MỘT
LỄ NGŨ TUẦN MỚI? THẦN HỌC CÔNG GIÁO VÀ “PHÉP RỬA TRONG THÁNH THẦN”
Thời sự
Thần học - số 76, tháng 05/2017, tr. 173-207
_Ralph
Martin_
Tác
giả, giáo sư tại Chủng viện Thánh Tâm (giáo phận Detroit), tóm tắt các ý kiến
của các nhà thần học Công giáo về ý nghĩa của “phép rửa trong Thánh Thần” thành
ba nhóm chính: 1/ Đây là một sự phát triển của những ơn huệ đã tiềm tàng trong
các bí tích khai tâm. 2/ Đây là một sự phái cử mới của Thánh Thần nhằm thi hành
một ơn gọi hay sứ vụ mới. 3/ Đây là một hiện tượng mới do Thánh Thần ban cho
thời đại chúng ta để đương đầu với những thách đố tương tự như hồi các thế kỷ
đầu của Giáo hội.
Nguồn :
“A New Pentecost? Catholic Theology and ‘Baptism in the Spirit’” in Logos
A Journal of Catholic Thought and Culture 14(3) June 2011, 17-43.
Người
dịch: Tu sĩ Giuse Nguyễn Trị An, O.P.
Có một
điều chắc chắn: diện mạo của Giáo hội trong ngàn năm thứ ba tuỳ vào khả năng
chúng ta lắng nghe điều mà Thần Khí đang nói với Giáo hội trong thời đại hôm
nay (cf. Kh 2,7) […] Do đó, diện mạo của Giáo hội tuỳ thuộc khả năng chúng ta
biết ngạc nhiên trước những đặc sủng mà Thần Khí, với lòng quảng đại lạ thường,
đang tuôn đổ trên Giáo hội hôm nay. Đồng thời, diện mạo ấy cũng tuỳ thuộc vào
sự khôn ngoan và minh mẫn của các vị Mục tử không dập tắt Thần Khí, biết thẩm
định mọi biến cố và nhanh chóng nắm bắt cái gì là tốt (cf. 1 Tx 5,12,19-21).[1]
Đã hơn
40 năm rồi kể từ khi cuộc canh tân đặc sủng trong Giáo hội Công giáo lần đầu
tiên xuất hiện, và dường như cũng khá lâu rồi kể từ khi có những cố gắng giải
thích thần học về kinh nghiệm cốt lõi của cuộc canh tân này - “Phép Rửa trong
Thánh Thần” - từ một quan điểm của Công giáo.
Thuật
ngữ “Phép Rửa trong Thánh Thần” chủ yếu được sử dụng ở Bắc Mỹ để diễn tả một
cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần, thường được kèm theo một cuộc tiếp xúc cá vị
thâm sâu với Chúa Kitô, thể hiện qua một quan niệm ban đầu về quyền Chủ tể của
Người, một cảm nghiệm cá nhân và giải thoát về tình yêu của Chúa Cha, và một
nhận thức mới rằng, chúng ta không phải là những kẻ mồ côi nhưng có Thánh Thần
thực sự ở bên chúng ta, sẵn sàng khích lệ, thuyết phục, hướng dẫn, giúp chúng
ta hiểu rõ những điều Thiên Chúa muốn[2]. Cảm nghiệm thiết thực này về Ba Ngôi
mang đến một niềm khát khao cầu nguyện mới hoặc được làm mới, trong đó bao gồm
cả tâm tình tán dương, tôn thờ và cảm tạ; một niềm khát khao đọc Kinh Thánh mới
hoặc được làm mới, thường được diễn tả là “lời Kinh Thánh vẫn luôn sống động”;
và một niềm khát khao nói cho người khác về sự Thiện hảo của Thiên Chúa. Ở đây,
thường đi kèm là niềm khát khao được tương quan với những Kitô hữu khác, là
biểu hiện của một hay nhiều đặc sủng Thánh Thần được liệt kê trong 1 Cr 12; 1
Pr 4; và Rm 12. Cha Francis Sullivan, SJ, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về cảm
nghiệm ấy:
Đó là
cảm nghiệm tôn giáo khơi lên một ý nghĩa mới mang tính quyết định về sự hiện
diện và hoạt động mạnh mẽ của Thiên Chúa trong cuộc sống con người, vốn thường
liên quan đến một hay nhiều đặc sủng.[3]
Từ
những suy tư thần học đầu tiên vào năm 1969, người ta vẫn thường hiểu thuật ngữ
“Phép Rửa trong Thánh Thần” chủ yếu nói đến các ân huệ của Thánh Thần trong các
bí tích Khai tâm Kitô giáo, như Tân Ước sử dụng, và chỉ theo cách loại suy,
thuật ngữ này mới diễn tả cảm nghiệm của những tín hữu Công giáo đã được Rửa
Tội và Thêm Sức thành sự. “Chính xác hơn, chúng ta không nói lãnh nhận
Phép Rửa trong Thánh Thần nhưng nói canh tân Phép Rửa trong
Thánh Thần”.[4]
Dù
những hình thức tổ chức của cuộc canh tân này suy giảm hay lan rộng tới nhiều
quốc gia ở nhiều thời điểm khác nhau, nó vẫn là một trong những phong trào lớn
nhất và có tầm ảnh hưởng nhiều nhất trong Giáo hội Công giáo theo sau Công đồng
Vatican II, và hiện đang có ở hơn 120 quốc gia với hơn 100 triệu tín hữu Công
giáo đăng ký để cảm nghiệm về cái được gọi là “Phép Rửa trong Thánh Thần”.[5]
Cuộc canh tân đặc sủng của Giáo hội Công giáo thường được xem là thành phần của
một hiện tượng rộng lớn hơn, đó là phong trào Ngũ Tuần, đã bắt đầu vào Thế kỷ
XX và bây giờ có hơn 500 triệu người tham gia.[6]
Kể từ
khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo hội cầu nguyện
chuẩn bị cho Công đồng Vatican II, xin Thiên Chúa ban cho chúng ta một lễ “Ngũ
Tuần mới” hay một “cuộc Hiện Xuống mới”, thì vẫn có sự nhấn mạnh liên tục từ
phía các Đức Giáo hoàng về nhu cầu rằng: toàn thể Giáo hội, và từng tín hữu,
ngày nay cần phải cảm nghiệm được hoạt động của Chúa Thánh Thần, như chúng ta
đã từng thấy sách Công vụ Tông đồ mô tả trong trình thuật Lễ Ngũ Tuần. Tiếp
theo Công đồng, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã viết trong Tông huấn Gaudete in Domino (Hãy vui lên trong
Chúa), như sau:
“Chắc
chắn, ở đây chúng tôi có sự tác động của Chúa Thánh Thần, ân huệ ngày Lễ Ngũ
Tuần. Chúng tôi cũng nhận ra một trực giác ngôn sứ từ vị Giáo hoàng tiền nhiệm
là Đức Gioan XXIII, người đã nhắm tới một Lễ Ngũ Tuần mới như là hoa trái của
Công đồng. Chúng tôi cũng ước mong đặt mình vào cùng một viễn ảnh và cùng một
thái độ mong chờ. Không phải là Lễ Ngũ Tuần đã có lúc ngừng hoạt động trong
lịch sử Giáo hội, nhưng bởi vì những nhu cầu và mối nguy của thời đại hôm nay
quá lớn lao, chân trời của nhân loại muốn chung sống với nhau quả thật là quá mênh
mông nhưng không thể nào đạt được, cho nên không thể nào cứu vãn được nếu Thiên
Chúa không đổ tràn ân huệ một lần nữa”.[7]
Theo
chiều hướng đó, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn Christifideles
laici (2) đã giải thích toàn bộ cuộc canh tân tinh thần sau Công đồng
trong Giáo hội Công giáo như là “một cuộc tuôn trào Thánh Thần mới trong ngày
Lễ Ngũ Tuần”. Trong một huấn từ nhân dịp Lễ Ngũ Tuần năm 1998, dành cho 500.000
tín hữu đại diện cho hơn 50 phong trào canh tân khác nhau, Đức Giáo hoàng Gioan
Phaolô II đã kết hợp giáo huấn của Kinh Thánh và của Công đồng Vatican II về
thực tại Lễ Ngũ Tuần và các ân huệ của Chúa Thánh Thần, và ngài công bố điều đó
cách khẩn thiết và say mê. Đức Thánh Cha nói:
Hai
khía cạnh thể chế và đặc sủng đều quan trọng đối với Giáo hội. Tuy khác biệt,
nhưng cả hai cộng tác cho sự sống, canh tân và thánh hoá dân Thiên Chúa. Từ
cuộc tái khám phá mang tính quan phòng về chiều kích đặc sủng của Giáo hội,
trước và sau Công đồng, một mô hình phát triển đáng kể đã được thiết lập cho
các phong trào và các cộng đồng mới trong Giáo hội …. Anh chị em hiện diện ở
đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy một cuộc “tuôn tràn” Thần Khí.[8]
Từ đó,
Đức Giáo hoàng đưa ra một lời kêu gọi đặc biệt:
Hôm
nay, tôi muốn tha thiết kêu mời tất cả anh chị em đang quy tụ tại Quảng trường
Thánh Phêrô cũng như hết thảy mọi Kitô hữu: hãy mở toang lòng mình ra cho những
ân huệ của Thánh Thần! Hãy đón nhận với lòng biết ơn và vâng nghe các đặc sủng
mà Thánh Thần không ngừng ban phát cho chúng ta!
