bible,
Bản việt ngữ “Dẫn vào Kinh Thánh nói chung” (dịch giả, nơi xuất bản,
nhà xuất bản và năm xuất bản không rõ), tr. 39-40.
[3] Trong các Tin mừng, danh từ “para,klhtoj” (Paráclê)
chỉ xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng thứ tư (14,16.26; 15,26; 16,7). Riêng câu
14,16, tác giả sử dụng cụm từ “Đấng Paráclê khác” (a;llon para,klhton) nhằm muốn
so sánh sứ vụ trần thế của Đức Giê-su với Đấng Paráclê. Còn trong các câu
14,26; 15,26; 16,7, tác giả sử dụng cụm từ “o` para,klhtoj” (ho Paráclê) để chỉ
một nhân vật xác định: “Đấng Paráclê”. Ngoài ra, Tin Mừng thứ tư còn đồng hoá
giữa các tên gọi “Đấng Paráclê khác” (14,16) – “Thần Khí sự thật” (14,17;
15,26; 16,13) – “Đấng Pa-rác-lê” (14,26; 16,13a) – “Thánh Thần” (14,26) nhằm
xác định “Đấng Paráclê khác” ở 14,16 chính là “Đấng Paráclê” ở 14,26; 15,26;
16,7. Ngoài ra, trong Tin Mừng thứ tư, hoạt động của Đấng Paráclê nằm trong bối
cảnh pháp lý (Đức Giêsu và những kẻ chống đối). Hoạt động này được thể hiện ở
hai yếu tố rất độc đáo: Đấng Paráclê sẽ làm cho các môn đệ biết sự thật về thế
gian, và biết mạc khải của Đức Giêsu qua việc “dạy”, “làm cho nhớ lại” (14,26),
“nói” và “loan báo” (16,13). Với những nhiệm vụ này, không có ngôn ngữ nào diễn
tả hết ý nghĩa khi chuyển dịch hạn từ “para,klhtoj”, nên chúng ta để nguyên ngữ
từ đó và tạm phiên âm nó ra Tiếng Việt là “Paráclê”. X. Lê Minh Thông, Đấng
Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư (Hà Nội: Tôn Giáo, 2010), tr. 66-152.
[4] Sđd., tr. 18-20.
[5] Trong tin Mừng thứ tư,
cách dùng “eivmi, + meta,” (ở với) diễn tả việc Đức Giêsu ở với các môn đệ,
các môn đệ ở với Đức Giêsu và Đức Giêsu ở với Cha. X. Sđd., tr.
272.
[6] Khi giới từ “para,” (giữa)
đứng trước một từ ở tặng cách: “para,+ tặng cách” thì có nghĩa: “bên cạnh”, “gần
bên”, “với’. X. Sđd., tr. 273.
[7] Trong Tin Mừng thứ tư,
cách dùng giới từ “evn” (en: trong) diễn tả các tương quan hiệp
thông: “Đức Giêsu – Chúa Cha” và “Đức Giêsu – các môn đệ”. Như vậy, giới từ
“evn” (trong) ở câu 14,17c: “Người (Thần Khí sự thật) sẽ ở trong anh em (evn
u`mi/n e;stai)” được hiểu theo nghĩa tương quan hiệp thông giữa Đấng Paráclê và
các môn đệ. X. Sđd., tr. 275.
[8] Tác giả sử dụng động từ “me,nw” (me-nô: ở lại)
(14,17b), chia ở thì hiện tại, nhằm cho thấy lời của Đức Giêsu nói với các môn
đệ sau biến cố Phục sinh là Đấng Paráclê sẽ ở với họ: “Người (Đấng Paráclê) ở lại
giữa anh em” (14,17b). Sự “ở lại” của Đấng Paráclê trong động từ này có thể diễn
ra trong cả hai giai đoạn: Trước biến cố Thương khó, khi tin vào Đức Giêsu, các môn đệ đã
được sinh ra bởi nước và Thần Khí như Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô ở
3,3.5. Nhưng để đón nhận trọn vẹn quà tặng Thần Khí, các môn đệ phải chờ đến
sau biến cố Đức Giêsu được tôn vinh (7,39), nghĩa là sau
biến cố Phục sinh. X. Sđd., tr. 278-284.
[9] X. Sđd., tr. 272-284.
[10] X. Sđđ., tr. 51-54.
