MỘT
SUY TƯ VỀ ĐẶC SỦNG ĐỜI TU
Thời sự
Thần học - số 76, tháng 05/2017, tr. 148-172
_Lê
Loan, NVHB_
1. Quan
điểm của cha Tillard về ‘Charism’ (Đặc Sủng)
2. Quan
điểm của cha Tillard về Đặc sủng Đời tu
2.1. Đời tu là một bậc sống
2.2. Lời mời gọi dưới tác động của Thánh Linh
2.3. Lời đáp trả dưới tác động của Thánh Linh
3. “Hãy
đến và theo Ta!”
Trong
Tông Thư gửi ‘tất cả các Người Tận Hiến nhân dịp Năm Đời Sống Thánh Hiến’, Đức
Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tu sĩ hãy nhìn lại đời sống mà họ đã được ban
tặng để sống.[1] Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha, chúng ta cùng tìm hiểu
về đặc sủng liên quan đến đời tu theo cái nhìn của thần học gia Jean-Marie
Roger Tillard, một linh mục Dòng Đa Minh. Cha Tillard đã đóng góp tích cực cho
những tiến triển của thần học, trước Vatican II và từ Vatican II, về những vấn
đề liên quan đến bản chất và sứ mệnh của đời tu trong đời sống Giáo hội. Sự đóng
góp của cha, như cha đã viết, không phải ‘để nói lên điều gì mới lạ, nhưng để
đào sâu một lãnh vực quan trọng: về cách thức đời tu đã và đang hiện diện trong
mầu nhiệm của Giáo hội.’[2]
Theo
cha Tillard, chúng ta không thể hiểu đặc sủng của đời tu bên ngoài bối cảnh của
Giáo hội.
Khi
Chúa Thánh Thần kêu gọi các cộng đoàn dòng tu và các cá nhân, Ngài dùng họ tất
cả cho mục đích chung của Dân Thiên Chúa. Đặc sủng của các dòng tu là đặc sủng
của Giáo hội, …, vì Giáo hội. Sứ mệnh của các dòng tu thể hiện một khía cạnh
trong sứ mệnh của toàn thể Giáo hội. Giáo hội được sinh ra trong sự hiệp thông
của các giáo hội địa phương, mỗi giáo hội địa phương có tính năng cụ thể và nhu
cầu riêng của mình. Được ban cho trong một môi trường cụ thể, đặc sủng và sứ vụ
của mỗi dòng tu, vì thế, phải được sinh hoa trái và phát triển trong những môi
trường mà họ được mời gọi để hiện diện.[3]
Nếu cha
Tillard cho rằng đặc sủng của các dòng tu được ban cho Giáo hội, thế thì cha đã
hiểu đặc sủng này như thế nào? Trước khi đào sâu quan điểm của cha về đặc sủng
liên quan đến đời tu, trước hết chúng ta cần tìm hiểu quan điểm của cha về đặc
sủng nói chung.
1. Quan
điểm của cha Tillard về ‘Charism’ (Đặc Sủng)
Theo
cha Tillard, từ ‘charism’ đã gây nên một số nhầm lẫn. Trong cuốn sách There
are Charisms and Charisms của mình, cha giải thích rằng tính từ
‘charismatic’ liên quan đến ân sủng và cảm nghiệm tâm linh: trong ngôn ngữ Hy
Lạp charis có nghĩa là ân sủng. Tham chiếu các tác phẩm của thánh Tông Đồ
Phaolô, cha cắt nghĩa thêm rằng ‘charisms’ biểu thị quà tặng nhưng không của
Chúa Thánh Thần.[4] Đối với cha, từ charism biểu thị cho những ân sủng liên
quan đến cả đời sống tâm linh cá nhân lẫn các bậc sống: như cha đã viết, ‘theo
thánh Phaolô, bậc sống hôn nhân cũng là một đặc sủng như bậc độc thân.’[5] Hơn
thế nữa, khi nghiên cứu văn chương của thánh Phaolô, cha Tillard khám phá ra
rằng charism không chỉ là một ân huệ được ban vì lợi ích của cộng đoàn nhưng
còn là một ân sủng được ban vì mối tương quan cá nhân của một tín hữu với Thiên
Chúa:
Thánh
Phaolô đã sử dụng từ charism để diễn tả những cảm nghiệm tâm linh; như ngài đã
dùng trong 1 Côrintô 7. Thêm vào đó, bậc sống agamos (không lập gia đình) cũng
được thánh Phaolô coi như là một charism (1 Cr 7,7). Bối cảnh của đoạn văn này
cho thấy rằng ân huệ của Chúa Thánh Thần ban không chỉ vì lợi ích của cộng
đồng, nhưng cho cả mối tương quan cá nhân của người tín hữu với Chúa (xem thêm
7,32-34).[6]
Khi
nhận xét về phong trào Canh Tân Đặc Sủng Thánh Linh (the charismatic renewal
movement) trong thời của ngài, cha Tillard cho rằng ‘đối với đa số người theo
phong trào Canh Tân Đặc Sủng Thánh Linh, phong trào này đơn giản chỉ là để thể
hiện một mong muốn chân thành, đó là đổi mới đời sống nội tâm, và đặc biệt hơn,
là làm mới lại những cảm nghiệm về Thiên Chúa.’[7] Tuy nhiên, khi ‘phong trào
Canh Tân Đặc Sủng Thánh Linh được xem như là một sự tuyệt đối,’ thì những người
theo phong trào có thể cho rằng họ được thông dự vào một loại hứng khởi tâm
linh (spiritual enthusiasm) mà đối với nó thì mọi thứ khác đều trở thành phụ
thuộc.[8] Với mong muốn làm nổi bật vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống
Giáo hội, một vài nhóm của phong trào đã gây ra những sự nhầm lẫn và thậm chí
trình bày sai lạc ý nghĩa của charismatic và charism.