Đức
Giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng nhắc đến chủ đề này. Trong một diễn từ năm 2008
suy nghĩ đoạn văn ở sách Công vụ Tông đồ, khi Đức Giêsu hứa với các môn đệ họ
sẽ được “rửa trong Thánh Thần”, Đức Giáo Hoàng mời gọi toàn thể dân Chúa:
Anh chị
em thân mến, tôi muốn mở rộng lời kêu mời này tới tất cả mọi người: chúng ta
hãy tái khám phá nét đẹp của việc được “rửa trong Thánh Thần”; chúng ta hãy
nhận thức lại một lần nữa bí tích Thanh tẩy và bí tích Thêm sức đã thụ lãnh,
đấy là nguồn mọi ân sủng vẫn có nơi chúng ta. Chúng ta hãy khấn xin Mẹ Maria
Đồng Trinh để có được một Lễ Ngũ Tuần mới cho toàn thể Giáo hội, lan truyền đến
mọi người niềm vui của việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.[9]
Chắc
chắn không thể khẳng định rằng, khi sử dụng sử dụng thuật ngữ “Phép rửa trong
Thánh Thần”, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đang mời gọi chúng ta hãy chịu phép rửa
theo ý nghĩa mà cụm từ này được hiểu và được cảm nghiệm trong phong trào canh
tân đặc sủng. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, Đức Thánh Cha đang mạnh mẽ
kêu gọi một cuộc canh tân các ân sủng của bí tích Thanh tẩy và bí tích Thêm
sức, xét trong mối tương quan với biến cố Lễ Ngũ Tuần và bản chất của nó, vốn
được Đức Giêsu mô tả là “thanh tẩy trong Thần Khí”. Cần biết rằng, Đức
Bênêđictô XVI hiểu rất rõ cách sử dụng thuật ngữ này để diễn tả điều mà cuộc
canh tân đặc sủng Công giáo gọi là Phép Rửa trong Thánh Thần.
Vì thế,
lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng mang lại một ý nghĩa quan trọng cho cuộc thảo
luận về “Phép Rửa trong Thánh Thần”, vốn là điều mà phong trào canh tân đặc
sủng định nghĩa như ‘thực tại chính yếu của một Lễ Ngũ Tuần mới’; và kể từ năm
1967, nhiều nhà thần học Công giáo, cùng các học giả Kinh Thánh trong phong
trào canh tân, đã cố gắng suy tư và tìm hiểu vấn đề này rất nhiều. Từ nguồn
nghiên cứu phong phú của các học giả, tôi sẽ xét ba lối giải thích tiêu biểu về
“Phép Rửa trong Thánh Thần”, đồng thời mở rộng vấn đề, rồi sau đó đưa ra kết
luận theo quan điểm của bản thân. Dù rằng, tôi xác định có ba lối giải thích
chính, nhưng cũng cần lưu ý, trong mỗi lối giải thích lại có rất nhiều cách lý
giải và phân biệt khác nữa mà tôi không đề cập đến.
Lối
giải thích thứ nhất:
Phép
rửa trong Thánh Thần và việc khai tâm Kitô giáo
Một lối
giải thích rất thông dụng, là xem Phép Rửa trong Thánh Thần tựa như một “cuộc
khuấy động” hay một “cuộc canh tân”, một “cuộc bung ra” hay một “hiện thực hoá”
các ân huệ của Chúa Thánh Thần, được ban trong những bí tích Khai tâm, chủ yếu
là bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức. Những nghiên cứu lịch sử, thần học và
kinh thánh của Cha George Montague và Cha Killian McDonnell về việc khai tâm
Kitô giáo trong tám thế kỷ đầu tiên có lẽ đã chứa đựng những lập luận sâu sắc
nhất về quan điểm này, mặc dầu có nhiều tác giả khác cũng theo một chủ trương
như vậy. Đây là lời giải thích quan trọng mà các nhà thần học đầu tiên đã đưa
ra, khi đệ trình phần nghiên cứu của mình về Phép Rửa trong Thánh Thần.[10] Cần
lưu ý rằng, lối giải thích thần học này do những người tham dự “Duquesne
weekend” năm 1967 (trong đó có một số giáo sư thần học) đưa ra, và đây thường
được xem là cuộc khai sinh phong trào canh tân đặc sủng trong Giáo hội Công
giáo; điều họ cảm thấy là Chúa đã đoái thương nhậm lời cầu xin, ban cho thoả
lòng ước nguyện, được canh tân bí tích Rửa tội và Thêm sức, được Chúa Thánh
Thần ngự xuống đúng như những gì sách Công vụ Tông đồ mô tả.[11] Điều này có ý
nghĩa quan trọng đối với những nỗ lực nghiên cứu thần học, vì cho phép chúng ta
đưa ra kết luận rằng, có sự liên kết giữa Phép Rửa trong Thánh Thần với các bí
tích khai tâm Kitô giáo, tuy rằng không hẳn là tất yếu.
Quan
điểm này dựa trên một điều nhất trí trong lối giải thích, đó là xem Phép Rửa
trong Thánh Thần, theo Tân Ước diễn tả, đúng hệt như những điều đã xảy ra trong
cuộc khai tâm Kitô giáo. Theo quan điểm này, Phép Rửa trong Thánh Thần liên kết
chặt chẽ với phép rửa trong nước. Mặc dầu có vài trường hợp ngoại lệ về thứ tự
của các sự kiện, chẳng hạn như sự kiện được mô tả trong Cv 8 (“Lễ Ngũ Tuần của
những người Samaria”) hay trong Cv 10 (“Lễ Ngũ Tuần của các dân ngoại”) nhưng
những trường hợp này được xem là ngoại lệ. Theo quy luật thông thường, thì
trước hết là hoán cải, rồi đến phép rửa trong nước, sau đó xức dầu và đặt tay,
tất cả những điều này hợp lại với nhau được hiểu là hình thức khai tâm Kitô
giáo hay Phép Rửa trong Thánh Thần. Lối giải thích thứ nhất cũng nhìn khía cạnh
cảm nghiệm khi gia nhập Kitô giáo hay Phép Rửa trong Thánh Thần như là một quy
luật, được xác nhận vì thường có những biểu hiện đặc sủng Thánh Linh đi kèm
theo lúc gia nhập Kitô giáo hay lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần. Không một ân
huệ nào được xác định như là dấu hiệu đương nhiên của Phép Rửa trong Thánh
Thần; điều này khác với các nhà thần học ngoài Công giáo đôi khi vẫn gắn kết
với ơn ngôn ngữ.
Viễn
ảnh về một “cuộc canh tân” đón nhận Thánh Thần, hay một “cuộc khuấy động” đặc
sủng vốn đã được ban phát nhưng vẫn còn “nằm yên”, có nền tảng Kinh Thánh là
bản văn Cv chương 4, kể lại việc những bạn đồng hành bị bắt bớ của Phêrô và
Gioan cầu nguyện sốt sắng và nhận được nguồn sức mạnh mới để rao giảng Tin
Mừng, và bản văn 2Tm 1,6 kể lại việc thánh Phaolô khích lệ anh Timothê, “phải
khơi dậy ân huệ (charisma) của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay
trên anh”, có lẽ liên quan đến một ân huệ đặc biệt của Chúa Thánh Thần được
trao ban cùng với việc truyền chức thánh.
Cha
George Montague và Cha Killian McDonnell củng cố luận đề của mình với những
bằng chứng có sẵn từ tám thế kỷ đầu của Giáo hội. Những bằng chứng mà họ trưng
dẫn cho thấy các bí tích Khai tâm thường được nhấn mạnh qua khía cạnh cảm
nghiệm, cộng với những biểu hiện của các đặc sủng Thánh Linh.[12]
Họ giả
thiết rằng, sự chuyển đổi từ rửa tội cho người lớn sang rửa tội cho trẻ nhỏ,
phản ứng chống lại phái Montanus với những thái quá ngôn sứ của nó, sự phát
triển của một Kitô giáo được hoàng đế hậu thuẫn, với hậu quả là nhiều người trở
lại đạo với mức độ chân thành khác nhau, và việc giảm thiểu những tiêu chuẩn
cần thiết để một người ngoại giáo có thể được lãnh phép rửa, tất cả những điều
ấy khiến cho người tín hữu ngày càng ít có cảm nghiệm về Thánh Thần và về những
ân huệ mà Ngài ban phát khi gia nhập Kitô giáo. Vậy, cuộc tuôn trào Thánh Thần
trong thời hiện đại được xem là khôi phục các cảm nghiệm đã mất nơi người tín
hữu.
Khẳng
định mạnh mẽ mà các tác giả đưa ra từ những nghiên cứu của mình là: Phép Rửa
trong Thánh Thần và biểu hiện của các đặc sủng Thánh Linh, như phong trào canh
tân diễn tả, không đơn thuần là những cảm nghiệm cá nhân, tuỳ hứng, cũng không
phải là một điều gì đó được liên kết với một linh đạo đặc biệt hoặc phong trào,
nhưng nó nằm trong bản chất của cuộc khai tâm Kitô giáo toàn vẹn, một thứ gì đó
mang tính quy phạm cho toàn thể Giáo hội. Các tác giả viết như sau:
Sức
mạnh vô song của Chúa Thánh Thần, biểu hiện qua rất nhiều đặc sủng khác nhau,
không phải là một điều gì đó ngớ ngẩn trong niềm tin tôn giáo. Nó cũng không
phải là một linh đạo nhiệm ý trong Giáo hội tựa như việc tận hiến cho Thánh Tâm
hay đi các chặng đàng thánh giá. Phép Rửa trong Thánh Thần không thuộc về loại
đạo đức cá nhân, nhưng, như chúng ta đã chứng minh, thuộc về phụng vụ chính
thức của toàn thể Giáo hội. Nó là linh đạo của Giáo hội. Với lối giải thích như
thế, nên nói rõ ràng rằng nó không phải là nét đặc trưng của riêng phong trào
canh tân đặc sủng. Ân huệ duy nhất mà phong trào canh tân đặc sủng mang lại cho
Giáo hội chỉ là sự nhận thức về Phép Rửa trong Thánh Thần mà thôi. Đấy là lý do
tại sao Phép Rửa trong Thánh Thần không được định nghĩa hay đồng hoá với bất kỳ
một nhóm hay một phong trào nào … Thực thế, Phép Rửa trong Thánh Thần có tính
quy phạm.[13]
Mặc dầu
cảm nghiệm đang đề cập ở đây có thể mang tính quy phạm, nhưng các hiệu quả của
nó lại thay đổi tuỳ theo kinh nghiệm vốn có từ trước của người lãnh nhận. Có
thể là một số đang lang thang ngoài đường, chẳng có tí chút cảm nghiệm nào của
Kitô giáo, thậm chí có thể là họ đã sa ngã trong vòng tội lỗi, thế rồi trong
một thời gian ngắn họ trở về với đức tin và cảm nghiệm Phép Rửa trong Thánh
Thần mặc dù chưa chính thức lãnh nhận bí tích Thanh tẩy, như đã xảy ra trường
hợp của ông Cornelio và gia đình của ông. Những người trong hoàn cảnh này cần
được hướng dẫn, đào tạo thêm, và tham gia vào đời sống Giáo hội, để ân sủng
Thánh Thần phát sinh hoa trái vững bền. Một số người khác, tuy vẫn mang danh là
tín hữu Công Giáo trong nhiều năm, nhưng chưa bao giờ biết đến một tương quan
cá vị đích thực với Chúa Kitô khi lãnh nhận Phép Rửa trong Thánh Thần. Một số
người nữa vốn được coi như là những tín hữu Công giáo hiểu biết và nhiệt thành,
có lẽ có một bằng cấp thần học, họ sống một cuộc đời lành thánh khi họ lãnh
nhận Phép Rửa trong Thánh Thần và cộng tác đắc lực với sứ mạng của Giáo hội.