[11] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Dominum
et Vivificantem, 1998,
số 24; X. Bài 17: Hãy Nhận Lấy Thánh Thần;
http://vietcatholic.com/News/PdfHandler.ashx?id=24324
[12] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Dominum
et Vivificantem, 1998,
số 24 và 30; X. Bài 17: Hãy Nhận Lấy Thánh Thần;
http://vietcatholic.com/News/PdfHandler.ashx?id=24324; X.Bài 33: Thần Linh: Bảo Chứng của Niềm Hy Vọng Cánh Chung;
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/1caotinh/33mach.htm.; X. Thánh
Thần được trao ban cho Giáo Hội; http://www.simonhoadalat.com/Suyniem/BaiGiang /GiangLeChuaNhat/NamA/LeHienXuong.htm
[13] X. Norberto, Thiên
Chúa Ba Ngôi, dịch giả không rõ (nơi xuất bản
không rõ: nhà xuất bản không rõ, 2000), tr. 52.
[14] Công đồng Vaticanô II, Hiến
chế Gaudium et spect,
số 14.
[15] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh, Chúa Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống (Tp. HCM: Tp. HCM, 1997), tr. 349.
[16] Gioan Phaolô II, Thông
điệp Dominum et Vivificantem (1998) số 58-60.
[17] Sứ điệp của Đức Thánh Cha bênêđictô XVI gửi các bạn
trẻ nhân ngày giới trẻ thế giới lần thứ XXIII tại Sydney- Úc (2008).
[18] X. Sách lễ Roma, Kinh Tiền tụng IV (2007), tr. 473.
[19] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Bản
dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn (1993), số 2672.
[20] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh, sđd., tr. 179.
[21] Sđd., tr.180.
[22] Bùi Văn Đọc và một số linh mục, Chúa
Thánh Thần trong Kinh Thánh (Hà Nội: Tôn giáo, 1999), tr. 30.
[23] Thần Khí với đời sống thiêng liêng, Hợp tuyển thần học, số 45.
[24] Sđd., số 45.
[25] Moltmann, Lo Spirito della Vita. Per una pneumatologia integrale (Queriniana: Brescia, 1994), tr. 183.
[26] Thần Khí với đời sống thiêng liêng, Hợp tuyển thần học, số 45.
[27] Nguyễn Ngọc Rao, Các
Sách Ngôn Sứ (Tp. HCM: Chân lý, 2006), tr. 216-217.
[28] Luật mới là chính bản thân Thánh Thần (x. St.
Thomas, Com.in Rom. 8. lect. I)
[29] F.X. Durrwell, Bản Việt ngữ Hiểu
Và Sống Mầu Nhiệm Thánh Thần Thiên Chúa, Vũ Văn Thiện chuyển dịch (Hà Nội: Tôn Giáo, 2004), tr.
195-196.
[30] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh, sđd., tr. 97.
[31] F.X. Durrwell, sđd., tr. 197.
[32] Sđd., tr. 200.
[33] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh, sđd., tr. 92-94.
[34] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh., tr. 96.
[35] F.X. Durrwell, sđd., tr. 200.
[36] Augustinô, De Trinitate 8,14.
[37] Durrwell, sđd., tr. 39.
[38] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh, sđd., tr. 440.
[39] Sđd., tr. 441.
[40] Durrwell, sđd., tr. 40.
[41] Sđd., tr. 40.
[42] Trong Ca vịnh Veni
Creator của Phụng vụ Lễ Hiện xuống, Giáo hội
tung hô Thánh Thần là: “Suối nước sinh sống, lửa đỏ, lòng mến, và sự xức
dầu Thánh Thần”. X. Durrwell, sđd., tr. 43.
[43] Durrwell, sđd., tr. 200-201.
[44] Bùi Văn Đọc &Võ Đức Minh, sđd., tr. 348.
[45] Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh Hiệp nhất, 1960,
số 2.
[46] M. Martinez, True
Devotion to the Holy Spirit (Sophia Institute Press, 1957), tr. 197.
[47] Paul Tigpen tuyển lọc, Suy
niệm về Thánh Linh,
Martin Lưu & các người khác chuyển dịch, Tủ sách Ngàn năm Thứ Ba (nhà xuất
bản không rõ: nơi xuất bản không rõ, 1998), tr. 108-109.
[48] Sách Giáo lý hội Thánh Công Giáo, sđd., số 1108.
[49] Paul Tigpen, sđd., tr. 109.
[50] Bùi Văn Đọc &Võ Đức Minh, sđd., tr. 277.
[51] Conseil de Présidence du Grand Jubilé de l’An 2000, L’Esprit
Saint Remplit L’Univers(Éd.
