Mục vụ về bí tích Thêm Sức là một trong những điều
quan trọng trong công việc mục vụ của một xứ đạo. Thế nhưng hiểu biết của chúng
ta về bí tích Thêm Sức thường rất giới hạn. Trong phạm vi thường huấn về Chúa
Thánh Thần, thiết nghĩ cũng nên dành cho thần học về bí tích Thêm Sức một chỗ
đứng. Đó là lý do của bài nghiên cứu này, vừa dựa trên các bản văn Kinh Thánh,
vừa làm nổi bật lịch sử của bí tích Thêm Sức. Có dựa trên hai cơ sở vững chắc ấy,
chúng ta mới có thể thấy rõ ý nghĩa thần học của bí tích Thêm Sức và tương quan
mật thiết của bí tích ấy với bí tích Rửa Tội.
I. NỀN TẢNG KINH THÁNH CHO GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH VỀ
PHÉP THÊM SỨC.
Dù
người ta có hiểu thế nào đi nữa về tương quan giữa phép Rửa và phép Thêm Sức,
thì cũng phải công nhận rằng ngay từ thời kỳ đầu của Giáo Hội đã có việc “đặt tay” sau phép Rửa, như bổ sung cho phép Rửa và thông ban
Thánh Thần.
A. VIỆC ĐẶT TAY THÔNG BAN THÁNH THẦN (SÁCH CÔNG VỤ
TÔNG ĐỒ).
Khi rao giảng Nước Thiên Chúa và Danh Đức Giêsu
Kitô (Cv 8, 12) thì phó tế Philíp đã bam phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu. Các
Tông Đồ nghe nói đến việc những người xứ
Samari đón nhận Lời
Chúa (8, 14), đã cử Phêrô và
Gioan đến đó. Hai vị này cầu nguyện cho những người Samari để họ lãnh nhận
Thánh Thần, vì họ mới chỉ được thanh tẩy nhân danh Chúa Giêsu. Phêrô và Gioan
đã đặt tay trên họ và họ đã lãnh nhận Thánh Thần (8, 15-17). Tương quan giữa ơn
Thánh Thần và việc đặt tay của các Tông Đồ càng nổi bật hơn khi Simon ‘dâng
tiền’ cho Phêrô và Gioan với hy vọng mua chuộc được quyền đặt tay và ban Thánh
Thần (8, 18-19).
Trong
Cv 19, 1-7 Thánh Phaolô đã hỏi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả xem các ông có chịu
Thánh Thần chưa, thì họ cho biết không hề nghe nói tới Thánh Thần vì họ chỉ
chịu phép rửa của Gioan. Phaolô đã nói thêm cho họ về Đức Giêsu, và họ đã được
thanh tẩy nhân danh Ngài. Sau đó Phaolô đã đặt tay trên họ, và Thánh Thần đã
đến trên họ.
Đoạn
thư Dt 6, 1-6 tối nghĩa hơn một chút. Nhưng cũng có thể nối kết “việc đặt tay”
được nhắc đến trong câu 2 với sự “thông hưởng Thánh Thần” được kể ra trong câu
4. Trước đó có ghi lại hiệu quả quan trọng nhất của phép Rửa là “được sáng soi”
(câu 4).
“... việc đặt tay, sự kẻ chết sống lại, và cuộc
phán xét đời dời. Đó là điều ta sẽ làm nếu Thiên Chúa ban phép.
Vì chưng thật là vô phương cho những kẻ đã một lần
được sáng soi, được thưởng thức ân lộc thiên đài, đã thông hưởng Thánh Thần,
cùng đã thưởng thức lời tốt đẹp của Thiên Chúa, và những mãnh lực lai thời, rồi
lại sa đoạ... (Dt 6, 2-5).
Cv
2, 38 thì được giải thích nhiều cách. Có người cho rằng câu này có ý phân biệt
phép Rửa nhân danh Đức Giêsu với phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Phép Rửa này ban
xuống cho kẻ tin ơn Thánh Thần (x. chú thích của Cha Nguyễn Thế Thuấn và Nhóm
phiên dịch CGKPV). Người khác cho rằng câu này nhắc tới việc ban phép Rửa và
việc đặt tay thông ban Thánh Thần của các Tông Đồ. Cũng có thể là cả hai, vì
phép Rửa Kitô-giáo quả thật thông ban Thánh Thần. Nhưng liền sau phép Rửa có
việc đặt tay của các Tông Đồ như để hoàn tất nghi thức “nhập đạo”.
Một
số học giả “Tin Lành tự do”, vì
khuynh hướng duy lý, đã phủ nhận giá trị của những đoạn sách Công Vụ trên, đặc
biệt hai đoạn quan trong nhất là đoạn 8 và đoạn 19. Họ cho rằng Tác Giả sách
Công Vụ pha trộn hai quan niệm trái ngược nhau : một quan niệm có nguồn gốc Hylạp, coi Thần Khí (Pneuma)
như một sức mạnh, một nguyên lý nội tại nơi hữu thể tự do, là nền tảng cho đời
sống luân lý và tôn giáo ; quan niệm thứ hai có nguồn gốc Kitô-Dothái-giáo, nhấn mạnh khía cạnh chủ vị của Thánh
Thần là Đấng không ngừng can thiệp, không ngừng tác động bằng các đặc sủng, các
ơn tiên tri và các phép lạ chữa bệnh.