Tất cả minh chứng cho tầm quan trọng của những thay đổi mà người tín hữu cảm
nghiệm được.
Ví dụ,
Đức Hồng y Léon Joseph Suenens sống một cuộc đời tận tuỵ với trách vụ được giao
phó, khẩu hiệu Giám mục của ngài là “trong Thánh Thần”. Và ngài kể lại, nhiều
thay đổi đã diễn ra trong lúc cầu nguyện cùng với những người khác để khấn xin
Thánh Thần ngự xuống.
Tôi
không nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần qua một phong trào canh tân. Như tôi
đã nói, Thánh Thần vẫn ở tâm điểm đời sống của tôi. …Tôi đã thấy cách sống của
một vài Kitô hữu, khi đem áp dụng sách Công vụ Tông đồ theo nghĩa đen, và điều
này bắt tôi đặt câu hỏi về đức tin của bản thân. Kết quả, tôi nhận thấy rằng
bản thân tin vào hoạt động của Chúa Thánh Thần, nhưng chỉ ở mức giới hạn thôi;
trong tôi, Thánh Thần đã không thể khơi gợi từ cây đàn organ tất cả các giai
điệu Ngài mong ước; vài ống sáo đã không vận dụng chức năng, chúng đã không
được sử dụng.[14]
Lối
giải thích thứ hai:
Một
cuộc phái cử Chúa Thánh Thần, khác với cuộc khai tâm Kitô giáo
Một lối
giải thích thứ hai về kinh nghiệm của Phép Rửa trong Thánh Thần lần đầu tiên
được đề nghị qua Cha Francis Sullivan, trong một bài đăng trong báo
Gregorianum, và sau đó soạn thành một quyển sách.[15] Tuy nhận thấy lối giải
thích thứ nhất được đa số chấp nhận nhất, và không từ chối giá trị của nó,
nhưng Cha Sullivan đề nghị rằng, có lẽ Phép Rửa trong Thánh Thần nên được coi
chính xác hơn như là một ân huệ đặc biệt của Thánh Thần, khác với cuộc khai tâm
Kitô giáo, hầu trang bị cho người lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt hay chuẩn bị
cho họ hướng tới việc sống gắn bó với Chúa Kitô. Cha Sullivan không đả kích
tính thành sự của các bí tích Khai tâm, cũng không nghi ngờ đặc tính ex opere
operato của các bí tích, nhưng cha đề nghị, phải nhìn cảm nghiệm về Phép Rửa
trong Thánh Thần dưới khía cạnh là một ân huệ ngoại thường của Thánh Thần, thay
vì chỉ như một sự kích hoạt những ân sủng còn đang ngủ yên của các bí tích Khai
tâm. Nhắm củng cố luận đề, cha Sullivan trích dẫn giáo huấn của Thánh Tôma về
cuộc phái cử vô hình của Thánh Thần (đối lại với cuộc phái của hữu hình trong
ngày Lễ Ngũ Tuần). Tôi sẽ trình bày vấn đề này kỹ hơn ở phần sau.
Cha
Sullivan đề xuất, dưới ánh sáng của học thuyết Tôma, có lẽ chúng ta cần hiểu
cảm nghiệm Phép Rửa trong Thánh Thần theo một cách khác. Tác giả cho rằng, ai
đã rửa tội thành sự thì hiển nhiên đón nhận Thánh Thần, và như thế người ấy đã
lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần rồi, dù rằng ân sủng có thể ở tình trạng ‘ngủ
yên’, đấy là cách tốt nhất để tôn trọng đặc tính ex opere operato, trao ban
hồng ân Thánh Thần không tham chiếu cảm nghiệm đang có của người thụ lãnh,
nhưng thay vào đó, ở đây Phép Rửa trong Thánh Thần được hiểu như một cuộc canh
tân trong Chúa Thánh Thần, và không tất yếu liên kết với bí tích Rửa tội và
Thêm sức.
Vì vậy,
tốt nhất chúng ta phải nói rằng, điều mà các Kitô hữu trong phong trào ‘canh
tân đặc sủng’ khấn xin và lãnh nhận là ‘một cuộc phái cử mới của Thánh Thần
mới’, hoặc ‘một cuộc tuôn trào mới của Thánh Thần’, đối với cuộc ‘canh tân
trong Thánh Thần’ của họ.[16]
Thay vì
quy chiếu những đoạn văn của sách Công vụ Tông đồ liên quan đến cuộc khai tâm,
lẽ ra cha Sullivan phải liên kết sự kiện các Kitô hữu cầu nguyện, khấn xin được
rửa trong Thánh Thần, với đoạn văn Cv 4,23-33; đoạn văn này thuật lại, các môn
đệ - những người đã được rửa trong Thánh Thần vào dịp lễ Ngũ Tuần - bây giờ
đang cầu nguyện cho một cuộc tuôn trào mới của Thánh Thần, để giúp họ tiến bước
trong hoàn cảnh khó khăn.
Với
quan niệm này, cảm nghiệm Phép Rửa trong Thánh Thần có lẽ không còn được xem là
mang tính quy phạm và liên kết mật thiết với việc hoàn trọn tiến trình gia nhập
Kitô giáo nữa; thay vào đó, cảm nghiệm nói ở đây sẽ bị giới hạn rất nhiều, mang
tính cá vị, không thể dự đoán. Từ đó kéo theo một lối nhìn khác nữa, Phép Rửa
trong Thánh Thần được xem là một linh đạo đặc thù, linh đạo đặc sủng, một trong
nhiều linh đạo.
Lối
giải thích thứ ba:
Một
cuộc tuôn trào Thánh Thần mang tính cánh chung để rao giảng Tin Mừng cho thế
giới trong ánh sáng của ngày Chúa quang lâm.
Một lối
giải thích thứ ba ra đời, do cha Peter Hocken chủ xướng, tuy không phủ nhận giá
trị của hai lối giải thích kia. Hocken nhận thấy rằng, lần đầu tiên kể từ thời
Giáo hội sơ khai, các đặc sủng Thánh Linh được cảm nghiệm ở tầm mức toàn cầu,
vượt xa sự xuất hiện của chúng trong truyền thống Công giáo trong cuộc đời của
rất nhiều vị thánh đã được Giáo hội tuyên phong. Hocken tin rằng, cuộc tuôn
trào Thánh Thần hiện nay có một “nét mới mẻ”, việc tái xuất hiện các đặc sủng ở
khắp nơi tiềm ẩn ý nghĩa cánh chung, và ông cũng tin rằng, nó được nối kết với
đỉnh cao của thời đại này vì Tin Mừng được rao giảng ở khắp mọi quốc gia, và
Dân Do Thái một lần nữa tiếp xúc với Chúa Kitô, hoán cải trở lại, tin nhận Đức
Giêsu là Đấng Mêsia của họ.
Trong
Tin Mừng theo thánh Matthêu và Máccô, ông Gioan Tẩy giả giới thiệu Đức Giêsu là
Đấng sẽ rửa trong Thánh Thần và lửa. Hocken cho rằng, sự kiện này “liên kết với
cuộc tuôn trào Thần Khí, được hứa trước cho thời đại của Đấng Mêsia và cuộc
phán xét cuối cùng”.[17] Phép Rửa trong Thánh Thần được nối kết với cuộc phán
xét và chia tách cuối cùng của nhân loại thành “lúa tốt”, sẽ được tập hợp trong
“kho lẫm”, hoặc thành “cỏ lùng”, sẽ bị đốt cháy trong “lửa không hề tắt”.
Hocken không xem cảm nghiệm Phép Rửa trong Thánh Thần là một cảm nghiệm cụ thể
khi canh tân đời sống cá nhân, cũng không xem là việc gởi Thánh Thần đến để
kiến tạo một bước mới trong sứ mạng phục vụ của cá nhân, hay đơn giản chỉ là
cuộc canh tân các ân sủng trong bí tích Khai tâm. Tác giả quan niệm, những lời
đầu tiên về Phép Rửa trong Thánh Thần mà Gioan đã nói tới gắn với viễn ảnh ngày
cánh chung. Ông cũng nhấn mạnh rằng, hai bản văn trong sách Công vụ sử dụng cụm
từ “được rửa trong Thần Khí” đều nói về các sự kiện có tầm mức quan trọng, là
việc hoàn trọn lời ngôn sứ đã báo trước về Đấng Mêsia cho nhà Israel vào ngày
Lễ Ngũ Tuần, và sự lớn mạnh của Vương quốc Mêsia, lan rộng tới các Dân ngoại
trong nhà ông Corneliô.