Đối với
những nhóm này, đặc sủng được hiểu như ‘một biểu hiện phi thường của ân sủng
được ban cho bởi Thánh Thần như: nói tiếng lạ, nói tiên tri, chữa bệnh’ và
những ‘phép lạ’. Cha Tillard không tán thành quan niệm này. Đối với cha, cái
nhìn cho rằng đặc sủng Thánh Linh chỉ được liên kết với những biểu hiện phi
thường và những hiện tượng lạ là ‘một cái nhìn thiển cận’.[9] Nếu hiểu theo
đúng ý nghĩa của nó, thì đặc sủng và cảm nghiệm về Thánh Linh bao gồm một ý
nghĩa rộng hơn so với những ý nghĩa mà các nhóm ‘quá khích’ của phong trào đã
sử dụng.[10] Cha khẳng định rằng đặc sủng không chỉ là những cảm nghiệm phi
thường, gây nên những sự ‘tuyệt đối’ và kinh ngạc, nhưng là ân huệ nhưng không
của Chúa Thánh Thần ban tặng cho tất cả những ai đã lãnh phép rửa tội. Như cha
đã nói,
Mỗi một
cuộc sống Kitô hữu đích thực là một cuộc sống trong Thần Khí và là đặc sủng,
mặc dù không nói tiếng lạ, không nói những lời tiên tri, hoặc biểu hiện những
điều phi thường hay phép lạ. Mỗi buổi tham dự và cử hành Thánh Thể là đặc sủng,
ngay cả khi không có những biểu hiện bên ngoài của việc tuôn đổ Thánh Linh. Mỗi
lời cầu nguyện Kitô giáo là một lời cầu nguyện trong Thánh Linh, mặc dù không
trải qua những cảm nghiệm đầy hứng khởi. Và tôi dám mạo hiểm để thêm rằng mọi
đau khổ trong Chúa Kitô là đặc sủng, thậm chí khi những đau khổ đó không phải
là đối tượng của sự chữa lành.[11]
Tuy
nhiên, cha Tillard tin rằng trạng thái hứng khởi (enthusiasm) cũng đóng một vai
trò trọng yếu trong lãnh vực cảm nghiệm tâm linh. Cha đưa ra hai cách giải
thích về trạng thái hứng khởi liên quan đến tôn giáo. Một mặt, ‘tương tự như sự
hứng khởi về nghệ thuật – trạng thái này làm cho người ta có những lúc như vượt
quá lý trí và suy luận bình thường – sự hứng khởi trong tôn giáo, nếu không
được kiểm soát, có thể dẫn đến sự thái quá.’ Loại hứng khởi này, nếu kết hợp
với sự cuồng tín, có thể dẫn đến những sự tồi tệ nhất. Mặt khác, khi được bắt
nguồn từ Thiên Chúa, sự hứng khởi tâm linh là ‘những cảm hứng khôi phục lại
trong chúng ta sự siêu việt của Thiên Chúa và niềm khát khao Thiên Chúa trong
đời sống của chúng ta.’[12] Đây là ‘sự hứng khởi phát xuất từ Thánh Linh.’[13]
Khi
phân tích về sự hứng khởi phát xuất từ Thánh Linh, cha Tillard phân biệt nó
trong hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất là một cảm nghiệm ‘hoàn toàn cá nhân và hướng
nội’. Cảm nghiệm này làm cho chúng ta cảm nhận quyền năng Thiên Chúa bao trùm
trên chúng ta; chúng ta cảm thấy mình đang bị ‘chộp bắt’ bởi Thần Khí và được
mời gọi để ‘đặt’ đời sống chúng ta dưới sức mạnh của Thần Khí. Đây là một cảm
nghiệm được nhận lãnh trong đức tin; sự hứng khởi phát xuất từ Thánh Linh phải
là một sự hứng khởi phát xuất từ và trong đức tin. Cha Tillard đã áp dụng ý
nghĩa ‘hứng khởi’ này khi đào sâu những suy tư thần học của mình về đặc sủng
liên quan đến đời tu. Cấp độ thứ hai có tính cách ‘hướng ngoại nhiều hơn’.
Trong cấp độ này, người ta chỉ cảm thấy ‘gặp gỡ Chúa’ qua các hiện tượng nói
tiếng lạ, nói lời tiên tri, những phép lạ và điều phi thường. Cha Tillard nhận
xét rằng hầu như những hiện tượng này đều được tìm thấy trong nhiều tôn giáo,
và tự trong bản chất chúng không có tính ‘phúc âm’ (evangelical).[14] Trong một
số trường hợp, các hiện tượng quá khích này thậm chí biểu lộ một niềm tin cực
đoan: con người tự nhận các thành quả là do những nỗ lực của mình và đâm ra tự
mãn.[15]
Theo
cha Tillard, đặc sủng đích thực được ban cho bởi Thần Khí cần phải được biện
phân và nhìn nhận. Cha cho rằng đức ái là một đặc tính thiết yếu của đặc sủng
đích thực. Phản ánh những lời của thánh Phaolô trong 1 Côrintô 13, cha viết,
Các
tiêu chuẩn trong lĩnh vực này không phải là số lượng hay là những hiện tượng lạ
trong cảm nghiệm của một cá nhân hoặc tập thể, nhưng là phẩm chất của một tình
yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại trong cảm nghiệm đó.[16]
Những
hiện tượng xuất chúng và những cảm nghiệm tâm linh không biểu hiện tình yêu đối
với Thiên Chúa và tha nhân thì không thể được công nhận là những đặc sủng đích
thực. Thực vậy, một đặc sủng được ban cho bởi Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết
làm vinh danh Chúa và phục vụ anh chị em đồng loại. Như cha đã nói: ‘Đặc sủng của
Thánh Thần vượt qua các cấp độ cảm nghiệm bị giới hạn trong một cá nhân hoặc
một nhóm người – bao gồm cả những niềm vui và sự bình an được sinh ra từ đó –
và dẫn dắt chúng ta đến việc phục vụ cho sự vinh quang của Đức Chúa.’ Cha nhấn
mạnh rằng, đặc sủng chủ yếu không phải là đưa người ta vào trạng thái của sự
‘ngây ngất’ nhưng là đến sự chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa. Tương tự như thế,
‘đặc sủng chủ yếu không phải là một “đặc quyền” nhưng là một sự phục vụ (1 Cr
12,5-7).’[17] Đối với cha, sự chúc tụng, ngợi khen, làm vinh danh Thiên Chúa và
phục vụ đồng loại được xem như là các dấu chứng của đặc sủng đích thực phát
xuất từ Chúa Thánh Thần.
Cha
Tillard tin rằng tình yêu, sự chúc tụng, ngợi khen, làm vinh danh Thiên Chúa và
phục vụ đồng loại sẽ biểu hiện qua sự hiệp thông (koinonia) – ‘koinonia là
hoa trái của Chúa Thánh Thần.’[18] Theo cha, việc làm vinh danh Thiên Chúa và
phục vụ tha nhân không thể tìm thấy trong sự loại trừ. Cha cho rằng những người
hình thành nhóm quá khích là do sự ‘hứng khởi ngây ngất tự tạo’ hơn là bởi tình
yêu, và điều này có thể gây ra một bầu không khí bị xáo trộn trong cộng đồng,
và nơi ‘cô lập’ tồn tại thì không có sự hiện diện của Thần Khí. Những thái độ
làm suy yếu tinh thần của koinonia không thể đến từ Chúa Thánh Thần.