Thực
ra hai ý nghĩa này không đối ngược nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Thánh Thần cũng
như hoạt động của Người rất đa dạng, không thể nào diễn tả hết được. Trong sách
Công Vụ, tùy trường hợp mà chúng ta có thể hiểu theo nghĩa khác nhau : trong
phần đầu, tác giả mô tả sinh hoạt tôn giáo của các kitô-hữu đầu tiên, nên nhấn
mạnh nhiều hơn đến những “kết quả” của tác động Chúa Thánh Thần trong đời sống
kitô-hữu ; còn trong những đoạn tường thuật các hoạt động của Tông Đồ Phaolô,
thì tác giả nhấn mạnh nhiều hơn đến sự can thiệp của Chúa Thánh Thần như một
“Chủ-vị” hướng dẫn, an ủi, giúp đỡ, soi sáng, chỉ đạo, thậm chí còn ra lệnh.
NHẬP
ĐẠO”.
Dựa
trên chứng từ của sách Công Vụ, chúng ta có thể khẳng định là có “việc thanh tẩy” (bain baptismal) và việc đặt tay. Đó là hai hành vi khác
nhau, bổ sung cho nhau. Việc thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu đã khởi đầu ban
Thánh Thần ; hành vi đặt tay hoàn tất việc thông ban Thánh Thần. Cả hai nhằm
“Kitô-hóa” hoàn toàn người tín hữu, đưa họ vào đời sống Kitô-giáo cách hoàn
toàn.
Sự
khai tâm trọn vẹn này đáp ứng lòng tin của Cộng Đồng Giáo Hội tiên khởi vào
Chúa Thánh Thần như Hồng Aân thời Messia cánh chung. Các Ngôn Sứ đã loan báo
việc đổ tràn Thánh Thần, dưới hình ảnh một dòng suối trào vọt mang đến ơn cứu
độ (Ga 7, 37 ; Ed 39, 29 ; Dcr 12, 10 ; Ge 3, 1-2). Theo nhiều giáo phụ, lời
tiên tri đó ứng nghiệm lần đầu vào việc Thánh Thần xuống trên con người Đức
Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Thánh Thần đến sau khi Đức Giêsu chịu phép
rửa. Marcô và Matthêu nói rõ : “Chịu
thanh tẩy xong, Đức Giêsu liền lên khỏi nước ; và này : trời mở ra và Ngài thấy
Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu mà đến trên Ngài” (Mc 1, 10 ; Mt
3, 16). Đó là “mẫu mực” báo trước việc Thánh Thần sẽ xuống trên các môn đệ sau
khi Đức Giêsu được tôn vinh (Cv 1, 8). Nó thể hiện cách “lạ thường” vào ngày lễ
Ngũ Tuần. Khi Cornêliô hoán cải và muốn theo đạo, Thánh Thần cũng xuống cách
đặc biệt trên gia đình ông còn là ngoại giáo, và điều đó trở nên dấu hiệu đối
với Phêrô để ban phép Rửa cho họ, để họ hoàn toàn thuộc về Cộng Đồng kitô-hữu
(Cv 10, 47).
Phaolô,
trong các thư, như không phân biệt rõ hai hành vi này. Chữ “phép Rửa”
(Baptismos) trong các thư của ông, chỉ nghi thức gia nhập Kitô-giáo gồm hai
hành vi chính là việc rửa và việc đặt tay. Theo Phaolô, trở thành kitô-hữu và
lãnh nhận Thánh Thần luôn đi đôi với nhau (Rm 8, 9 ; Gl 4, 6).
C. VIỆC XỨC DẦU TRONG TÂN ƯỚC VÀ PHÉP THÊM SỨC.
Việc
xức dầu được nhắc đến rất nhiều trong Tân Ước. Tân Ước cho rằng chính Đức Giêsu
đã được xức dầu (Cv 10, 38 và 4, 27 ; Lc 4, 18 ; Dt 1, 9). Chữ “xức dầu” được lấy từ Cựu Ước và ứng
dụng cho Chúa Kitô theo nghĩa “biểu tượng”.
Những
chỗ khẳng định về việc “xức dầu” cho người kitô-hữu gần giống như việc Đức Kitô
được xức dầu (2Cr 1, 21 ; 1Ga 2, 20-27). Dựa vào Cựu Ước, Tân Ước có thể nói
đến cương vị tư tế và vương giả của người kitô-hữu do việc xức dầu (1Pr 2, 9 ;
Kh 1, 6 ; 5, 10 ; 20, 6 ; 22, 5).
Nhưng
chúng ta không thể căn cứ vào những câu Kinh Thánh đã được liệt kê để đồng hóa
việc xức dầu ấy với bí tích Thêm Sức. Khách quan mà nói : mặc dù Phaolô có đề
cập đến “ấn tín” và việc xức dầu Thánh Thần, không có gì minh chứng rằng Phaolô
coi đó là một nghi thức riêng, phân biệt với toàn bộ bí tích Rửa Tội.
Chỉ
từ thế kỷ III, người ta mới thấy rõ hơn vai trò của “cử chỉ xức dầu” trong toàn
bộ nghi thức gia nhập Kitô-giáo.
II. LỊCH SỬ BÍ TÍCH THÊM SỨC.
A. VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC NGHI THỨC TRONG NGHI LỄ GIA
NHẬP KITÔ-GIÁO.
1. Việc đặt tay.
Trong
Giáo Hội Đông phương, xuất hiện vào
thế kỷ III ở Antiôkia và Tiểu Á (Didascalie des Apôtres). Nghi thức này được cử
hành hoằc chính lúc dội nước (hay nhận xuống nước) hoặc trước đó. Theo Théodore
de Mopsueste, đến thế kỷ V vẫn vậy.
Ở
miền Đông Syrie thì nghi thức này có chỗ đứng quan trọng hơn. Ở Ai-cập, việc
đặt tay được cử hành giữa những nghi thức nối dài việc dội nước (Copte).