Hocken
kết luận: “Nếu những suy nghĩ mang tính cánh chung này là đúng, thì ý nghĩa của
việc ‘được rửa trong Thánh Thần’ ngày nay là cảm nghiệm của cá nhân về một ‘Lễ
Ngũ Tuần’ mới trong thân thể Chúa Kitô: đó là 1/ được tuôn đổ xuống trên thời
đại chúng ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa một cách tập thể, và 2/ một hình thức đặc
biệt chuẩn bị cho Giáo hội đón chờ ngày quang lâm của Đức Vua và Vương Quốc”.[18]
Luận
bàn về ba lối giải thích này
Lối
giải thích thứ nhất
Có một
lý do khiến cho lối giải thích thứ nhất trở nên thịnh hành và chiếm ưu thế
trong số những quyển sách thần học đầu tiên được xuất bản về chủ đề này. Không
chút nghi ngờ rằng, những ai lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức thành sự đều là
Kitô hữu, và trong một mức độ nào đó, Thánh Thần thực sự được ban cho họ;
nhưng, dường như, lại có một sự chênh lệch lớn giữa hoa quả dồi dào của ngày Lễ
Ngũ Tuần được kể lại trong Tân Ước, và sự vắng mặt rất nhiều các hoa quả này
trong đời sống của rất nhiều tín hữu Công giáo hôm nay.[19]
Thần
học về các bí tích của Giáo hội Công giáo xưa nay vẫn có lời giải thích cho sự
chênh lệch này, dù rằng hiếm khi nào được chú ý đúng như nó đáng được. Giáo hội
Công giáo xác tín chắc chắn, các bí tích hoạt động ex opere operato, nghĩa là
thực sự do chính ngay trong hành động. Ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi
khiến cho việc lãnh nhận bí tích không thành sự, và tính thành sự của nó không
tùy thuộc vào sự xứng đáng của thừa tác viên cử hành, cũng không tùy thuộc vào
việc chuẩn bị hữu hiệu nơi tâm hồn tín hữu. Hơn thế, nó chỉ đòi hỏi một thái độ
tối thiểu từ phía người thụ lãnh, hoặc trong trường hợp rửa tội cho trẻ em, chỉ
đòi hỏi đức tin của cha mẹ, người đỡ đầu, Giáo hội, và lời cam kết rằng, đứa
trẻ sẽ được hướng dẫn để thực thi các ân sủng của bí tích cách trưởng thành.
Đồng thời, Giáo hội cũng dạy rằng, hiệu quả thực thụ, hoa trái của bí tích thể
hiện trong đời sống cá nhân, được xác định ở phạm vi rộng lớn hơn, qua những
nhân tố khác, ex opere operantis, và thực tế là, việc chuẩn bị cũng như tư cách
của thừa tác viên, phẩm chất của cộng đoàn đức tin, và quan trọng nhất là thái
độ sẵn sàng và chủ ý của người thụ lãnh, sẽ xác định phần lớn cảm nghiệm và
hiệu quả của các ân sủng được ban trong bí tích.
Giáo lý
Hội thánh Công giáo dạy rằng:
Khi một
bí tích được cử hành theo đúng ý hướng của Hội thánh, thì quyền năng của Đức
Kitô và của Thần Khí Người hành động trong và qua bí tích ấy, chứ không lệ
thuộc vào sự thánh thiện bản thân của thừa tác viên. Tuy nhiên các hoa trái của
các bí tích cũng tuỳ thuộc vào sự chuẩn bị nội tâm của người lãnh nhận (1128).
Ý tưởng
thường được truyền thụ cho các người tín hữu Công giáo là các bí tích không lệ
thuộc vào thái độ xứng hợp của thừa tác viên, nhưng chúng hoạt động cách tự
động. Nhưng xem ra không được thông tin và áp dụng trong thực hành mục vụ về sự
cần thiết phải có tâm tình chuẩn bị về phía những người thụ lãnh bí tích và
phẩm chất của cộng đoàn đức tin nơi họ lãnh nhận. Dẫu biết rằng, việc chuẩn bị
tâm hồn nơi kẻ thụ lãnh theo lý thuyết là quan trọng, nhưng thực tế hiếm khi
người ta chuẩn bị kỹ càng, xứng hợp để lãnh nhận bí tích.
Những
điều thánh Tôma đề cập trong bộ Summa Theologiae, đặc biệt trong phần III của
Tổng luận (ST III, qq.66-71) là một trong những khảo luận quan tâm nhiều nhất
liên quan đến việc chuẩn bị cho người thụ lãnh, thường được diễn tả qua những
gì bản thân cảm nghiệm, hiệu quả trong cuộc sống. Trong những quaestio này,
Thánh Tôma phân tích chi tiết các trở ngại, ngăn cản hiệu lực bí tích, ngay cả
khi đã lãnh nhận thành sự: thiếu lòng tin, hiểu biết, niềm khát khao sống một
cuộc đời mới, hay thiếu thái độ ăn năn, hoặc bỏ qua việc trừ tà và để các ảnh
hưởng của tà thần ngăn cản chúng ta đáp lại ân sủng của bí tích. Thánh Tôma nói
rõ rằng, vào cùng một ngày nhất định, có thể rất nhiều người cùng lãnh nhận bí
tích thành sự, nhưng hiệu quả của bí tích lại rất khác nhau; những ai càng khao
khát đón nhận ơn Chúa bao nhiêu, thì càng được thụ hưởng nhiều ơn Chúa bấy
nhiêu.
Lối
giải thích thứ nhất khẳng định rằng, cảm nghiệm đương thời về Phép Rửa trong
Thánh Thần thực sự là một cuộc canh tân các ân huệ Thánh Thần, giờ đây các ân
huệ này được đánh thức khỏi tình trạng ‘còn đang ngủ’ hay ‘còn nhạt nhẽo’, với
một huấn giáo sơ đẳng về đạo lý, cầu nguyện, mời gọi sống đức tin, hoán cải,
cam kết gắn bó với Đức Kitô mật thiết hơn, và khao khát thực thi các ân huệ
Thánh Thần; đồng thời người tín hữu cần phải thường xuyên liên kết với cộng
đoàn, các nhóm cầu nguyện, hay các mạng lưới sống đức tin, nhiệt thành thúc
giục một cuộc canh tân và tiếp tục “sống trong Thần Khí”.[20] Đừng nên nghĩ
tưởng rằng việc chuẩn bị như thế là đảm bảo có một cuộc canh tân. Như thánh
Gioan Thánh Giá thường nói, chúng ta chuẩn bị hết mình cho tác động của Thiên
Chúa, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng chọn lựa, quyết định hành động. Chuẩn
bị kỹ lưỡng cho một cuộc canh tân và hiệu quả bí tích là rất cần thiết, nhưng
nó chỉ là một sự chuẩn bị hầu đón nhận sự tác động của Thiên Chúa mà thôi.
Lối
giải thích thứ hai
Theo
lối giải thích thứ hai, hiểu “Phép Rửa trong Thánh Thần là một cuộc canh tân
các bí tích Khai tâm Kitô giáo” cũng đúng, nhưng sẽ thích hợp hơn nếu xem đấy
là một cuộc “phái cử Thánh Thần” như Thánh Tôma Aquinô diễn tả. Điều này tránh
được nguy cơ xuất hiện những nghi ngờ về tính hiệu lực của các bí tích khai
tâm. Một điểm mạnh khác ở lối giải thích thứ hai là thừa nhận có rất nhiều cảm
nghiệm khác nhau về Phép Rửa trong Thánh Thần, vài cảm nghiệm trong số đó có lẽ
được hiểu tốt nhất là những cuộc phái cử mới của Thánh Thần, nhằm củng cố một
sứ mạng mới hay canh tân đời sống Kitô hữu, và không đơn thuần chỉ là một cuộc
canh tân các ân huệ đã lãnh nhận trong bí tích khai tâm. Dựa trên đạo lý phong
phú của Thánh Tôma Aquinô , lối giải thích thứ hai đã có công lớn vì cho thấy
rằng quan điểm của mình nằm trong truyền thống Công giáo. Về điểm này, nên phải
lưu ý rằng, cảm nghiệm về Phép Rửa trong Thánh Thần mang nhiều ý nghĩa khác
nhau, cũng tương tự như hồi Giáo hội sơ khai. Thật vậy, các cảm nghiệm thì
thiên hình vạn trạng, tùy thuộc vào nhiều biến cố. Đối với một vài người, có sự
biến đổi bất chợt và nhanh chóng đáng ngạc nhiên, được nhận thấy qua nhiều hoa
trái Thánh Thần khác nhau, như chúng ta đã nhắc trên đây. Đối với những người
khác, hoa trái Thánh Thần xem ra xuất hiện từ từ. Đối với những người khác nữa,
lại là bước khởi đầu của một cuộc canh tân nào đó, rồi tiếp đấy phải được nuôi
dưỡng thêm để đạt hiệu quả trọn vẹn, nhờ kiên trì cầu nguyện, đón nhận thêm
những hướng dẫn và giúp đỡ của cộng đoàn, vân vân. Đối với những người chưa có
sự chuẩn bị xứng hợp hoặc không kỹ lưỡng, có thể ân huệ Thánh Thần sẽ ít hiệu
quả. Đối với vài người đặc biệt, có thể họ sẽ cảm nghiệm về một cuộc “phái cử
mới của Thánh Thần” theo như lối giải thích của nhóm thứ hai.
Theo
tôi nghĩ, khi một thái độ tối thiểu được chuẩn bị thích hợp và ý chí ngay lành,
thì cái được cảm nghiệm phổ biến nhất về Phép Rửa trong Thánh Thần là một tác
động của Thiên Chúa, làm canh tân hay hiện thể hoá các ân sủng của bí tích Khai
tâm. Cũng có thể xảy ra là Thánh Thần trao ban những đặc sủng và ân huệ, bao
hàm một lời mời gọi người thụ lãnh đảm trách một sứ vụ hay bước ơn gọi đặc thù,
theo như lối giải thích này thừa nhận.