Như vậy,
theo cha Tillard, đặc sủng có thể được hiểu như là một ân huệ nhưng không của
Chúa Thánh Thần ban, không chỉ vì lợi ích của cộng đồng, nhưng cũng, và trước
hết, cho mối quan hệ cá nhân của các tín hữu với Thiên Chúa. Được sinh ra trong
cảm nghiệm về Thần Khí, đặc sủng được coi như là sự hứng khởi bắt nguồn trong
đức tin. Đây là ân huệ của Chúa Thánh Thần ban cho tất cả các Kitô hữu và tùy
theo bậc sống mà họ được kêu gọi. Dấu chứng của đặc sủng được ban bởi Chúa
Thánh Thần là tình yêu và đức ái, biểu hiện qua việc làm vinh danh Thiên Chúa
và phục vụ tha nhân trong sự hiệp nhất – koinonia, hoa quả thiết
yếu của Chúa Thánh Thần.
2. Quan
điểm của cha Tillard về Đặc sủng Đời tu
Cha
Tillard cho rằng đời sống Kitô hữu có một liên quan mật thiết với Chúa Thánh Thần
và rằng mỗi một cuộc sống Kitô hữu đích thực – độc thân, hôn nhân gia đình, hay
tu trì – là một cuộc sống trong Thần Khí và là một đặc sủng.[19] Đặc sủng đời
tu, theo cha, được thể hiện trong một bậc sống. Dưới cái nhìn thần học, bậc
sống này được cấu thành bởi một mối quan hệ mật thiết được xây dựng trên đức
tin, biểu hiện qua một lời mời gọi dưới tác động của Thánh Linh (charismatic
call) và một lời đáp trả cũng dưới tác động của Thánh Linh (charismatic
response).
2.1.
Đời tu là một bậc sống
Cha
Tillard đặt trọng tâm những suy tư của mình về đời sống tu trì trong nền thần
học hiệp thông (koinonia). Qua bí tích Rửa tội, tất cả các Kitô hữu được hiệp
thông với Thiên Chúa và đồng thời được thông hiệp vào đời sống của Giáo hội –
chia sẻ trong mầu nhiệm hiệp thông với Chúa Cha và với các tín hữu, trong Chúa
Giêsu Kitô nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.[20] Mặc dù được hình thành từ
những con người tội lỗi, Giáo hội luôn luôn là thánh; bởi vì Giáo
hội thuộc về Thiên Chúa, Đấng thánh duy nhất. Đây là ‘nơi the drama của
Giáo hội hình thành’: Giáo hội là thánh trong tình yêu của Thiên Chúa, nhưng
tội lỗi bởi sự yếu đuối của con người.[21] Vì thế, các Kitô hữu luôn sống trong
tình trạng chiến đấu khi họ bước theo tiếng gọi sống ‘đức ái hoàn hảo’ và ‘mầu
nhiệm hiệp thông’ ngay nơi những đòi hỏi và trách nhiệm trong bậc sống của
họ.[22]
Chính
qua các bí tích và bậc sống khác nhau mà Giáo hội cống hiến cho các tín hữu
những phương tiện để đáp trả lời mời gọi mà Thiên Chúa dành cho mỗi người.[23]
Lời mời gọi này, đối với mỗi Kitô hữu, ‘hệ tại nơi cuộc sống theo đặc sủng’ mà
họ đã nhận được.[24] Các bậc sống không phải là sự hoàn hảo, nhưng là những
phương tiện giúp các tín hữu đi đến sự hoàn thiện mà Tin Mừng mời gọi.[25] Cha
Tillard định nghĩa đời tu như là ‘một phương thế để đi đến sự hoàn hảo.’[26]
Cha viết:
Nhưng
sự hoàn hảo của cái gì? Rất đơn giản, của đời sống Kitô hữu. Bởi vì muốn sống
mầu nhiệm đức ái một cách hoàn hảo – mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa và tha
nhân, các tu sĩ không chỉ đơn thuần tuân giữ các giới luật; họ tự nguyện và
quảng đại đi vào con đường hẹp với sự tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm; vì mục
đích này, các tu sĩ từ bỏ tất cả những gì có thể là vật cản giữa họ và Thiên
Chúa ... họ gắn mình vào một bậc sống của sự hoàn hảo (a state of perfection).
Từ “bậc sống” (state) ngụ ý ổn định và trong trường hợp này ổn định ngụ ý cho
cả một cuộc đời.[27]
Cha
Tillard khẳng định rằng đời tu không thuộc cơ cấu phẩm trật của Giáo hội nhưng
phát xuất trực tiếp từ Chúa Thánh Thần. Những sáng kiến khai mở cho cuộc sống này không đến từ các phẩm trật trong Giáo hội, nhưng đến từ các tín hữu (thành phần dân Chúa). Điểm này, theo cha, là cơ bản và rất quan trọng; các hoạt động của Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn trong lãnh vực của các bí tích và phẩm quyền.[28] Được
khai sáng từ và bởi Chúa Thánh Thần, đời tu là một lối sống đặc biệt trong đó
các phần tử chia sẻ một cảm nghiệm chung về ân sủng qua sự quảng đại đáp trả mà
không bao giờ tìm thỏa mãn cho chính mình, nhưng nhằm mục đích làm rõ nét hơn
những mầu nhiệm của Giáo hội qua một lối sống riêng biệt với những lời cam kết
công khai. Thông thường, đời tu xuất hiện vì một tín hữu, được ‘chộp bắt’ bởi
Chúa Thánh Thần, tham gia với các anh chị em khác để cùng nhau tìm kiếm Chúa
trong bậc sống đặc biệt này.[29]
Cha
Tillard cho rằng nét đặc trưng cơ bản của bậc sống này được thể hiện qua ‘ba
lời khấn ... và đời sống chung.’[30] Tuy nhiên, cha nhắc nhở rằng các tu sĩ
không ‘khấn khó nghèo, vâng phục, và khiết tịnh để tăng thêm nhân phẩm hoặc để
có thêm một “địa vị” mới so với những gì mà mọi Kitô hữu đã được lãnh nhận nơi
bí tích Rửa tội.’[31] Các lời khấn đơn thuần chỉ là phương tiện để giúp các tín
hữu đạt đến sự viên mãn của hồng ân đã lãnh nhận nơi bí tích Rửa tội.[32] Một
Kitô hữu trở thành tu sĩ không phải vì các lời khấn, nhưng vì Tin Mừng. Cha
giải thích:
Mặc dù
những lời khấn biểu hiện cho các yếu tố riêng biệt của đời tu, và không thể
thiếu trong đời sống của bất cứ ai được Chúa Thánh Thần mời gọi bước vào đời
tu, nhưng chúng không phải là yếu tố chính yếu của đời tu. Mục tiêu của những
lời khấn là để “giải phóng” các Kitô hữu, dẫn họ dần đến đích điểm của các đòi
hỏi của Tin Mừng.