Trong
Giáo Hội Tây phương, nghi thức có vào
thế kỷ III ở Phi Châu (tertullien, Cyprien) và ở Rôma (Tradition Apostolique).
Vào thế kỷ IV, không cò trong Giáo Hội Milan của Ambrôsiô, nhưng ở xứ Gaule
(Hilaire de Poitiers), ở Tây-ban-nha (Elvire) và ở Rôma (Jérôme). Đầu thế kỷ V,
Augustinô cử hành trong Giáo Hội của ngài. Sau đó, nghi thức dần dần bị lãng
quên và được thay thế bằng nghi thức “xức dầu” hay “ghi dấu”.
Cần
lưu ý là trong Giáo Hội Tây phương, chỉ đặt một tay thay vì hai tay. Việc đặt
hai tay chỉ có vào thế kỷ XIII (Durand de Mende). Việc đặt một tay không thể
lẫn lộn với nghi thức đặt hai tay trong bí tích Truyền Chức. Hơn nữa, việc đặt
tay không nhằm cá nhân, mà nhằm “nhóm người” nhận lãnh phép Rửa. Tới thế kỷ IX
mới có khuynh hướng cá nhân hóa. Sau nghi thức đặt tay cho tập thể, có nghi
thức đặt tay lên đầu từng người. Vào thế kỷ XIII, giám mục Durand de Mende thay
thế tất cả bằng việc đặt hai tay trên toàn thể những người chịu phép Rửa. Nghi
lễ Latinh hôm nay còn giữ lại dấu vết này.
2. Việc xức dầu.
Đây cũng là một nghi thức quan trọng ở Đông phương
cũng như Tây phương.
+
Miền tây xứ Syria, vào thế kỷ IV mới có nghi thức “xức dầu” sau khi dội nước
(Constitutions Apostoliques, Cyrille de Jérusalem). Miền Đông Syria chỉ áp dụng
vào thế kỷ VII.
+ Ở
Tây phương, người ta làm thường xuyên hơn. Nghi thức đã được Hippolyte,
Tertullien, Cyprien nói đến vào thế kỷ III ; thế kỷ IV bởi Pacien ở Tây-ban-nha
và Ambrôsiô ở Milan ; thế kỷ V bởi Augustinô, Rufino, Innocent I, Léon, Gelasio
; thế kỷ VI bởi “Liber Pontificalis” và “Sacramentaire Gélasien”.
+
Giáo Hội Tây phương có nhiều cách cử hành nhgi thức này. Thường Giám mục cử
hành (Tertullien, Ambrôsiô, Sacramentaire Gélasien). Nhưng nếu giám mục không
có mặt thì linh mục có thể xức dầu, ngay cả phó tế. Việc xức dầu có thể hai
lần, lần sau do giám mục. Như vậy, có việc xức dầu của linh mục và lần xức dầu
của giám mục trong cùng một buổi cử hành, hay vào hai buổi khác nhau (Innocent
I,
Hippolyte).
+
Giáo Hội Đông phương không “xức dầu” hai lần ; nếu linh mục rửa tội thì chính
ngài xức dầu (Constitutions Apostoliques).
+
Thường chỉ xức dầu trên trán (Constitutions Apostoliques , Cyprien, Ambrôsiô,
Augustinô) ; ở Đông phương, có khuynh hướng xức nhiều chi thể (trán, tai, mũi,
ngực, tay, chân) - hơi giống bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân bên Tây phương. Ở Rôma,
để phân biệt, linh mục xức dầu trên đỉnh đầu và Giám mục xức trên trán
(Hippolyte, Innocent I).
+ Ở
Đông cũng như Tây phương, dầu xức đều do Giám mục “hiến thánh”.
3. Việc ghi dấu Thánh Giá (Signatio).
Thế kỷ III ở Rôma (Cornêliô, Hippolyte), ở Phi châu
(Tertullien , Cyprien) ; thế kỷ IV ở Milan (Ambrôsiô) ; thế kỷ V bởi Lêô Cả.
Sau đó, ở Tây phương, nghi thức này gắn liền với nghi thức xức dầu.
Trong
Giáo Hội Đông phương, chỉ có chứng từ của Théodore de Mopsueste.
Ngoài
những nghi thức trên được cử hành sau hành vi rửa tội, Cộng Đồng kitô-hữu còn
làm một số nghi thức khác như : “rửa chân”, “mặc áo trắng”, “hôn bình an”,
“trao nến sáng”. Nhưng những nghi thức này không quan trọng,, nên càng ngày
càng vắn đi, và có phần về sau không còn nữa.
B.THAY ĐỔI CHI TIẾT TRONG NGHI THỨC.
1. Việc đặt một hay hai tay.
Việc đặt tay thường có ý nghĩa ban ơn Thánh Thần
cho người kitô-hữu. Có khi kê khai bảy ơn Thánh Thần dựa vào Is 11, 2. Hai đoạn
Công Vụ (8, 9-24 ; 19, 1-7) nói đến việc dặt tay để ban Thánh Thần cũng thường
được ghi rõ.
“Người ta đặt tay trên chúng tôi trong khi kêu cầu,
lôi kéo Thánh Thần xuống trên chúng tôi nhờ lời cầu nguyện kèm theo những nghi
lễ thánh ấy. Lúc bấy giờ Thần Khí rất thánh xuất từ Chúa Cha xuống trên các
thân thể đã được thanh tẩy và chúc lành : Người đáp xuống trên nước rửa tội như
nhận ra ngai tòa của Người ; Người là Đấng đã xuống trên Chúa chúng ta dưới
hình chim bồ câu... Người đáp xuống trên chúng ta, mang đến cho chúng ta hình
ảnh của Thiên Chúa” (Tertullien, Traité du Baptême 8).