Điểm
yếu của lối giải thích thứ hai là không trực tiếp xét đến sự chênh lệch rất lớn
giữa một bên là những điều được mô tả trong Tân Ươc là cuộc khai tâm Kitô giáo
cùng với những hoa quả phát sinh như được chứng minh rõ ràng trong những thế kỷ
đầu tiên của Giáo hội; bên kia, kinh nghiệm rất phổ biến của nhiều người tuy đã
lãnh bí tích thành sự, mà vẫn ít có cảm nghiệm về mối tương quan khăng khít với
Chúa Kitô và Chúa Cha, cũng không thấy mình cầu nguyện sâu sắc hơn, không nhận
ra sự tác động của Thánh Thần, và cũng không thấy bản thân khát khao trở nên
một chứng nhân cho Chúa Kitô giữa lòng thế giới. Lối giải thích thứ hai cũng
không trực tiếp đụng đến một sự kiện là phần lớn những người đã lãnh nhận bí
tích thành sự cảm nghiệm được trong cuộc canh tân, hiện thực hoá các ân huệ bí tích
Rửa tội và Thêm sức, là một thứ gì đó rất đặc biệt, trước đây họ chưa bao giờ
cảm nghiệm được, và đơn giản “làm cho họ lớn hơn tới một mức nào đó”, giống như
những bước khởi đầu trong đời sống Kitô hữu được Tân Ước đã miêu tả. Đối với
phần lớn những người ấy, Phép Rửa trong Thánh Thần không đẩy họ từ một đời sống
Kitô hữu nhiệt thành tiến tới một tình trạng mới cao hơn, hay đảm trách một sứ
vụ mới, bước theo một ơn gọi đặc biệt. Phép Rửa trong Thánh Thần là sự kích
hoạt hoá một vài hoa trái căn bản mà Tân Ước quy gán cho bước khai tâm Kitô
giáo.
Một
điểm yếu khác nữa của lối giải thích thứ hai là họ gom việc đào tạo và chuẩn bị
thích hợp cho lãnh vực huyền nhiệm, không thể dự đoán vào trong cảm nghiệm mở
ra cho tất cả mọi người.[21] Tôi nghĩ hệ quả thực tiễn của quan điểm sẽ là sự
giảm thiểu đáng kể con số những người cảm nhận được đã xảy ra một cuộc canh tân
hiệu quả, hoặc đã có một cuộc phái cử mới của Thánh Thần. Vì thế, theo thiển ý,
có những hậu quả mục vụ nghiêm trọng được gán cho lối giải thích này nếu nó
được nhiều người chấp nhận, mặc dầu nhiều cuộc nghiên cứu theo lối này, xét
trong chính nó, không thể giải quyết các vấn nạn chân lý.
Đồng
thời, như tôi đã lưu ý, giáo huấn của Thánh Tôma về những cuộc phái cử
(mission) mới của Thánh Thần lại ủng hộ cho lối giải thích thứ hai này. Mặc dầu
rằng, nếu tìm hiểu bản văn này kỹ hơn, có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy những lý
chứng ủng hộ cho một cuộc canh tân ân sủng nền tảng, nhưng bản văn chủ yếu tập
trung vào các ơn gọi và sứ mạng đặc biệt, tựa như: ơn gọi sống tu trì, tử đạo,
hay lời mời gọi cộng tác với người nghèo. Bản văn của thánh Tôma đưa ra nhiều
chi tiết hơn.
Missio
(phái cử) có ý nghĩa căn bản như sau: một kẻ được phái đi hoặc là bắt đầu hiện
diện ở nơi mà trước đây anh ta chưa có mặt, như xảy ra nơi các thụ tạo; hoặc
vẫn hiện diện ở nơi mà trước đây mình đã ở, nhưng với một cách thức mới mẻ. Sự
phái cử được áp dụng ngôi vị Thiên Chúa theo nghĩa này. Vì thế, nhìn từ phía kẻ
được phái cử, Missio ngụ ý hai điều, sự cư ngụ của ân sủng và một cuộc canh tân
nào đó nhờ ân sủng. Vì thế, missio vô hình được gởi đến tất cả những ai hội tụ
cả hai điều kiện này [có sự cư ngụ của ân sủng, có một cuộc canh tân nhờ ân
sủng] … Missio vô hình cũng diễn ra như một quá trình thăng tiến nhân đức hoặc
gia tăng ân sủng …. Tuy nhiên, missio vô hình chủ yếu xuất hiện như khả năng
đặc biệt của ai đó, thành thạo thực hiện một hành vi mới, hoặc đạt được tình
trạng ân sủng mới; ví dụ như, một người thường xuyên làm phép lạ, nói lời ngôn
sứ, có lòng nhiệt thành, quảng đại, liều mình tới mức nguy hiểm, sẵn sàng chịu
tử đạo, quyết tâm từ bỏ mọi tài sản trần thế, hoặc đảm trách bất kỳ một công
việc khó khăn nào.[22]
Có thể
phân biệt trong đoạn văn này ba loại missio vô hình khác nhau.[23] Một là cuộc
canh tân ân sủng nền tảng, mặc dù không rõ thánh Tôma muốn nói gì ở đây. Hai là
một loại missio bao hàm sự tiến triển nhân đức hoặc gia tăng ân sủng. Tuy
nhiên, con đường thứ ba mà Thánh Tôma nói “missio vô hình … chủ yếu xuất hiện”
là tạo ra một khả năng hành động theo một cách thức mới, hay đạt được một tình
trạng mới của ân sủng. Một trong những ví dụ thánh Tôma đưa ra để làm sáng tỏ ý
niệm “một tình trạng mới của ân sủng” là sự thành thạo khi làm phép lạ hay nói
lời ngôn sứ (khác với những người chỉ họa thuần thi hành việc đó). Một ví dụ
khác Tôma đưa ra để làm sáng tỏ việc missio vô hình thường xuất hiện là lời mời
gọi sẵn sàng từ bỏ tất cả tài sản, như lối sống tu trì, hay một ân huệ đặc biệt
nhằm chuẩn bị cho một ai đó đối diện với phúc tử đạo, hoặc một ân huệ đặc biệt
làm cho một ai đó dám đảm trách một nhiệm vụ vô cùng khó khăn.
Khi đọc
đoạn văn này kỹ hơn, chúng tôi nhận thấy, dường như thánh Tôma nghĩ đến rất
nhiều các hành động khả thể của Thánh Thần được gọi là những missio vô hình,
nhưng chỉ có một hành động được hiểu như là căn bản đối với việc khai tâm Kitô
giáo, song đó lại là điều không được tác giả triển khai. Ý nghĩa thứ hai dường
như là những bước tiến triển, chứ không phải là căn bản đối với việc khai tâm
Kitô giáo. Ý nghĩa thứ ba rõ ràng là những ân huệ và những lời mời gọi khác
thường, và hẳn nhiên không được xếp vào việc khai tâm Kitô giáo.
Do đó,
dường như Tôma quan niệm những missio vô hình phổ biến nhất gắn liền với những
ơn gọi đặc biệt và không gắn với cuộc canh tân các ân sủng bí tích Khai tâm.
Điều này không có ý nói rằng, khi một ai đó lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần, có
lẽ họ không nhận được một ân huệ hay một ơn gọi trổi vượt, nhưng đúng hơn điều
này ám chỉ rằng ân huệ và ơn gọi đặc biệt không phải là một cảm nghiệm phổ quát
cho mọi người.
Trong
khi bản văn mà lối giải thích thứ hai trưng dẫn có liên quan đến phần nghiên
cứu của chúng ta, thì tôi nghĩ rằng, các bản văn của Tôma mà tôi trưng dẫn
trong phần phê bình về lối giải thích thứ nhất, trích từ phần III của bộ Tổng
luận (ST III, qq. 66-71) đưa ra những lý do rõ ràng và thuyết phục, giải thích
tại sao hoa trái và hiệu lực của các bí tích Khai tâm Kitô giáo có thể bị, và
thường bị ngăn cản, rồi sau đó có thể không bị ngăn cản nữa. Như tôi đã nhấn
mạnh, thánh Tôma chỉ ra rằng, thiếu đức tin, thiếu lòng sám hối chân thành,
thiếu hiểu biết, thiếu quyết tâm xa tránh tà thần, thiếu lòng khát khao được
sống một cuộc đời mới, tất cả những điều đó khoá cản hoa trái của bí tích, ngay
cả khi người ta lãnh nhận thành sự. Thánh nhân dạy rằng, khi những rào cản và
ngăn trở này được loại bỏ đi, thì các hoa trái của bí tích lại phát huy. Đồng
thời, thánh nhân nói rằng, người ta cảm nghiệm về hoa trái của các bí tích rất
khác nhau, tuỳ theo độ sâu của niềm khát mong được hưởng ân sủng của bí tích,
và dĩ nhiên cũng tuỳ vào hoạt động của Thiên Chúa.
Trong
những phản ứng tranh cãi vào thời Cải Cách, Giáo hội Công giáo có khuynh hướng
nhấn mạnh tới khía cạnh ex opere operato của bí tích, dẫn tới hậu quả là tầm
quan trọng lớn lao của việc chuẩn bị tích cực nơi người thụ lãnh thường không
được nhấn mạnh đủ, để giúp họ hiểu biết và thực hành mục vụ.[24]
Những
người ủng hộ cho lối giải thích thứ hai sử dụng phương thức phân biệt mang tính
kinh viện về các loại ân sủng, đôi khi cũng chỉ ra rằng, ân sủng bí tích là một
hình thái đặc biệt của ơn thánh hoá (gratia gratum faciens) và thiết yếu đối
với bí tích, trong khi đó những ân huệ đặc biệt (đặc sủng/đoàn sủng) thuộc một
loại khác (gratiae gratis datae)[25] và không được coi như là thiết yếu đối với
ân sủng của bí tích Rửa tội và Thêm sức; vì thế các đặc sủng phải được xem xét
dưới khía cạnh liên kết không thiết yếu với bí tích, nhưng thay vào đó, được
xem là hiệu quả của một cuộc “sai phái” mới hoặc “đặc cử” mới của Thần Khí.