Các lời
khấn và đời sống chung, như thế, được xem như là ‘các yếu tố riêng biệt’, chứ
không phải là ‘các yếu tố chính yếu’, của đời tu. Nhưng thật đáng tiếc, cha
Tillard nói, ‘chúng ta có xu hướng nhầm lẫn giữa các yếu tố riêng biệt với các
yếu tố chính yếu.’[33]
Điều
này gợi lên một câu hỏi: thế thì những yếu tố chính yếu của đời tu là gì? Sau
khi nghiên cứu kỹ lưỡng về đời sống tu trì, cha Tillard ghi nhận rằng đời tu đã
xuất hiện qua nhiều hình thức khác nhau; dù trong hình thức nào, đời tu luôn có
‘một đặc tính’ (a special feature).[34] Đặc tính đó là gì? Theo cha, chúng ta không
thể trả lời câu hỏi này bằng cách nói rằng đời tu là ‘một bậc sống hoàn hảo hơn
hay một sự bước theo Chúa Kitô sát sao hơn.’[35] Mọi Kitô hữu đều được mời gọi
trở nên hoàn thiện.[36] Đặc tính này, cha nhấn mạnh, ‘không xuất phát từ một hệ
thống phẩm trật đạo đức hay luân lý, nhưng từ một sự hiện hữu và tương giao của
các tu sĩ với Chúa Kitô.’[37] Nói cách khác, đây là vấn đề của một lối sống với
phong cách đặc biệt cho phép một Kitô hữu sống trọn vẹn những đòi hỏi của Tin
Mừng.[38]
Dựa vào
Tin Mừng, cha Tillard phân biệt hai phương thế mà các Kitô hữu có thể tận hiến
bản thân cho Chúa Giêsu. Thứ nhất là ‘cách bình thường’ qua đó các Kitô hữu
được kêu gọi sống Tin Mừng, nhưng không từ bỏ lối sống bình thường của họ. Thứ
hai là ‘cách đặc biệt’ qua đó các Kitô hữu được mời gọi bước theo Chúa Giêsu,
từ bỏ nếp sống bình thường để sống theo Tin Mừng một cách đặc biệt và triệt để
hơn.[39] Donald Maldari nhận xét rằng khi phân biệt như thế, cha Tillard không
coi nhẹ giá trị của ‘ơn gọi bình thường’, nhưng điều mà cha Tillard muốn nhấn
mạnh là ‘cách đặc biệt’ theo Chúa; theo nghĩa đen, đòi hỏi các tu sĩ phải có
một thái độ sống ‘từ bỏ’ một cách dứt khoát và rõ rệt mà những người ‘bình
thường’ khác thì không bị đòi hỏi như thế.[40]
Cách
‘đặc biệt’ này, cha Tillard giải thích, là sự tìm kiếm ‘một điều cần thiết duy
nhất’, đó là Chúa Giêsu Kitô – ‘Đấng duy nhất có thể đong đầy những nguyện vọng
và khao khát của các tu sĩ.’[41] So sánh với ‘điều cần thiết duy nhất’ này thì
tất cả những thứ khác – điều mà con người đang cố gắng phấn đấu để có được ở
đời này – chỉ là những thứ ‘tương đối’. Cha nhấn mạnh rằng trong đời tu, các tu
sĩ không được phép đặt nền tảng đời sống của họ vào những thứ tương đối, nhưng
vào ‘điều cần thiết duy nhất’ này.[42] Nền tảng sự hiện hữu của đời tu là toàn
bộ Tin Mừng. Cha ví toàn bộ điều lệ của Tin Mừng như một tam giác cân mà góc
đỉnh của nó biểu hiện các ‘đòi hỏi’ của Bài Giảng Trên Núi. Không phải mọi Kitô
hữu đều được mời gọi đặt nền tảng của họ trên những đòi hỏi tuyệt đối.[43] Chúa
Thánh Thần mời gọi các Kitô hữu phục vụ và làm chứng cho Nước Trời theo những
cách thức khác nhau; các tu sĩ được mời gọi sống một lối sống trong đó có những
điều mà mọi tín hữu có thể chỉ phải tuân giữ trong một vài trường hợp lại trở
thành luật sống đối với các tu sĩ, và trong đó những đòi hỏi của Nước Trời phải
được đặt trên hết và trước hết.[44]
Tóm
lại, theo cha Tillard, đời tu là một bậc sống Thiên Chúa ban tặng cho Giáo hội
nhờ Thánh Thần của Người. Được sinh ra bởi Chúa Thánh Thần, bậc sống này cùng
tham dự vào mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa với tất cả các bậc sống khác
trong Giáo hội. Khởi đi từ lòng quảng đại của Thiên Chúa, tâm điểm của bậc sống
này là sự cam kết của một con người với chính Đức Giêsu Kitô, ‘điều cần thiết
duy nhất’, được biểu hiện trong một mối quan hệ xây dựng trên ‘đức tin’. Đức
tin này không đến từ một tín điều phải tin, nhưng từ một lời ‘Vâng’ (Yes) ôm
trọn lấy trái tim và toàn bộ sự tồn tại của người đó – cũng giống như các cô dâu
thưa ‘Em chấp nhận’ (I do) với chồng của mình.[45] Mối quan hệ này được hình
thành bởi một lời mời gọi dưới tác động của Thánh Linh (a charismatic call) và
một lời đáp trả cũng dưới tác động của Thánh Linh (a charismatic response);
chính Chúa Thánh Thần là khởi nguồn của mối quan hệ này.
2.2.
Lời Mời Gọi dưới tác động của Thánh Linh (A Charismatic Call)
Theo
quan điểm của cha Tillard, từ trong ý nghĩa sâu xa nhất của nó, đời tu là một
đặc sủng, bắt đầu với lời mời gọi dưới tác động của Thánh Linh. Đặc sủng ở đây
được hiểu là ‘chỉ duy Chúa Thánh Thần là Đấng có thể soi sáng và dẫn đưa một
Kitô hữu lựa chọn bậc sống này, một cảm nghiệm như thế vượt xa mọi lý luận của
con người.’[46] Để làm rõ ý nghĩa của lời mời gọi này, cha Tillard quay trở về
với lời mời gọi của các Tông đồ trong Tin Mừng và liên kết sự khởi đầu của đời
tu với lời mời gọi của các Tông đồ đầu tiên.[47] Đối với cha, lời mời gọi của
các Tông đồ đầu tiên thật là nhiệm mầu, khó hiểu và rất đòi hỏi, như chúng ta
đọc trong Tin Mừng.