“Những ai đã chịu phép Rửa trong Giáo Hội được
trình diện với các Lãnh Đạo của Giáo Hội để nhận lãnh Chúa Thánh Thần qua lời
cầu nguyện và việc đặt tay của chúng ta” (Cyprien, Lettre 73, 9).
“Trong khi đặt tay, Giám mục cầu nguyện : “Lạy Chúa
là Thiên Chúa, Đấng đã làm cho những người này trở nên xứng đáng nhận lãnh ơn
tha tội bởi phép Rửa tái sinh, xin Ngài hãy làm cho họ xứng đáng được tràn đầy
Chúa Thánh Thần, xin đổ xuống trên họ ân sủng của Ngài, để họ phụng sự Ngài
theo như ý Ngài” (Tradition Apostolique 21, 4).
“Chúa Thánh Thần chỉ đến trên một người nào đó qua
việc đặt tay” (Augustinô, Sermon 266, 6).
“Lạy Thiên Chúa toàn năng, Cha của Chúa chúng ta,
Đức Giêsu Kitô, Ngài là Đấng làm cho các tôi tớ được tái sinh bởi nước và Thánh
Thần và đã ban cho họ ơn tha thứ mọi tội lỗi ; xin hãy sai đến với họ Thánh
Thần của Ngài là Đấng “Bênh Vực”. Xin hãy ban cho họ “Thần Khôn Ngoan và Hiểu
Biết, Thần Khuyên Bảo và Sức Mạnh, Thần Tri Thức và Đạo Đức. Xin cho họ đầy
Thần Kính Sợ Thiên Chúa” (Sacramentaire Gélasien).
Qua các đoạn văn trên chúng ta có thể cô đọng lại :
+
Điều nổi bật là sự quy chiếu về Chúa Thánh Thần.
+
Ơn ban Thánh Thần lấy lại những ý nghĩa chính của phép Rửa : sự liên kết với
Chúa Kitô ; ơn tha tội ; đời sống trong Giáo Hội.
+ Vài dấu nhấn : việc trung thành phụng sự Thiên
Chúa ; chiều hướng cánh chung ; vai trò của thừa tác vụ Giám mục.
2. Việc xức dầu.
Nghi thức
này có ý nghĩa giống như việc đặt tay, dù nhấn mạnh hơn khía cạnh “triển nở” và
sức mạnh mà sự sống do phép Rửa phải có.
“Khi thụ nhân lên khỏi nước, thụ nhân phải được một
linh mục xức dầu đã hiến thánh, đọc những lời sau đây : “Ta ghi dấu ngươi bằng
dầu thánh nhân danh Đức Giêsu Kitô”. Sau khi Giám mục đã đặt tay, đổ dầu hiến thánh,
xức lên đầu thụ nhân và nói : “Ta ghi dấu ngươi bằng dầu thánh, nhân danh Thiên
Chúa Cha Quyền Năng trong Đức Kitô-Giêsu và Chúa Thánh Thần” (Hippolyte,
Tradition Apostolique 21, 4-5)
“Khi chịu phép Rửa cứu độ xong, người ta xức dầu
thánh cho chúng tôi... Danh xưng “Kitô”
của chúng tôi phát xuất từ dầu ấy, việc xức dầu cũng đã đưa tới cho Chúa chúng
ta danh xưng “Kitô” vì Ngài đã được Chúa Cha xức dầu Thánh Thần... Như vậy,
chúng ta được xức dầu trên thân xác, nhưng kết quả của nó đổ trán trong tâm
hồn” (Tertullien, Traité du Baptême 7).
“Anh em đã được xức dầu và lãnh nhận dấu hiệu của
Thánh Thần... Được xức dầu thánh, anh em được gọi là kitô-hữu, và sự tái sinh
của anh em làm cho cái tên ấy nên đúng. Trước khi nhận lãnh ân sủng, anh em
không xứng đáng có tên ấy, anh em bấy giờ mới đang trên đường trở thành
kitô-hữu” (Cyrille de Jérusalem, Catéchèse mystagogique III, 1. 5).
“Dầu là bí tích của Thánh Thần” (Augustinô, Sermon
227).
“Việc xức dầu trên trán dành riêng cho các Giám mục
khi các ngài thông ban Thánh Thần” (Innocent I , Lettre à Decentius).
“Việc xức dầu Thánh Thần hiến thánh những người đã
chịu phép Rửa như là tư tế, đến nỗi mọi kitô-hữu xứng với Danh xưng ấy đều công
nhận họ thuộc dòng vương đế và thông phần chức năng tư tế” (Léon, Sermon 4, 1).
“Những ai đã được rửa tội... nhận lãnh như một ấn
tín vương đế việc xức dầu thiêng, và dưới hình thái biểu tượng là dầu, họ nhận
lãnh ân sủng vô hình của Chúa Thánh Thần” (Théodoret de Cyr - 5e s.
-, Commentaire sur le Cantique 61).
Tóm lại, ý nghĩa của việc xức dầu như sau :
+
Quy về Chúa Thánh Thần ; việc xức dầu của linh mục có lẽ không minh nhiên mang
ý nghĩa này.
+ Lấy lại các ý nghĩa của phép Rửa và nhấn mạnh
việc “nội tâm hóa” mà đức tin phép Rửa đòi hỏi, sức mạnh mà đời sống kitô-hữu
phải bày tỏ, khía cạnh tuyển chọn cho sự sống đời đời, tương quan với các thừa
tác viên có chức thánh.
Như
vậy, xức dầu có cùng tầm quan trọng với việc đặt tay.