Mane, 1997), bản Việt ngữ Thánh Thần chan hòa vũ trụ, tr. 214 - 215.
[52] Paul Tigpen, sđd., tr. 109.
[53] Conseil de Présidence du Grand Jubilé de l’An 2000,
sđd., tr. 106.
[54] Stanley M.Horton, What
the Bible says about the Holy Spirit (Gosple publishing house, 1986), tr. 214-219.
[55] Công đồng Vaticanô II, Hiến
chế Lumen Gentium, số
21.
[56] Conseil de Présidence du Grand Jubilé de l’An 2000,
sđd., tr. 104.
[57] Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh Hiệp nhất, 1960,
số 2.
[58] Cyrilô, Chú giải Tin Mừng Gioan, XII,11.
[59] Công đồng Vaticanô II, Hiến
chế Lumen Gentium,
1964, số 4.
[60] F.X. Durrwell, sđd., tr. 43.
[61] Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh Hiệp nhất, 1964,
số 2.
[62] Công đồng Vaticanô II, Hiến
chế Lumen Gentium,
1964, số 4.
[63] Gioan Phao lô II, Tông
huấn Kitô giáo dân Christifideles Laici, 1988, số 18,20.
[64] Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh về Hoạt động Truyền giáo, 1965, số 2-3
[65] Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh về Hoạt động Truyền giáo, 1965, số 4.
[66] Gioan Phaolô II, Thông
điệp Redemptoris Missio, 1990, số 75.
[67] Sđd., số 75.
[68] Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh về Hoạt động Truyền giáo, 1965, số 5.
[69] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Bản
dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn, 1993, số 687.
[70] Nguyễn Chính Kết, Hãy
chứng nhận Thần Khí trong cuộc sống, truy cập ngày 01/10/2011;
http://www.dongcong.net/LoiChua-SuyNiem/SuyNiemNamA/JK/ps2a.htm
[71] Ủy Ban Mục Vụ và Truyền Giáo của năm Toàn xá 2000, Thánh
Thần là Chúa và là Đấng Ban Sự Sống, Tài liệu hướng dẫn Mục vụ Truyền giáo năm 1998, tr. 71.
[72] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Bản
dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn, 1993, số 688.
[73] Inhaxiô, Qui tắc 2 để Biện Biệt Thần Khí (Nguyễn Kim Long, Chúa
Thánh Thần Trong Đời Sống Kitô Hữu, Luận văn tốt nghiệp, tr. 32-35, truy cập ngày 01/10/2011; http://www.huynhde.conggiao.net/
Tailieuthamkhao.htm, tài liệu số 8.
[74] Nguyễn Kim Long, sđd., tr.37.
[75] Sau khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa
Giêsu ban bình an cho các ông, và Người giải thích rằng bình an của của Người
ban tặng trong Thánh Thần không phải là bình an thế gian của thế gian. Cho nên
dù gặp khó khăn thử thách cũng đừng lo lắn và sao xuyến (x. Ga 14,16-27).
[76] Nguyễn Kim Long, sđd., tr. 37-38.
[77] Sđd., tr. 38-39.
[78] X. Sđd., tr. 40-41
[79] Nguyễn Chính Kết, Hãy
chứng nhận Thần Khí trong cuộc sống, truy cập ngày 01/10/2011;
http://www.dongcong.net/LoiChua-SuyNiem/SuyNiemNamA/JK/ps2a.htm
[80] Ernest Manise, bản Việt ngữ Chúa
Thánh Thần Đấng Thánh Hóa Linh Hồn Qua Bảy Ơn Thánh, Nguyễn Thị Chung dịch (Hà Nội: Tôn Giáo, 2010), tr.31-32.
[81] X. Sđd, tr. 32-35
[82] Conseil de Présidence du Grand Jubilé de l’An 2000,
Sđd., tr. 244-245.
[83] Basile d’Cesarée, Về
Thánh Thần, IX,23.
[84] Gioan Phaolô II, Chúa
Thánh Linh - Đấng Ban Sự Sống Và Tình Yêu, Nguyễn Đức Tuyên chuyên ngữ, (Nơi xuất bản không rõ: nhà xuất bản
không rõ, 2005), tr. 502-504.
[85] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh, sđd., tr. 350-352.
[86] Sđd., tr. 360-363.
[87] X. Sđd, tr. 357.
[88] Công đồng Vaticanô II, Hiến
chế Mục vụ Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số 24.
[89] Sđd., số 11.