Người
[Đức Giêsu] bảo các ông: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở
thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo
Người. (Mc 1,17-18; xem thêm Mt 4,19-20)
Người
liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với
những người làm công, mà đi theo Người. (Mc 1,20; xem thêm Mt 4,22)
Sau đó,
Đức Giêsu đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở
trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi
theo Người. (Lc 5,27-28)
Một môn
đệ khác thưa với Người: “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước
đã”. Nhưng Đức Giêsu bảo: “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của
họ”. (Mt 8,21-22; xem thêm Lc 9,59-60)
Đức
Giêsu nhìn thẳng vào anh và đem lòng yêu mến. Người bảo anh: “Anh chỉ thiếu có
một điều: hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, và anh sẽ có được một
kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (Mc 10,21; xem thêm Mt 19,21; Lc
18,22)
Những
lời mời gọi này, cha Tillard nhận xét, có “những điểm đặc biệt, khác thường và
dường như chẳng phù hợp với những lý luận của con người; những điểm này là
những nét đặc trưng cho những gì thuộc về thế giới của Chúa Thánh Thần”.[48]
Chính
Chúa Giêsu là người đã khởi xướng cuộc gọi này. Nói cách khác, những người được
chọn không cầu xin để được chọn; thay vào đó, chính Chúa Giêsu là người có sáng
kiến này. Hơn thế nữa, những người được mời gọi không nhất thiết phải hoàn hảo; họ không nhất thiết phải tốt hơn so với những người khác và thậm chí có thể là một tội nhân tai tiếng. Chính Chúa Giêsu đã ‘đột ngột’
bước vào đời sống của một con người. Cuộc gặp gỡ như thế thách đố toàn bộ đời
sống của người đó, dẫn họ bước theo Chúa Giêsu để phục vụ Nước Trời. Chỉ trong
Thần Khí mà Chúa Giêsu đã đi vào một cuộc gặp gỡ có sức lôi cuốn như thế.[49]
Như cha Tillard giải thích,
Nếu
chúng ta đồng ý rằng từ “đặc sủng” biểu thị hoạt động của Chúa Thánh Thần chứ
không phải của con người, và rằng nó cũng là một biểu hiện những cảm nhận của
con người về ân sủng của Thiên Chúa, một ân huệ được ban tặng không phải vì
công đức của người nhận, nhưng là một cảm nghiệm bị “chộp bắt” bởi quyền năng
của Thiên Chúa, một ý thức được tham dự vào mầu nhiệm cứu chuộc của thời cánh
chung, chúng ta phải thừa nhận rằng ơn kêu gọi của các Tông đồ – bao gồm cả của
thánh Phaolô – chỉ có thể được hiểu trong mầu nhiệm ân sủng đặc biệt của Thiên
Chúa.[50]
Theo
cha Tillard, ơn gọi làm tông đồ mà Chúa Giêsu, nhờ Thần Khí của mình, mời gọi
các tông đồ sống như những chứng nhân cho Tin Mừng, là lời mời gọi có sức thu
hút và lôi cuốn. Ơn gọi vào đời tu được liên kết với ơn gọi làm tông đồ
này.[51]
2.3.
Lời Đáp Trả dưới tác động của Thánh Linh (A Charismatic Response)
Ơn gọi
sống đời tu bao gồm lời đáp trả trong tự do. Cha Tillard mô tả lời đáp trả này
như một hành động của đức tin xuất phát từ cuộc gặp gỡ ‘bị thu hút’ bởi Chúa
Kitô. Xuyên qua cảm nghiệm bị thu hút như thế, lời mời từ bỏ mọi sự và bước
theo Chúa Kitô gợi lên trong tâm hồn người được mời gọi một ‘phản ứng’ mà sau
đó nó trở thành thửa đất, rồi từ thửa đất này các quyết định của người đó sẽ
đâm rễ. ‘Phản ứng’ này không đến từ một trật tự luân lý và tập luyện; nhưng từ
sự hứng khởi nội tâm – một cảm nghiệm phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa
trong tận cõi thâm sâu của con người. Tiềm ẩn của ‘sự hứng khởi này là sự chúc tụng, tôn thờ’ và là sức mạnh ban cho người được mời gọi để họ có thể đáp trả lời mời gọi trong đức tin.[52]
Để khám
phá ra tại sao sự hứng khởi có thể khiến cho một Kitô hữu đi đến quyết định đáp
trả lời mời gọi như thế, cha Tillard trích dẫn hai dụ ngôn trong Tân Ước: kho
báu và viên ngọc trai (Mt 13,44-46 ), những dụ ngôn ‘làm sáng tỏ thái độ của
con người trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô mà định hướng cuộc đời của mình.’[53]
Tham khảo các bản chú giải về hai dụ ngôn này, cha Tillard kết luận rằng, ‘bởi
vì sức hút của Nước Trời và niềm vui cảm nhận được từ đó,’ mọi thứ khác bị coi
như là phụ thuộc.[54] Niềm hứng khởi nhiệm mầu gợi lên từ sự khám phá ra giá
trị vô giá của Nước Trời sẽ đem lại ‘niềm vui thật’ cho người tín hữu, khiến họ
bỏ lại đằng sau tất cả mọi sự mà đi theo Đức Kitô.[55] Cha trích dẫn Joachim
Jeremias để hỗ trợ điểm này,
Khi
niềm vui thật “nắm bắt” một người, nó thâm nhập vào tận cõi thâm sâu của người
ấy, thuần hóa tâm trí và mang người ấy ra khỏi mình. Tất cả những điều khác
dường như vô nghĩa so với giá trị của niềm vui này … . Trọng điểm của hai dụ
ngôn không phải là những gì mà hai người đàn ông từ bỏ, nhưng là nguyên do
khiến họ đi đến quyết định để từ bỏ: một cảm nghiệm không sao kế xiết về sự vĩ
đại mà họ đã khám phá được. Sự vĩ đại của Nước Thiên Chúa. Niềm vui bao phủ họ;
nó lấp đầy trái tim và làm cho toàn bộ cuộc sống của họ hướng đến sự viên mãn
của cộng đồng Dân Thiên Chúa, và làm nảy sinh trong họ sự tận tụy hy sinh cho
Nước Trời.[56]
Cha Tillard
cho rằng chính sự hứng khởi phát sinh từ sự hấp dẫn của Nước Trời và niềm vui
được cảm nghiệm giúp chúng ta có thể hiểu những đòi hỏi ‘bất thường’ và ‘bất
hợp lý’ của Chúa Giêsu, ‘Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em,
chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi’ (Lc 14,26).