3. Việc ghi dấu (signatio).
“Sau khi thoát khỏi bệnh tật, Novatien không có
nhận lãnh những điều phải nhận theo quy luật của Giáo Hội và không có nhận
‘việc ghi dấu’ của Giám mục. Không nhận những điều ấy, làm sao hắn có thể nhận
lãnh Thánh Thần” (Lettre de Corneille, - 3e sìecle).
“Những ai đã chịu phép Rửa trong Giáo Hội được
trình diện với các thủ lãnh Giáo Hội... để được ‘hoàn tất’ bởi dấu (signe) của
Chúa” (Cyprien, Lettre 73, 9).
“Sau đó thì tới ấn tín thiêng liêng... Vì chưng,
sau phép Rửa trong dòng suối, còn phải làm cho hoàn tất : Thánh Thần được đổ
xuống qua lời cầu nguyện của Giám mục. Thánh Thần khôn ngoan và hiểu biết,
khuyên bảo và sức mạnh, tri thức và đạo đức, Thánh Thần kính sợ : giống như bảy
‘nhân đức’ của Thánh Thần” (Ambroise, Des sacrements III, 8).
“Lúc bấy giờ ngươi còn phải được ghi dấu trên
trán... Bằng lời kêu cầu Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, người ta ban
cho ngươi ‘dấu’, đó là dấu hiệu Chúa Thánh Thần cũng đến trên ngươi, là ngươi
đã được xức dầu Thánh Thần, ngươi đã lãnh nhận Thánh Thần cách nhưng-không,
ngươi sở hữu Thánh Thần và Thánh Thần ở trong ngươi” (Théodore de Mopsueste,
Homélies catéchétiques XIV, 27).
“Dấu Thánh Giá làm cho những ai đã tái sinh trong
Đức Kitô trở nên những vì vua” (Léon I, Sermon 4, 1)
“Được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần, các ngươi đã
nhận lãnh ấn tín sự sống đời đời” (Léon I,
Sermon 24, 6).
Ý nghĩa chung :
+
Thiết lập tương quan với Đức Kitô và Thánh Thần.
+
Biểu tượng diễn tả sự sống phép Rửa, mà việc cử hành bí tích có chiều hướng
cánh chung, quy về sự sống đời đời.
C. TIẾN TRIỂN PHÂN BIỆT.
Dù
lấy lại các ý nghĩa của nghi thức rửa tội, các nghi thức sau dần dần mặc một ý
nghĩa riêng, khác nghi thức rửa tội.
“Tôi không muốn nói rằng chúng ta nhận lãnh Thánh
Thần trong nước. Nhưng, nhờ được rửa sạch tội lỗi trong nước, chúng ta được
chuẩn bị ... đón nhận Thánh Thần” (Tertullien, Traité du Baptême 6).
“Không phải người ta sinh ra lúc lãnh nhận Thánh
Thần nhờ việc dặt tay, nhưng sinh ra trong phép Rửa ; và một khi đã được sinh
ra, người ta lãnh nhận Thánh Thần” (Cyprien, Lettre 24, 7).
“Phép Rửa được ban trước và còn phải đắc thủ Thánh
Thần sau phép Rửa” (Grégoire de Nazianze,
Discours 31, 29).
“Ai đã chịu phép Rửa trong nước mà chưa nhận lãnh
Thánh Thần, người ấy không có ‘đầy đủ’ ân sủng” (Cyrille se Jérusalem,
Catéchèse III, 4).
“Sau giếng nước, còn phải làm cho đầy đủ, khi, nhờ
lời kêu cầu của Giám mục, Thánh Thần được đổ xuống” (Ambroise, Des sacrements
III, 8).
“Nhờ phép Rửa, các tội lỗi được thanh tẩy ; nhờ dầu
xức, Thánh Thần được đổ tràn” (Pacien de
Barcelone, -4e s.).
D. BA LÝ DO GIẢI THÍCH.
1. Khuynh hướng nối dài nghi thức Rửa tội bằng cử
chỉ nhấn mạnh ơn Thánh Thần.
Người ta đi dần từ “nhấn mạnh” đặc biệt, sang một
loại “hậu quả chuyên biệt” : Thánh Thần gắn liền đặc biệt hơn với các nghi thức
ghi dấu, đặt tay hay xức dầu.
Nhưng
đừng nghĩ rằng trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, nghi thức Rửa tội không còn
quy chiếu về Thánh Thần.
“Nước, được thánh hiến bởi Chúa Thánh Thần, đã nhận
lãnh sức mạnh thánh hóa con người trong bí tích” (Tertullien, Traité du Baptême
4).
“Không phép Rửa nơi nào không có Thánh Thần, vì
phép Rửa không thể có nếu không có Thánh Thần” (Basile, Traité du Saint Esprit
15, 132a).
“Nước không thể rửa một linh hồn, nếu tiên vàn
không được thanh tẩy bởi Thánh Thần... Phép Rửa đích thực là phép Rửa nhờ đó mà
Thánh Thần đến” (Jérôme, Dialogue contre les lucifériens 6).
“Sự tái sinh nhờ đó mọi tội lỗi được tha, được thể
hiện trong Chúa Thánh Thần” (Augustin, Sermon 71,12)
2. Những vấn đề cụ thể về hiệp nhất trong Giáo Hội.
Đặc biệt từ thế kỷ III, Giáo Hội Tây phương đã phải
đương đầu với những nhóm ly khai, làm nảy sinh hai vấn đề :
+
Nghi thức gia nhập Kitô-giáo trong các Giáo Hội ly khai có giá trị gì không ?
+
Các kitô-hữu ly khai muốn trở về với Giáo Hội phải hòa giải thế nào ?