Trong khi tác phẩm của McDonnell tập trung vào các đặc sủng, và ngụ ý rằng
chúng có tính thiết yếu đối với các ân sủng của bí tích Khai tâm, thì dường như
đối với tôi, vấn đề có thể được giải quyết thoả đáng, một khi chấp nhận sự phân
biệt giữa thiết yếu và thứ yếu. Một trong những lập trường ủng hộ mạnh mẽ lối
giải thích của Sullivan chấp nhận như sau:
Cũng có
một cách trả lời khác cho câu hỏi ‘việc cảm nghiệm được Thánh Thần hiện xuống
(hay cảm nghiệm Lễ Ngũ Tuần) có thực sự là một ân sủng của bí tích không?’, và
câu trả lời được đánh giá cao là “có”. Nếu điểm cốt yếu trong cảm nghiệm Lễ Ngũ
Tuần bị giới hạn, chỉ xem là một bước phát triển chung trong ân sủng thánh hoá,
luôn được cắm rễ ở mức độ nào đó trong Phép Rửa, thì giải quyết vấn đề không có
khó khăn gì. Các đặc sủng sẽ không phải là biểu hiện chính yếu của bước phát
triển, canh tân ân sủng bí tích. Nói chung, cảm nghiệm Lễ Ngũ Tuần có thể được
giải thích là ân sủng bí tích, chỉ khi các đặc sủng được phân biệt cách rõ ràng
là mang tính thứ yếu đối với những cảm nghiệm này.[26]
Nếu
chúng ta đưa ra những lối phân biệt chặt chẽ theo kiểu kinh viện, thì tôi không
xem vấn đề tìm hiểu các ân sủng chiêm niệm, vốn đã rất rõ ràng trong cảm nghiệm
Lễ Ngũ Tuần – tức là một cuộc tiếp xúc thâm sâu với Chúa Kitô, Đấng phục sinh,
lên trời và thực hiện Phép Rửa trong Thánh Thần, đồng thời gợi lên tâm tình tán
dương, vui mừng, can đảm, đức độ, làm Lời Kinh Thánh trở nên “sống động”, khao
khát cầu nguyện và hoà vào cộng đoàn Kitô hữu – là có tính thiết yếu đối với
việc rửa trong Thánh Thần và sẵn có nơi mỗi người. Đồng thời, chúng ta có thể
thấy những biểu hiện “thường xuyên” của đặc sủng, xét như là yếu tố thứ yếu và
được phân phối khác nhau. Mỗi người trong bí tích Rửa tội và Thêm sức nhận được
ân sủng thánh hoá như nhau, dầu rằng, như thánh Tôma đã dạy, sẽ có sự khác biệt
về cảm nghiệm và hoa trái tuỳ thuộc vào các yếu tố mà tôi đã đề cập vài lần ở
trên. Cuộc canh tân các ân sủng khai tâm Kitô giáo này, tức canh tân hồng ân
thánh hoá, sẽ giống về loại nhưng khác về hiệu quả và hoa trái, một lần nữa
phải nói là tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Biểu hiện của đặc sủng sẽ không như
nhau, nhưng rất khác biệt tuỳ thuộc không chỉ là sự chuẩn bị của cá nhân mà còn
tuỳ thuộc vào sự phân phối các ân huệ cụ thể của Thánh Thần. “Có nhiều đặc sủng
khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí … nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra
tất cả những điều đó, phân chia mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (1Cr
12,4-11). Chúng ta có thể chấp nhận những đặc sủng khác biệt này là thứ yếu, và
là những ví dụ về sứ mạng mới hay về các cuộc phái cử mới của Thần Khí mới,
đồng thời biết rằng, những ân sủng cốt lõi (gồm các ân huệ được Isaia nhắc đến)
là những ân sủng bí tích của việc khai tâm Kitô giáo, được làm mới hơn hay phát
triển hơn.[27]
Mặc dầu
các đặc sủng có thể được xem là yếu tố phụ, chúng vẫn mang tính quy phạm, quan
trọng và hữu ích mục vụ,[28] đúng như thánh Phaolô nói rằng, chúng ta “hãy khao
khát các ân huệ của Thần Khí” (1 Cr 14,1). Một lần nữa tôi nhớ lại lời mời gọi
của Đức Gioan Phaolô II dành cho mọi Kitô hữu: “Hãy mở lòng mình ra cho các ân
huệ của Thần Khí! Hãy đón nhận những đặc sủng với lòng biết ơn và vâng phục, mà
Thần Khí vẫn không ngừng ban phát cho chúng ta!”[29]
Lối
giải thích thứ ba
Lối
giải thích thứ ba hướng chúng ta chú ý tới viễn ảnh cánh chung mà Kinh Thánh đã
diễn tả về việc được lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần, nhắc nhớ chúng ta về “thế
giới quan của Kinh Thánh” vốn nối kết Tin Mừng với Ngày của Chúa, nối kết với
cuộc phán xét chung thẩm và việc tách biệt nhân loại thành những người được cứu
độ và những người bị luận phạt. Lối giải thích này nhấn mạnh đến tính cấp bách
của sứ mạng loan báo Tin Mừng. Nó không khẳng định là một lời giải thích đầy
đủ, và cũng chẳng phải là một lối giải thích độc nhất. Theo dõi tin tức sự kiện
đương thời, liên quan đến quốc gia Israel hay liên quan đến việc “bội giáo hàng
loạt”, “sự tháo cởi các ràng buộc của sự dữ”, hay việc rao giảng Tin Mừng khắp
thế giới, thực sự là những dấu chỉ về việc chúng ta đang đi tới cái cuối cùng
của ngày cánh chung.
Có thể
cảm nghiệm phổ quát về Phép Rửa trong Thánh Thần và cảm nghiệm về các ân huệ
của Thánh Thần (vốn đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XX và không phải đơn giản là một
cuộc canh tân) mang một ý nghĩa cánh chung (thêm vào khung cảnh Kinh Thánh của
nó). Nhưng thực tế, chúng ta có những lối giải thích khác chắc chắn hơn. Dường
như cách giải thích của đức giáo hoàng Gioan Phaolô II về “những dấu chỉ thời
đại” trong Tông huấn Novo millennio ineunte, là một lời giải
thích đầy đủ mà không cần nại đến các suy tư lý thuyết của cánh chung luận.
Trước bối cảnh các quốc gia Kitô giáo sụp đổ, Giáo hội buộc phải tái khám phá
nguồn sức mạnh đích thực của mình, khi mà Giáo hội bị tước đoạt hết ảnh hưởng
chính trị, sự trù phú vật chất, suy đồi đạo đức, sa vào thói giả hình, gian
dối. Rõ ràng, cần phải có một phong trào canh tân đời sống Tin Mừng – và phong
trào ấy diễn ra như thế nào được, nếu chúng ta không tái khám phá lòng nhiệt
thành của Giáo hội thời sơ khai, thời mà cộng đoàn dân Chúa hăng say, phấn
khởi, sẵn sàng hiến thân, hầu có thể loan truyền Chúa Kitô cho mọi người. Đây
cũng là thời mà cả bốn vị Giáo hoàng xác định là có sức mạnh và sự tác động của
Thánh Thần, như hoa trái của Lễ Ngũ Tuần. Ta có thể hiểu Phép Rửa trong Thánh
Thần theo nghĩa này không?
Đối với
những người khó chấp nhận cảm nghiệm lễ Ngũ tuần như là quy phạm (chẳng hạn
những người theo lối giải thích thứ nhất), bởi vì người ta nhận thấy rằng bao
nhiêu thế kỷ đã trôi qua mà rất ít người cảm nghiệm được hoạt động mạnh mẽ của
Thánh Thần trong cuộc sống, thì lối giải thích thứ ba xem ra hữu ích. Theo quan
niệm này, chúng ta có thể nói rằng, đây không chỉ là một cuộc canh tân nhưng là
một thứ gì đó mới mẻ thực sự. Thánh Thần đang khôi phục lại mọi khía cạnh hoạt
động của Người, hầu đối lại tình trạng sụp đổ của các quốc gia Kitô giáo, cùng
với cuộc trỗi dậy của các nền văn hoá ngoại giáo và những nhu cầu khẩn thiết
của Giáo hội.
Kết
luận
Theo
thiển ý, trong ba lối giải thích kể trên, lối giải thích đầu tiên là phù hợp
nhất để nói về điều mà hầu hết mọi người cảm nghiệm được khi họ lãnh Phép Rửa
trong Thánh Thần, một cuộc canh tân hay hiện thể hoá các ân sủng của bí tích
Rửa tội và Thêm sức còn đang trong tình trạng ‘ngủ yên’, vì nhiều lý do như
Thánh Tôma đã đề cập. Tôi cũng nghĩ rằng, rất nhiều bằng chứng về điều người ta
cảm nghiệm khi lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần, qua dòng thời gian, đã được tìm
hiểu, thu thập, xuất bản và tóm tắt, sẽ xác minh cho nhận định này. Những bằng
chứng đó hầu như phản ánh bức tranh về các Kitô hữu đã gia nhập Giáo hội, như
thấy trong Tân Ước, mà không phải là một ơn gọi hay sứ mạng đặc biệt nào.[30]
Điều này không có ý nói rằng, chẳng một ai khi lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần
cảm nghiệm được một cuộc đặc cử Thánh Thần, như lối giải thích thứ hai đề cập,
hầu tăng sức hoặc trang bị cho họ bước vào một sứ mạng đặc biệt, hay giúp họ
sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô hơn nữa, hay hoạt hoá một đặc sủng nào
đó, phân biệt với đời sống Kitô hữu thông thường, như được kể lại trong nhiều
trình thuật Tân Ước.
Lối
giải thích thứ ba nhận ra đặc tính cánh chung của Phép Rửa trong Thánh Thần,
như Kinh Thánh diễn tả, và cũng nhận ra những dấu chỉ cánh chung đặc biệt trong
mọi thời đại. Nhưng, điều này phải được hiểu theo một nghĩa rất chuyên sâu.
Cả ba
lối giải thích này đều có giá trị, góp phần mở rộng sự hiểu biết của chúng ta
về những gì đang diễn ra nơi Phép Rửa trong Thánh Thần; đồng thời, cung cấp cho
chúng ta những công cụ để suy tư thần học sâu hơn nữa. Như tôi nghĩ rằng, lối
giải thích đầu tiên xem ra vẫn gần gũi nhất với giá trị chúng ta đang nói đây.