Chính sự hứng khởi nhiệm mầu và niềm vui có được bởi sự gặp gỡ với Chúa Giêsu
có thể giải thích cho hành động của các Tông Đồ khi họ bỏ lại tất cả mọi sự và
đi theo Chúa Giêsu. Ngay cả khi họ không muốn theo Ngài, như trong trường hợp
của Phêrô bên bờ hồ (Jn 21,18), hoặc khi họ từ chối và muốn loại bỏ Chúa Giêsu
ra khỏi cuộc sống của họ, như trong trường hợp của Phaolô. Một cảm nghiệm thâm
sâu trong cuộc gặp gỡ với Ðức Giêsu đã làm cho cuộc sống của họ đảo lộn![57]
Một
niềm vui như thế, cha Tillard nhấn mạnh, không thể bị đánh đồng với các loại
phấn khích, nhưng là ‘niềm vui trong Chúa Kitô’ (joy en kuriô); nó ‘không chỉ
đơn giản là một niềm vui mà đối tượng là Đức Kitô, nhưng là một niềm vui trong
đó chúng ta tìm được toàn bộ nguồn gốc và căn tính của nó trong cái chết và sự
phục sinh của Chúa Kitô.’ Hơn thế nữa, niềm vui này không đến từ một kinh
nghiệm của lòng đạo đức hay vui sướng tự tạo. Như ‘một biểu hiện của Thánh
Linh’, niềm vui này là “một sự hứng khởi sâu thẳm nội tâm, nếu chúng ta được
ban cho; sự hứng khởi này không đến từ một niềm vui tạo ra bởi những hân hoan
và sung sướng, nhưng từ một niềm vui – mặc dù đau khổ, thất bại và thất vọng –
được nảy sinh từ sự hiệp thông với Chúa Giêsu”.
Sự hiệp
thông trong đức tin này được ban tặng cho chúng ta xuyên qua cảm nghiệm của một
đời sống mới xuất phát từ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, ‘nếu không nó sẽ
không phải là niềm vui chiến thắng lan tỏa quanh đây.’[58]
Liên
quan đến đời tu, cha Tillard nhận xét rằng các tu sĩ – những người bị ‘chộp
bắt’ bởi Chúa Kitô trong một khoảnh khắc nhiệm mầu (khoảnh khắc quyết định cuộc
sống của họ ngay lập tức hoặc dần dần trong ơn gọi ‘bước theo Chúa Kitô’ của
họ) – sẽ được nhận chìm vào trong một cảm nghiệm bị lôi cuốn tương tự như của
các Tông Đồ. Đối với các tu sĩ, có lẽ không dễ dàng để diễn tả cảm nghiệm hoặc
điều đã thu hút họ bước vào đời sống tu trì. Lý do có thể khác nhau từ người
này sang người khác, tùy thuộc vào mỗi cá nhân và các nền văn hóa khác nhau.[59]
Dù lý do nào đi nữa, chính cảm nghiệm của một sự hứng khởi đối với Chúa Kitô đã
làm họ đặt mọi thứ khác sang một bên và quyết định bước đi theo Người.[60] Như
‘một khoảnh khắc kỳ diệu trong và với Chúa Kitô’, cảm nghiệm này truyền cảm
hứng và giúp họ khám phá ra động lực hấp dẫn, đồng thời giúp họ đi đến một sự
lựa chọn. Động lực này không phải là để ... nhưng là vì ... và đối tượng của
cái vì này không là gì khác ngoài Chúa Giêsu Kitô. Một Kitô hữu không trở thành
một tu sĩ để làm một điều gì đó, với một cái nhìn hướng đến một điều gì đó; một
Kitô hữu bước vào đời sống tu vì Chúa Giêsu Kitô và vương quyền của Ngài. Để
làm một điều gì đó, tuy là rất cần thiết, nhưng phải được tính sau, và cái để
này phải được thực hiện trong ánh sáng và như là hoa trái của cái vì.[61]
Theo
cha Tillard, khoảnh khắc kỳ diệu trong và với Chúa Kitô cũng gợi cảm hứng cho
người được mời gọi lựa chọn một cộng đoàn dòng tu cụ thể, hoặc một lối sống đặc
biệt cho việc phục vụ Tin Mừng và nhân loại để phát triển thêm tầm nhìn của
đấng sáng lập.[62] Qua sự hiểu biết về đặc sủng của một dòng tu cụ thể, các tín
hữu có thể nhận ra ơn gọi cá nhân của họ, và nhận ra sự thúc giục của Chúa
Thánh Thần, hầu sử dụng các ân sủng cách tốt nhất theo khả năng của mình.[63]
Nếu các tu sĩ không nhận thức được điều này, họ sẽ không bao giờ nắm bắt được
raison d’être của đời tu, và ngay khi đã tuyên thệ các lời khấn, họ sẽ kéo lê
đời mình trong một cuộc sống vô nghĩa.[64]
Ý nghĩa
của khoảnh khắc kỳ diệu trong và với Chúa Kitô gắn liền với một khía cạnh quan
trọng của một hành động trong đức tin – đó là sự chiêm niệm (sự kết hợp mật
thiết với Đức Kitô).[65] ‘Khoảnh khắc chiêm niệm mà từ đó việc “theo Chúa Kitô”
được khơi nguồn đặt nền tảng trên một đức tin thuần khiết’ hoàn toàn khác với
sự chiêm niệm thuộc về những nỗ lực của con người, một sự nỗ lực dùng trí tuệ
để suy niệm và cố tạo yên tĩnh nội tâm để thâm nhập sâu hơn vào mầu nhiệm của
Thiên Chúa.[66]
Cuộc
gặp gỡ, có thể bắt đầu trong những cảm nghiệm hoặc trong sự hứng khởi của một
sự kiện “bị lôi cuốn”, sẽ được đánh dấu như một cảm nghiệm thuần khiết xảy ra
duy chỉ trong thinh lặng, một sự thinh lặng trào tràn niềm vui nhưng rất bí ẩn,
của một mối quan hệ “I-Thou”. Chính khoảnh khắc của sự nhìn nhận, của sự mở
lòng đón nhận sự sống thần linh, là khoảnh khắc của chiêm niệm ... Một khoảnh
khắc rất cần thiết đối với đức tin mà, nếu không có nó, đức tin sẽ trở nên vô
nghĩa.[67]
Cha
Tillard cho rằng ơn gọi sống đời tu thuộc về cảm nghiệm này, một cảm nghiệm
trong đức tin. Cảm nghiệm trong đức tin này là phẩm chất chính yếu của đời tu,
phụ thuộc vào sự chiêm ngắm Thiên Chúa từ trái tim bởi vì người đó đã ‘bị chộp
bắt bởi Chúa Kitô’. Sự chiêm ngắm này ‘thuộc về chiều sâu tâm linh vượt qua mức
độ thông minh suy luận của con người.’[68] Cha khẳng định rằng cảm nghiệm ‘bị
lôi cuốn’ bởi Đức Kitô trong đức tin, được ân ban bởi Chúa Thánh Thần, là một
đặc sủng.