Về
vấn đề này, Giáo Hội Bắc Phi và Giáo Hội Rôma có hai lập trường đối chọi nhau :
- Tertullien theo Giáo Hội Bắc Phi (Cyprien) đòi rửa tội lại ; - Giáo Hội Rôma
chỉ yêu cầu tuyên xưng niềm tin Ba Ngôi, sau đó có nghi thức hòa giải bằng việc
Giám mục “đặt tay”.
Vào
thế kỷ IV, cách giải quyết của Rôma thắng thế.
Việc
hòa giải các người theo bè rối có tầm quan trọng theo hai nghĩa :
+
Một là, việc thực thi hòa giải nhấn mạnh các nghi thức sau nghi thức Rửa tội :
·
Ở Rôma,
người ta hòa giải bằng nghi thức đặt tay (Cyprien, Lettre 72, 1 và 74, 1).
·
Liền sau
việc đặt tay, có lẽ là cử chỉ “ghi dấu”.
+
Hai là tranh luận này làm nổi bật một trong những ý nghĩa của phép Rửa : chiều kích Giáo Hội.
“Lời tuyên tín của chúng ta và lời hứa cứu độ, vì
nhằm Ba Ngôi Thiên Chúa, vậy phải nói tới Giáo Hội. Vì chưng, nơi nào có Cha,
Con, Thánh Thần : nơi đó có Giáo Hội là ‘Thân thể của Ba Ngôi Thiên
Chúa’”(Tertullien, Traité du Baptême 6).
“Như người kitô-hữu được sinh ra từ phép Rửa ; sự
sinh ra và hiến thánh do phép Rửa xảy ra nơi Hôn Thê duy nhất của Đức Kitô,
người duy nhất có khả năng sinh ra cách thiêng liêng những con cái cho Thiên
Chúa, vậy thì những kẻ không là con cái Giáo Hội, sinh ra ở đâu và cho ai ? Để
có Thiên Chúa là Cha, phải có Giáo Hội là Mẹ” (Cyprien, Lettre 74, 7).
Trong Giáo Hội, Giám mục được coi như bảo đảm khách
quan và chắc chắn sự duy nhất :
“Về việc “ghi dấu” cho các trẻ em, không ai có thể
làm ngoài Giám mục... Khi các linh mục rửa tội, có mặt Giám mục hay không, các
ông có quyền xức dầu do Giám mục hiến thánh, nhưng không có quyền ghi trên trán
bằng dầu ấy, vì điều đó dành riêng cho Giám mục khi các Ngài thông ban Thánh
Thần” (Innocent I, Lettre à Decentius).
3. Sự phát triển của Giáo Hội.
Càng ngày càng phải rửa tội cho nhiều trẻ em và có
thêm nhiều nơi thờ phượng. Giám mục không thể chủ sự trong mọi buổi cử hành
phép Rửa. Trong thực tế, có hai đường lối giải quyết :
+
Nhiều trường hợp, linh mục và ngay cả phó tế hoàn tất nghi thức gia nhập
Kitô-giáo (Giáo Hội Đông phương từ thế kỷ IV ; vài nơi trong Giáo Hội Tây
phương) ;
+
Trong vài trường hợp khác, càng ngày càng thường xuyên hơn ở Rôma và trong cả
Giáo Hội Tây phương, các nghi thức gia nhập Kitô-giáo được tách làm hai :
·
Linh mục
làm phép Rửa và thêm một số nghi thức diễn ý như xức dầu trên đỉnh đầu, trao áo
trắng, trao nến sáng ;
·
Giám mục,
khi có thể được (hay khi có dịp), can thiệp bằng một buổi cử hành khác : đặt
tay, xức dầu trên trán và nói rõ đến Thánh Thần, ghi dấu. Có nơi ngài còn rửa
chân và hôn bình an. Nghi thức mà Giám mục cử hành được gọi là “Confirmatio” từ
thế kỷ V.
“Giám mục đi thăm những người ở xa thành phố, đã
được các linh mục rửa tội, để đặt tay trên họ cầu xin Thánh Thần” (Jérôme,
Dialogue contre les lucifériens 9).
Từ thế kỷ V, việc xức dầu và ghi dấu trở thành một
cử chỉ duy nhất : người ta gọi là “consignatio” rồi “Chrismatio”.
Sự
phân chia nghi thức cho linh mục và Giám mục có lẽ có nhiều nguyên do sau :
+
Nghi thức “Rửa tội” đòi hỏi được “bổ sung” ; dù hướng về bí tích Thánh Thể, nhu
cầu bổ sung vẫn còn, nhất là khi Giám mục không thể hiện diện trong mọi phép
Rửa. Vậy cần cử chỉ nào để bổ sung ? hay chọn ‘việc xức dầu”, việc đặt tay dành
riêng cho Giám mục...?
+
Do đòi hỏi của những người chịu phép Rửa ; họ sợ chết trước khi Giám mục đến
nơi họ ở.
+
Nhưng đó là cho từng cá nhân, còn vấn đề là làm sao nhấn mạnh khía cạnh tập
thể, nối kết cộng đoàn với các cộng đoàn khác, đề cao Giám mục là dấu chỉ hiệp
nhất. Có lẽ đó là lý do khiến cho nghi thức “Confrmatio” dần dần trở nên độc
lập.
Có
thể tóm lược sự biến chuyển tập trung vào ba nguyên do :
+
Đòi hỏi nhấn mạnh về Chúa Thánh Thần ;
+
Bận tâm duy trì sự hiệp nhất ;
+
Kinh nghiệm về sự phát triển của Giáo Hội.
E. LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH THỜI TRUNG CỔ.
Trong giai đoạn đầu của thời Trung cổ, người ta còn
cử hành cả hai nghi thức : đặt tay trước, rồi sau đó xức dầu bằng cách ghi dấu
Thánh giá. Đối với Bède le Vénérable và Isidore de Séville, thì hai nghi thức
này gắn liền với nhau mật thiết.
Có
khi người ta coi “việc dặt tay” hàm chứa trong việc ghi dấu bằng dầu hiến
thánh.
Trong thần học kinh viện thời sau, người ta nhấn
mạnh đến việc xức dầu đến nỗi không còn bàn đến việc đặt tay nữa. Có biến
chuyển khá rõ từ Công Đồng Lyon II năm 1274 đến Công Đồng Florence khẳng định :
“Các Giám mục ban bí tích Thêm Sức, bằng
cách xức dầu Chrisma cho những người mới được tái sinh” (D. 465). Sắc lệnh
gửi cho người Arméniens thì viết : “Thay
vì đặt tay, người ta ban phép Thêm Sức trong Giáo Hội bằng việc xức dầu Chrisma
kèm theo công thức hiện hành : “Ta ghi dấu cho ngươi” (Signo te...).
Theo
Pierre Lombard, mô thức bí tích là lời mà Giám mục đọc khi xức dầu trên trán
thụ nhân. Chỉ Giám mục mới có quyền ban phép Thêm Sức. Hiệu quả bí tích là
thông ban Thánh Thần để người kitô-hữu được mạnh sức, so với phép Rửa tội ban
Thánh Thần để tha tội. Giống như trường hợp phép Rửa và bí tích Truyền Chức,
không được Thêm Sức lại. Nhưng chỉ với thánh Tôma, phép Thêm Sức mới được coi
là bí tích với đầy đủ ý nghĩa : “Dấu chỉ
hữu hiệu ban ân sủng do Đức Kitô thiết lập”. Lúc đầu thánh Tôma cho rằng
Đức Giêsu lập phép Thêm Sức khi Người đặt tay trên đầu các trẻ em (x. Mt 19,
15). Về sau, ông bỏ ý kiến này ; theo ông, Đức Kitô lập bí tích này khi hứa ban
Thánh Thần (x. Ga 16, 7). Mà Thánh Thần chưa được ban trọn vẹn khi Đức Kitô
chưa được tôn vinh.
Đối
với Tôma, chất thể cốt yếu của bí tích là dầu Chrisma. Ngài không đề cập đến
việc đặt tay trong tác phẩm “Opusculum de
articulis fidei et Ecclesae sacramentis”, và cho rằng việc Thêm Sức
(confimatio) thay thế việc đặt tay. Khẳng định này của Tôma đã được Huấn Quyền
lấy lại từng chữ trong Sắc lệnh gửi người Arméniens (D. 697).
Bonaventura
coi “dầu xức” như chất thể thiết yếu, nhưng có kèm theo việc đặt tay
(Breviloquium p.6,c.8).
Mô
thức bí tích là lời đọc của Giám mục khi ghi dấu trên trán bằng dầu Chrisma : “Ta ghi cho ngươi dấu Thánh Giá, và ta củng
cố ngươi bằng dầu cứu rỗi”. Trong Giáo Hội Latinh, công thức này có từ thế
kỷ X. Trong Giáo Hội Đông phương, với công thức “Aán tín hồng ân Chúa Thánh Thần”.
Mục đích của phép Thêm Sức là củng cố, thêm sức
mạnh cho người đã chịu phép Rửa, để họ có can đảm tuyên xưng Danh Chúa Kitô.
Trong Tổng luận thần học (III, q. 72, a. 5), Tôma cho rằng nhờ phép Thêm Sức mà
chúng ta có khả năng thực hiện cuộc chiến thiêng liêng chống lại các kẻ thù của
đức tin. Ơn phép Thêm Sức không phải để tha tội, mà để tăng thêm và củng cố sự
công chính.
Giáo
Hội không cho phép Thêm Sức lại lần thứ
hai. Dựa vào đó, thần học kinh viện đã suy ra “ấn tín không phai mờ”, bắt đầu
với Guillaume d’Auxerre và Hugues de Saint Cher. Pierre Lombard coi điều đó là
chắc chắn, không thể nghi ngờ được. Nhưng có điều khó khăn là nghi thức người
theo lạc giáo trở lại rất giống phép Thêm Sức : có nơi thì “đặt tay”, có nơi
thì xức dầu sau khi thanh tẩy lại cách tượng trưng. Chính vì lý do này mà
Photius đã tố cáo Giáo Hội Latinh ‘thêm sức lại’.
Các
thần học gia kinh viện coi Giám mục là thừa tác viên ban bí tích Thêm Sức. Đó
là truyền thống của Giáo Hội Latinh. Theo như Hippolyte, sau lần xức dầu của
linh mục, Giám mục đặt tay và xức dầu. Đức Thánh Cha Innocent I cấm các linh
mục ban phép Thêm Sức, dựa vào thói quen của Giáo Hội và cách thực hành của các
Tông Đồ (Cv 8, 14-17).
Nhưng
trong truyền thống của Giáo Hội cũng có luật trừ : nơi nào không có Giám mục
thì các linh mục được phép xức dầu trên trán những người đã chịu phép Rửa
(Grégoire le Grand, Ep. 16 : ad Januarium).
Trong
Giáo Hội Đông phương, linh mục được công nhận là thừa tác viên bí tích Thêm Sức
rất sớm. Các văn kiện cổ chỉ nói rằng Giám mục, nếu rửa tội cho ai thì cũng xức
dầu và đặt tay trên người ấy. Cách thực hành này của Giáo Hội Đông phương được
Giáo Hội Rôma công nhận. Nhưng ngay cả trong Giáo Hội Đông phương, chỉ có Giám
mục mới được hiến thánh dầu để thêm sức.