Hơn thế nữa, như đã trình bày ở trên, các bản văn của Thánh Tôma về hoa trái bí
tích, cung cấp nguyên liệu thần học để suy nghĩ sâu hơn, xác định cuộc canh tân
hay hiện thể hoá ân sủng bí tích này là gì; các bản văn ấy giúp chúng ta nhận
ra tầm quan trọng của Phép Rửa trong Thánh Thần, hơn là các bản văn bàn đề
“missio vô hình” được trích dẫn làm cơ sở cho lối giải thích thứ hai, mặc dầu
cả hai nhóm bản văn đều giúp soi sáng vấn đề. Đạo lý của thánh Tôma gần như ủng
hộ mạnh mẽ quan điểm cho rằng các bí tích Khai tâm Kitô giáo có thể đã được
lãnh nhận thành sự nhưng chưa phát sinh hoa trái thiêng liêng tức thời nơi
người tín hữu. Đạo lý của thánh nhân cũng cho thấy: những ai ban đầu lãnh nhận
các bí tích Khai tâm “không hiệu quả”, thì sau này vẫn có thể cảm nghiệm được
hiệu quả của bí tích, khi những yếu tố ngăn trở được tháo gỡ. Thánh Tôma cho
rằng, có nhiều cảm nghiệm thiêng liêng và hoa trái khác nhau nơi những người đã
lãnh nhận bí tích thành sự, tất cả còn tuỳ thuộc vào mức độ khát khao, nhiệt
thành và hiểu biết nơi các người lãnh bí tích.
Vì thế
rõ ràng là thánh Tôma đưa ra những nền tảng thần học chắc chắn cho quan điểm
sau đây: cảm nghiệm về Phép Rửa trong Thánh Thần thời nay [hoặc ít ra là hầu
hết] là sự bung ra của các ân sủng bí tích còn đang ngủ yên, không hiệu quả,
hoặc hiệu quả giới hạn, bởi thiếu hiểu biết, khát khao và ước muốn, v.v… Thế
nên, điều diễn ra trong hoàn cảnh hiện thời có thể được hiểu là gia tăng mức độ
hiểu biết, lòng khát khao, tinh thần sám hối, và đức tin nơi nhiều người, nhờ
liên kết với những Kitô hữu đã canh tân trước, nhờ sự hướng dẫn chuẩn bị kỹ
lưỡng để lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần, nhờ chứng tá của những người đã cảm
nghiệm được, và nhờ chứng tá của cả cộng đoàn cầu nguyện, cho thấy một đời sống
mới đã được canh tân hoàn toàn.[31]
Đồng
thời, như Sullivan lập luận, có thể hiểu rằng, trong số những người lãnh nhận
Phép Rửa của Thánh Thần, có vài người (theo lối giải thích thứ hai) cảm nghiệm
được hoa trái ân sủng bí tích, có lẽ phải trải qua tiến trình tiệm tiến nhiều
năm, và điều họ đang cảm nghiệm được có thể gọi một cách chính xác là một “cuộc
phái cử mới”, hay một sự phát huy vài ân sủng hoặc đặc sủng Thánh Linh, thúc
đẩy kẻ thụ lãnh sống tương quan mật thiết hơn, hăng say phục vụ hơn trong thân
thể Chúa Kitô.
Vì văn
minh Kitô giáo sau 1700 năm đang sụp đổ và một nền văn hoá ngoại giáo đang bao
trùm thế giới, thậm chí làm gia tăng “nền chuyên chính của chủ nghĩa tương đối”
mà Đức Bênêđictô cảnh báo chúng ta, Giáo hội ở Tây Phương đang đối diện với
những hoàn cảnh rất giống với thực trạng mà Giáo hội thời sơ khai đã đối diện.
Các Đức Giáo hoàng gần đây không ngừng lên tiếng mời gọi hướng tới một Lễ Ngũ
Tuần mới, như là nhu cầu cấp thiết nhất của Giáo hội hôm nay. Lời mời gọi ấy có
thể được phát huy bằng một lối hiểu biết thần học sâu sắc hơn về cái mà hàng
triệu tín hữu đang cảm nghiệm: Phép Rửa trong Thánh Thần.
Như
McDonnell, người mạnh mẽ ủng hộ lối giải thích đầu tiên, đã phát biểu minh mẫn
rằng: “Dù hiểu việc Thánh Thần xuất hiện như là sự đánh thức các ân sủng bí
tích, hoặc chỉ là làm trổ sinh hoa trái cầu nguyện đi nữa, chuyện quan trọng là
điều đó diễn ra”.[32]
[1] Hồng y Stanislaw Rylko, “Biến cố ngày 30 tháng
05 năm 1988 và những hệ quả Giáo hội học và đối với đời sống Giáo hội”, Các
Phong trào Giáo hội trong những bận tâm Mục vụ của các Giám mục (Vatican: Hội
đồng Giáo hoàng về Giáo dân, 2000), 45.
[2] Vẫn có nhiều cuộc thảo luận tìm hiểu xem thuật
ngữ nào thích hợp nhất để diễn tả cảm nghiệm này. Mục đích chính yếu của bài
viết không phải là bàn luận về vấn đề thuật ngữ, dù biết rằng cũng cần có một
cuộc thảo luận như thế, nhưng thay vào đó bài viết trình bày những cách thức
thần học hiểu về bản chất của cảm nghiệm này. Tôi sẽ sử dụng cụm từ vẫn được
xem là cách thức phổ biến nhất ám chỉ cảm nghiệm này ở Bắc Mỹ, đó là “Phép Rửa
trong Thánh Thần”.
[3] Fr. Francis Sullivan, SJ, “Phép Rửa trong Thánh
Thần”: một lối giải thích của Thần học Công giáo về cảm nghiệm Lễ Ngũ Tuần”,
Gregorianum 55, no. 1 (1974): 49–68. Rất nhiều quyển sách được trích dẫn dưới
đây vừa có những bằng chứng về hiệu quả của việc lãnh Phép Rửa trong Thánh
Thần, qua những người đã cảm nhận được như thế, vừa có những lời giải thích
thần học vắn gọn về những hiệu quả ấy. Các bằng chứng và lời giải thích thần
học này giống nhau đáng kể. Đáng chú ý rằng: nhiều nhà thần học viết về Phép
Rửa trong Thánh Thần, chẳng hạn như Fr. Raniero Cantalamessa và Léon Joseph
Cardinal Suenens, đã nhiệt thành sống cuộc đời tận hiến trong Giáo hội Công
giáo và chứng tỏ cho một “bước ngoặt” quan trọng khi họ cầu nguyện xin có được
một cuộc canh tân bí tích Rửa tội đã lãnh nhận, được hiểu là ân sủng vào lúc
gia nhập Kitô giáo. Cf. Raniero Cantalamessa, Sober Intoxication of the Spirit:
Filled with the Fullness of God, trans. Marsha Daigle-Williamson (Cincinnati:
Servant/St. Anthony, 2005) and Léon Joseph Cardinal Suenens, A New Pentecost?
trans. Francis Martin (New York: The Seabury Press, 1975).
[4] Kevin and Dorothy Ranaghan, Catholic
Pentecostals (New York: Paulist, 1969), 151.
[5] Các thông kê này được biên soạn bởi một tổ chức
quốc tế có sự chấp thuận của Giáo hoàng, phục vụ cho chương trình canh tân,
International Catholic Charismatic Renewal Services có nhiều văn phòng ở
Vatican (www.iccrs.org ). Xem thêm, Peter Hocken, “Ảnh hưởng của Phong trào
canh tân đặc sủng đối với Giáo hội Công giáo Rôma”, Journal of Beliefs and Values
25, no. 2 (August 2004): 205-16.
[6] David B. Barrett, George T. Kurian, and Todd M.
Johnson, World Christian Encyclopedia, 2nd ed. (New York: Oxford University
Press, 2001). Năm 1996, W. J. Hollwenweger trong một bài báo được xuất bản
trong Concilium 3 (1996): 3–14, đã khẳng định rằng, bước phát triển như thế
chưa từng có trong lịch sử Kitô giáo: “một bước phát triển từ số 0 đến
400.000.000 trong vòng 90 năm, chưa bao giờ thấy trong lịch sử Giáo hội”.
[7] Đức Paul VI, Tông huấn Gaudete in domino (Niềm
vui Kitô giáo), 09.05.1975, chương 7.
http://www.vatican.va/holy_father/paul_vi/apost_exhortations/
documents/hf_p-vi_exh_19750509_gaudete-in-domino_en.html (accessed 3.11.2009).
[8] L’Osservatore Romano, English Language Edition,
June 3, 1998, “Đây là ngày Chúa đã làm nên! Đức Thánh Cha tổ các cuộc gặp mặt
lịch sử với các phong trào cũng như các cộng đồng mới” 1–2. Được đăng lại như
phụ lục của Ttài liệu được xuất bản bởi Hội Đồng Giáo hoàng về Giáo dân:
Movements in the Church: Proceedings of the World Congress of the Ecclesial
Movements, Rome, 27–29 May 1998 (Vatican city, 1999).
[9] Benedict XVI, “Hãy để Phép Rửa trong Thánh Thần
thanh tẩy tâm hồn chúng ta”, 11.05.2008, L’Osservatore Romano, English Edition,
14.05.2008, No. 20, 1.
[10] Hai bài nghiên cứu gần đây nhất là của
Ranaghans (xem số 4 trên đây) và của Fr. Edward O’Connor, CSC, The Pentecostal
Movement in the Catholic Church (Notre Dame, IN: Ave Maria, 1971), những tác
giả này đưa ra quan điểm mà tôi trình bày như lối giải thích đầu tiên. Đây cũng
là lối giải thích của các vị Hồng y Suenens và Cordes, cũng như của Fr.
Cantalamessa. Cf. Paul Josef Cordes, Call to Holiness: Reflections on the
Catholic Charismatic Renewal (Collegeville, MN: Liturgical Press, 1997). Nhiều
người liên kết Phép Rửa trong Thánh Thần với việc lãnh bí tích Thêm sức. x.
Steve Clark, Baptized in the Spirit and Spiritual Gifts (Pecos, NM: Dove, 1976)
and Confirmation and the “Baptism of the Holy Spirit” (Pecos, NM: Dove, 1969).