Do đó,
trọng tâm của đời tu phải được đặt trên đức tin; nghĩa là, sự gắn bó của các tu
sĩ với Thiên Chúa phải được xây dựng trên đức tin.[69] Đức tin phải đến trước
nhất. Đức tin phải được xem như là ‘một sợi dây mà từ đó tất cả các thứ khác
được đan quyện vào. ... Các điều khác như đời sống độc thân, nghèo khó, cộng
đoàn, sự vâng phục và đời sống khắc khổ, không thể đứng vững mà không có sợi
dây ấy.’ Nếu sợi dây đức tin bị cắt đứt, ý nghĩa và sự tồn tại của đời tu coi
như bị đánh mất.[70] Điều quan trọng là, ‘đức tin đòi hỏi phải được đưa vào
cuộc sống cụ thể; chính trong việc sống đức tin mà đời tu được mở ra và đào
sâu.’[71]
Tóm
lại, đặc sủng của đời tu, theo cha Tillard, là ơn đặc biệt mà Thiên Chúa, qua
Thánh Thần của Người, ban cho một số tín hữu. Ơn này được biểu hiện như một cảm
nghiệm ‘bị lôi cuốn’ bởi Chúa Giêsu trong đức tin, một khoảnh khắc kết hợp thâm
sâu giữa một cá nhân với Chúa Giêsu – ‘an I-thou relationship’, mời gọi họ bước
theo Người một cách triệt để qua một lối sống ‘riêng biệt’, đồng thời tạo điều
kiện để người đó có thể đáp trả lời mời gọi ấy trong suốt cuộc sống của họ. Ơn
này được ban không chỉ dành riêng cho người tiếp nhận nó, nhưng còn vì vinh
quang của Thiên Chúa và ích lợi của người khác.
3. “Hãy
đến và theo Ta!”
Mỗi đặc
sủng đích thực bao gồm sự kết hợp giữa một nét độc đáo và một sáng kiến riêng
biệt cho đời sống thiêng liêng của Giáo hội. Đối với các tu sĩ, sống đặc sủng
đời tu, thể hiện qua việc bước theo Đức Kitô, phải được liên tục bắt nguồn từ
‘khoảnh khắc chiêm niệm’ trong đức tin – không chỉ trong sự hứng khởi lúc ban
đầu của đời tu, nhưng ngay cả trong những lúc, như Simon Phêrô, ngập trong đau
khổ và nước mắt, vẫn tiếp tục lặp lại lời thưa ‘Dạ, con đây’ của lúc ban đầu.
Đây cũng là cảm nghiệm về sự hứng khởi của các nhà thần bí, vẫn luôn khao khát
tìm kiếm Chúa, ngay cả khi bị phủ lấp bởi bóng tối của nghi ngờ và hoang
mang.[72] ‘Sự hứng khởi của họ đã chùng xuống và trở nên bình lặng. Nó đã chín
mùi. ... Có một biến chuyển, sự hứng khởi của họ dành cho Chúa Giêsu trở nên
sâu lắng hơn.’[73] Đời tu ‘không chỉ đơn giản là một việc làm cho mỗi ngày của
mình hòa hợp với một mô hình được phác thảo trước, “một lần và cho tất cả”, vào
ngày khấn dòng.’ Đức Kitô, Đấng mà các tu sĩ mong muốn bước theo, không thể bị
đóng vào một khuôn khổ cố định trong một thời điểm được sắp xếp trước. Hôm nay
không phải chỉ đơn giản là một sự lặp lại của ngày hôm qua, mặc dù ngày hôm qua
không thể không để lại dấu ấn của nó trên ngày hôm nay. Đã quyết định bước theo
Chúa Kitô, các tu sĩ phải liên tục làm mới lại mối tương quan của họ với Người
mỗi ngày.[74]
Bắt
nguồn từ một khoảnh khắc được chìm ngập trong tình yêu của Thiên Chúa, sự hứng
khởi bước theo Chúa Kitô lúc ban đầu phải trưởng thành theo thời gian. Cha
Tillard nhắc nhở rằng các tu sĩ cần liên tục ‘khám phá lại’ lời mời gọi thuở
ban đầu: ‘Hãy đến và theo Ta!’; đây cũng chính là lời mời gọi họ đi đến quyết
định nói lên lời cam kết vĩnh viễn của mình. Như Phêrô bên bờ hồ, các tu sĩ hãy
không ngừng nhìn lại chính mình để loại bỏ những ảo tưởng gợi lên trong họ.
Cuối cùng, duy chỉ một điều cần được tồn tại là sự hứng khởi của họ, sự hứng
khởi đến từ nơi sâu thẳm nhất của một trái tim nghèo nàn. Từ sự nghèo nàn trơ
trụi này, sự hứng khởi dành cho Chúa Kitô dần trở nên một đức tin trưởng
thành.[75] Các tu sĩ, không phân biệt thuộc dòng chiêm niệm hay hoạt động, hãy
không ngừng dừng lại và sống trọn vẹn khoảnh khắc mà họ được chìm ngập trong
tình yêu của Thiên Chúa, khoảnh khắc khi họ nhận ra lời mời gọi của Chúa Kitô
và quyết định bước theo Ngài.[76]
* Nguyên bản bài chia sẻ này được viết bằng tiếng
Anh, đăng trong tạp chí Thần Học The Way (Loan Le, “A Reflection on the Charism of Religious Life”, The Way 55, 1
[2016], 61-77, http://www.theway.org.uk/Back/551Le.pdf). Xin xem thêm Loan Le,
Religious Life: A Reflective Examination
of its Charism and Mission for Today (Cambridge Scholars Publishing, 2016),
Chương II.
[1] ĐGH Francis, Apostolic Letter to all Consecrated
People on the Occasion of the Year of Consecrated Life, n.1.
[2] Jean-Marie Roger Tillard, “Religious Life in the
Mystery of the Church”, trong The Mystery of Religious Life, biên tập bởi R.F.
Smith (St. Louis: Herder, 1967), 3.
[3] Jean-Marie Roger Tillard, “The Paths of
Obedience”, Lumen Vitae 31, 3-4 (1976), 282.
[4] Jean-Marie Roger Tillard, There are Charisms and
Charisms: The Religious Life (Brussels: Lumen Vitae, 1977), 12.
[5] Jean-Marie Roger Tillard, Devant Dieu et pour le
Monde: Le Projet des Religieux, Cogitatio Fidei Series 75 (Paris: Éditions du
Cerf, 1974), 147.
[6] Tillard, There are Charisms and Charisms, 67.
[7] Ibid., 16.
[8] Ibid., 17.
[9] Ibid., 13.
[10] Ibid., 13-15.
[11] Ibid., 15.
[12] Ibid., 36.
[13] Ibid., 37.
[14] Ibid., 37.