Clark muốn liên kết Phép Rửa trong Thánh Thần với bí tích Thêm sức là để gìn
giữ bản chất “Thánh Thần Hiện Xuống”, sợ nó bị hiểu lầm chỉ là một tương quan
khăng khít với Chúa Kitô hay chỉ là một cuộc hoán cải, không bao gồm chiều kích
cảm nghiệm về sự hiện diện của Thánh Thần và vài biểu hiện đặc sủng nào đó của
Thánh Thần. Clark nhấn mạnh rằng, ơn ngôn ngữ là biểu hiện phổ biến nhất, nhưng
cần biết rằng “lời ca ngợi” hoặc trong “các ngôn ngữ” hoặc trong ngôn ngữ của
một ai đó đều có thể xác định một cách chắc chắn từ những trình thuật khác nhau
về biểu hiện của đặc sủng cùng với việc gia nhập Kitô giáo, được thuật lại
trong Tân Ước (Baptized in the Spirit, 35– 36).
[11] Patti Gallagher Mansifeld, As By a New
Pentecost: The Dramatic Beginning of the Catholic Charismatic Renewal, rev.
ed. (Stonyhurst, Lancashire: Proclaim Publications, 1992), 2.
[12] Tóm tắt quan điểm này xin xem Killian McDonnell
và George T. Montague, ed., Fanning the Flame: What Does Baptism in the Holy
Spirit Have to Do with Christian Initiation? (Collegeville, MN: Liturgical
Press, 1991), 16–18.
[13] Killian McDonnell và George T. Montague,
Christian Initiation and Baptism in the Holy Spirit: Evidence from the First
Eight Centuries (Collegeville, MN: Liturgical Press,1991), 337.
[14] Léon Joseph Cardinal Suenens, A New Pentecost?
( New York: The Seabury Press, 1975), 212-27.
[15] Một tác giả khác mạnh mẽ đề xướng lối tiếp cận
này của Sullivan là Cha Norbert Baumert, SJ, đã xuất bản nhiều quyển sách và
bài báo ủng hộ quan điểm này và là một cố vấn chính cho tiếng nói của các Giám
mục Đức về phong trào canh tân đặc sủng. Norbert Baumert, “‘Charism’ and
‘Spirit-Baptism’: Presentation of an Analysis”, Journal of Pentecostal Theology
12, no. 2 (April 2004): 147–79. Baumert lập luận chống lại quan điểm của
McDonnell and Montague khẳng định rằng Phép Rửa trong Thánh Thần không có tính
quy phạm và không được liên kết với các bí tích Khai tâm Kitô giáo, nhưng thay
vào đó là một “đặc ân”. Xem thêm lời đối đáp có tính đồng thuận nhưng chỉ trích
của Fr. Peter Hocken đối với bài viết của Baumert, trong đó tác giả trình bày
lời giải thích mang tính cánh chung về Phép Rửa trong Thánh Thần. Peter Hocken,
“Baptized in Spirit An Eschatological Concept: A Response to Norbert Baumert
and His Interlocutors”, Journal of Pentecostal Studies 13, no. 2 (2005): 257–68.
John Joy cũng ủng hộ quan điểm của Sullivan trong bài viết, “The Outpouring of
the Holy Spirit in the Catholic Charismatic Renewal: Theological Interpretation
of the Experience”, in Antiphon 9, no. 2 (2005):141–65.
[16] Sullivan, “Baptism in the Holy Spirit”, 66.
[17] Peter Hocken, “Baptized in Spirit: An
Eschatological Concept”, Journal of Pentecostal Theology 13, no. 2 (2005):
257–68.
[18] Ibid., 267.
[19] Viện Catherine of Siena, dựa trên những cuộc
phỏng vấn mở rộng với các mục tử nói tiếng Anh lượng định rằng, không hơn 15%
số tín hữu Công giáo sống được một cuộc đời mà Tân Ước đã diễn tả như là đặc
tính của “những người môn đệ”. Xem www.siena.org. Hồng y Avery Dulles trích dẫn
các số liệu thống kê do Nancy Ammerman thu thập trong quyển, Pillars of Faith
(Berkeley: University of California Press, 2005), 117, 134, để minh hoạ cho một
thực trạng trong các xứ đạo Công giáo, đó là tinh thần truyền giáo ít đến mức
nào.
[20] Một trong những món quà lớn lao nhất của phong
trào canh tân đặc sủng là khám phá ra một cách thức đơn giản thực sự giúp cho
mọi người chuẩn bị và cầu nguyện để lãnh Phép Rửa trong Thánh Thần cho hiệu
quả. Tập sách nhỏ “Sống trong Chúa Thánh Thần” được sử dụng rộng rãi, với nhiều
ấn bản, là một tập tuần 7-ngày, giúp các tham dự viên nắm bắt rõ ràng bài
kerygma căn bản và chuẩn bị cho những việc sám hối, gắn kết với Chúa Kitô, từ
bỏ các cám dỗ của ma quỷ, và khát mong đón nhận “dồi dào Thánh Thần” vốn giúp
cho hàng triệu tín hữu Công giáo cảm nghiệm được “một Lễ Ngũ Tuần” mới cho cá
nhân mình. Những tập sách này có một bản tóm lược nghi thức bí tích Khai tâm
cho những người lớn đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức, có những phần rất
hữu ích, như đạo lý rõ ràng, lời cầu nguyện, và lời mời gọi đáp trả mang tính
cá nhân quan trọng. Một bản “phương pháp mục vụ” rất hiệu quả giúp mọi người
thụ lãnh các ân sủng của bí tích Khai tâm lại thường bị quên lãng trong khi mời
gọi các tâm hồn canh tân. Tập sách nhỏ này có thể được sử dụng trong những hoàn
cảnh khác nhau ngoài cấu trúc của một phong trào cụ thể. Đồng thời, như đã lưu
ý ở trên, một sự chuẩn bị như thế là chuẩn bị để Thiên Chúa hành động nơi chúng
ta.
[21] Montague và McDonnell đề nghị khi họ phân biệt
giữa hai yếu tố lòng đạo đức cá nhân (lối giải thích thứ hai) với phụng vụ công
cộng (lối giải thích thứ nhất).
[22] St. Thomas Aquinas, Summa theologiae (ST) I, q.
43, a. 6.
[23] Bài phân tích của thánh Tôma về sứ mạng của
Người Con và sứ mạng của Thánh Thần rất phức tạp và có phạm vi rộng hơn rất
nhiều so với vấn đề chúng ta đang bàn thảo ở đây.
[24] Để có một phương thức giải quyết hài hoà xin
xem GLHTCG. 1128.
[25] Thánh Tôma bàn về ân sủng thánh hoá và các đặc
sủng trong ST I–II, q. 111, a.1; II–II, qq. 171–78. Fr. Edward O’Connor chú ý
rất nhiều tới việc liên kết cảm nghiệm đặc sủng với đạo lý truyền thống về đời
sống tâm linh. Pentecostal Movement, 179–219. Xin xem thêm bài viết của tôi:
Ralph Martin, “Charismatic and Contemplative: What Would John of the Cross
Say?” có trên www. renewalministries.net.
[26] Joy, “Outpouring of the Holy Spirit”, 154.
[27] “Bảy ơn Chúa Thánh Thần” lãnh nhận trong bí
tích Rửa tội và được củng cố trong bí tích Thêm sức, được hiểu là những ân huệ
thiêng liêng có nền tảng trong Isaia 11,2-3: “Thần Khí của Đức Chúa sẽ ngự
xuống trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng
mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa”.
[28] Dĩ nhiên, có nhiều nhà thần học và học giả Kinh
Thánh lập luận rằng, trong khi bất cứ đặc sủng nào lãnh nhận trong sự gắn kết
với bí tích Khai tâm đều mang tính thứ yếu, còn ân huệ đặc sủng thì không phải
là thứ yếu nhưng gắn với quà tặng của Thánh Thần. Việc sử dụng từ “thứ yếu” đòi
hỏi thảo luận sâu xa hơn. ChaRaniero Cantalamessa nói đến lịch sử phức tạp của
việc phân loại ơn thánh hoá và đặc sủng Thánh Thần trong quyển, Come, Creator
Spirit (Collegeville, MN: The Liturgical Press, 2003), 171–90.
[29] “Đây là ngày Chúa đã làm nên!”
[30] Cần có một bài nghiên cứu chi tiết về những
“hiệu quả và hoa quả” của cuộc khai tâm Kitô giáo trong Tân Ước, không những
dựa trên những bản văn về việc khai tâm mà còn trên “văn hoá Lễ Ngũ Tuần” như
nó được trình bày qua những lá thư của các thánh Tông đồ, ngõ hầu rút ra những
kết luận về điểm này. Đồng thời, cần có một bài phân tích các chứng cớ về những
thay đổi mà nhiều người cảm thấy, xét như một điểm để so sánh. Phải chú ý xem
liệu rằng các chứng cớ này có thực sự thay thế cho hàng loạt các cảm nghiệm
không. Mc Donnell rút ra vài kết luận sơ khởi: “Phải chăng Phép Rửa trong Thánh
Thần mà ngày nay người ta cảm nghiệm trong phong trào canh tân tương đương với
Phép Rửa trong Thánh Thần mà Tân Ước tường thuật lại và cả truyền thống cũng
thẩm định không? Trong khi chúng ta lưỡng lự, dè dặt không dám khẳng định cả
hai tương đương (nếu chúng ta khởi xuất từ những gì được thuật lại trong nhiều
tài liệu đã thẩm định ở đây), thì con số các điểm tương đồng rất ấn tượng”.
McDonnell và Montague, Christian Initiation, 341.
[31] Bài viết này được giới hạn theo đúng mục đích,
tập trung vào ý nghĩa thần học của Phép Rửa trong Thánh Thần. Bối cảnh mà ở đó
Phép Rửa trong Thánh Thần được cảm nhận nhiều nhất bao gồm cả một mối liên lạc
nào đó với các nhóm cầu nguyện, các cộng đồng canh tân. Vai trò của những cấu
trúc tương quan như thế rất quan trọng, nhưng vượt ngoài phạm vi của bài viết
này.
[32] McDonnell và Montague, Christian Initiation,
339.