[15] Ibid., 37-41.
[16] Ibid., 25.
[17] Ibid.
[18] Ibid.
[19] Tillard, There are Charisms and Charisms,
15-16; Jean-Marie Roger Tillard, Religieux Aujourd’hui (Brussels: Lumen Vitae,
1972), 55; Tillard, “Religious Life in the Mystery of the Church”, 21-25.
[20] Tillard, “Religious Life in the Mystery of the
Church”, 4-5.
[21] Jean-Marie Roger Tillard, “Religious Life, Sign
of the Eschatological Church”, trong The Mystery of Religious Life, biên tập
bởi R.F. Smith (St. Louis: Herder, 1967), 61-63.
[22] Tillard, “Religious Life, sign of the
Eschatological Church”, 63-66; Tillard, “Religious Life in the Mystery of the
Church”, 15-16.
[23] Tillard, “Religious Life in the Mystery of the
Church”, 23.
[24] Jean-Marie Roger Tillard, A Gospel Path: The
Religious Life, chuyển dịch bởi Olga Prendergast (Brussels: Lumen Vitae), 17.
[25] Tillard, Devant Dieu et pour le Monde, 147.
[26] Tillard, “Religious Life in the Mystery of the
Church”, 8.
[27] Ibid., 8-9.
[28] Tillard, Religieux Aujourd’hui, 56-58; Xem thêm
Tillard, “Religious Life, Sign of the Eschatological Church”, 64; Jean-Marie
Roger Tillard, “Are Teaching Brothers still Needed?” Review for Religious 25, 6
(November 1966), 1019-1022; Jean-Marie Roger Tillard, “Religious Women and
Pastoral Work”, Review for Religious 25, 1 (January 1966), 6.
[29] Tillard, Religieux Aujourd’hui, 56-57.
[30] Tillard, “Religious Life in the Mystery of the
Church”, 21.
[31] Tillard, “Are Teaching Brothers still Needed?”
1020.
[32] Từ những nghiên cứu của mình, cha Tillard khám
phá ra rằng lúc khởi đầu không có ba lời khấn trong đời tu. Mãi đến thế kỷ thứ
12, khi đời tu được thiết lập một cách có quy củ, thì ba lời khấn mới xuất hiện
trong đời tu. Xem Tillard, Devant Dieu et pour le Monde, 121; Tillard, A Gospel
Path, 85, 94.
[33] Tillard, A Gospel Path, 101.
[34] Tillard, “Religious Life in the Mystery of the
Church”, 21. Cha Tillard trình bày những hình thức khác nhau và sự tiến triển
của bậc sống tu dòng: ‘the cenobitical life of St. Pachomius in the fourth
century, the monastic institution of St. Benedict around the sixth century,
mendicant orders in the twelfth century, congregations of clerks regular in the
sixteenth century, institutes of simple vows in the following centuries. All of
these show that diversity is no stranger to the religious state’ (22).
[35] Jean-Marie Roger Tillard, “Religious in the
Workyards of Men”, Lumen Vitae 31, 1 (1976), 85.
[36] Tillard, A Gospel Path, 24.
[37] Tillard, “Religious in the Workyards of Men”,
86.
[38] Tillard, A Gospel Path, 24.
[39] Ibid., 21.
[40] Donald C. Maldari, “The Identity of Religious
Life: The Contributions of Jean-Marie Tillard Critically Examined”, Louvain
Studies 14 (Winter 1989), 329; xem Jean-Marie Roger Tillard, Les Religieux aux
Coeur de l’Église, Cahiers de Communauté Chrétienne 5 (Montréal: Institut de
Pastorale, 1967; Paris: Éditions du Cerf, 1969), 11; Jean-Marie Roger Tillard,
“Sequela Christi”, Spiritual Life 18 (1972), 76-80; Tillard, Devant Dieu et
pour le Monde, 153-169 ; Tillard, A Gospel Path, 19-26.
[41] Tillard, A Gospel Path, 22; Tillard, Devant
Dieu et pour le Monde, 193.
[42] Tillard, A Gospel Path, 24.
[43] Tillard, A Gospel Path, 24-25; xem thêm
Jean-Marie Roger Tillard, “Le Fondement Évangélique de la Vie Religieuse”,
Nouvelle Revue Théologique 91 (1969), 933-953.
[44] Jean-Marie Roger Tillard, “The Theological
Viewpoint: Religious Life, a Choice Rooted in Faith”, in Faith and Religious
Life, biên tập bởi Jean-Marie Roger Tillard, et al. (Ottawa: Canadian Religious
Conference, 1971), 28; xem thêm Tillard, A Gospel Path, 24-25; Jean-Marie Roger
Tillard, “Le Fondement Évangélique de la Vie Religieuse”, Nouvelle Revue
Théologique 91 (1969), 933-953.
[45] Tillard, A Gospel Path, 20.
[46] Tillard, There are Charisms and Charisms,
35-36.
[47] Ibid., 45.
[48] Ibid., 43-44.
[49] Ibid., 41-43.
[50] Ibid., 43.
[51] Ibid., 44-46.
[52] Ibid., 46.
[53] Ibid., 47.
[54] Ibid., 49.
[55] Ibid., 47-48; xem thêm Tillard, Devant Dieu et
pour le Monde, 61-67.
[56] Joachim Jeremias, Rediscovering the Parables
(London: SCM Press, 1963), 158; được trích dẫn trong Tillard, There are
Charisms and Charisms, 48.
[57] Tillard, There are Charisms and Charisms,
49-50.
[58] Ibid., 50-51.
[59] Ibid., 29.
[60] Tillard, A Gospel Path, 34.
[61] Tillard, There are Charisms and Charisms, 56.
[62] Ibid., 56-57.
[63] Tillard, A Gospel Path, 162.
[64] Tillard, There are Charisms and Charisms,
56-57.
[65] Ibid., 57. Contemplation is not ‘interpreted as
a kind of secret attempt to remonasticize the Religious Life, ... not the level
of rites, of forms of prayer;’ it is of a wholly different level of existence
... that is, ‘the gaze of the heart, the mysterious presence of Christ in thick
of action’ (65).
[66] Tillard, There are Charisms and Charisms,
91-92.
[67] Ibid., 58.
[68] Ibid., 71.
[69] Tillard, “The Theological Viewpoint”, 36.
[70] Tillard, “The Theological Viewpoint”, 22; xem
Tillard, A Gospel Path, 26.
[71] Tillard, There are Charisms and Charisms, 71;
xem Tillard, A Gospel Path, 49-73.
[72] Tillard, There are Charisms and Charisms, 60.
[73] Tillard, A Gospel Path, 43.
[74] Ibid., 44.
[75] Tillard, A Gospel Path, 44.
[76] Tillard, There are Charisms and Charisms, 65.