F. TỪ SAU THỜI TRUNG CỔ CHO TỚI NAY.
Từ thế kỷ XVI, phong trào Cải-cách (Tin lành) không
coi phép Thêm Sức là bí tích. Đối với họ, phép Thêm Sức chỉ là một trong những
nghi thức mà cha ông để lại, nhưng không phải do lệnh truyền của Chúa, cũng
không có bảo đảm ân sủng (Appologia confessionis 1-2, DS 1628-1629).
Sau
Công Đồng Trentô, để chống lại người Tin lành, nhiều người trong Giáo Hội Công
Giáo đã nỗ lực minh chứng tính bí tích của phép Thêm Sức, dựa vào Kinh Thánh.
Thánh Bellarmin có công lớn trong việc làm này, nhưng cũng chưa xây dựng được
một thần học về bí tích Thêm Sức. Vấn đề là làm sao minh chứng là Chúa đã hứa
cho mọi kitô-hữu thuộc mọi thời đại, hồng ân Thánh Thần khác với ơn Thánh Thần
trong phép Rửa ; Thánh Thần được ban nhờ việc đặt tay thời Giáo Hội sơ khai
không chỉ là đặc sủng ; và việc đặt tay ban Thánh Thần phải có tương quan nào
đó với Đức Kitô. Thần học còn phải nỗ lực nhiều để làm công việc này.
Ngày
nay, phong trào canh tân phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo góp phần rất nhiều vào
việc xây dựng thần học về bí tích Thêm Sức.
Điều
quan trọng thứ nhất là người ta nhận ra rõ hơn chỗ đứng của bí tích Thêm Sức :
bí tích Thêm Sức bổ sung cho phép Rửa, hoàn tất phép Rửa, cần thiết để xây dựng
một đời sống kitô-hữu trưởng thành.
Việc
canh tân phụng vụ cũng làm cho hiểu sâu hơn ý nghĩa lễ Phục Sinh và lễ Hiện
Xuống. Nhờ đó, ta cũng hiểu hơn bí tích Thêm Sức gắn liền với phép Rửa như Hiện
Xuống gắn liền với Phục Sinh. Phép Thêm Sức là bí tích của Thánh Thần Viên Mãn
thời Messia. Chính vì thế mà bí tích ấy mang người kitô-hữu lên địa vị rất cao
: hiến thánh họ thành tư tế, tiên tri, vương đế trong Vương Quốc của Thánh
Thần. Và vì Thánh Thần Chúa đến bao phủ địa cầu, phép Thêm Sức làm cho những
người kitô-hữu thành những người tuyên xưng đức tin và Tông Đồ rao giảng Nước
Chúa Kitô.
Điều
thứ hai cũng khá quan trọng, ảnh hưởng đến thần học về bí tích Thêm Sức, là
quyết định của Đức Piô XII năm 1946, cho phép linh mục cử hành bí tích Thêm Sức
khi cần thiết (Sacra Congregatio de Disciplina Sacramentorum, Decretum
14.9.1946 : AAS 38 (1946), 349-354). Quyết đinh này được coi như hành vi “cởi
trói”, đưa cách thực hành của Giáo Hội Latinh xích lại gần cách thực hành của
Giáo Hội Đông phương, nhờ đó mà Giáo Hội Latinh tiếp thu những điều tích cực và
phong phú trong truyền thống Đông phương, đặc biệt từ khoa Thánh-Linh-học của
Đông phương.
Đặc
biệt hơn cả là trong Nghi thức gia nhập Kitô-giáo của người lớn, do Thánh Bộ
Phụng Tự công bố năm 1972, ở giai đoạn III cử hành các bí tích nhập đạo, nối
kết mật thiết các bí tích Rửa tội - Thêm Sức- Thánh Thể. Mô thức của bí tích
Thêm Sức là mô thức của Giáo Hội Đông phương, được áp dụng từ thế kỷ IV-V : “T... Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh
Thần” (N... Accipite signaculum Donum Spiritus Sancti).
III. THẦN HỌC VỀ BÍ TÍCH THÊM SỨC.
A. THÁNH
THẦN VÀ PHÉP RỬA TRONG THẦN HỌC CỦA TÂN ƯỚC.
1. Sự nối kết cụ thể, sinh động và hữu hiệu với Đức
Giêsu Kitô Phục Sinh.
Kitô-hữu chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv
2, 38), để cho Đức Giêsu Kitô tác động và biến đổi, được đưa vào sự Phục Sinh
cánh chung của Ngài.
Chân
lý này có thể diễn tả bằng nhiều cách. Nhờ phép Rửa, ta đã được mai táng làm
một với Ngài trong sự chết ... , ta cũng bước đi trong đời sống mới (Rm 6, 4 ;
Cl 2, 12) ; Trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta nhờ thanh tẩy mà nhập vào
“Thân Mình độc nhất” (1Cr 12, 13) ; Phàm ai được thanh tẩy trong Đức Kitô (Gl
3, 27) ; Anh em đã lột bỏ con người cũ với các hành vi của nó, và đã mặc lấy
con người mới được canh tân (Cl 3, 10 ; Ep 4, 22-24).
Người
chịu phép Rửa đã tiếp nhận Lời của Đức Giêsu cách sâu xa(Cv 2, 41 ; 8, 35-36),
chia sẻ tư cách làm con của Ngài (Gl 3, 26 ; 4, 7), nhận lãnh Thánh Thần của
Ngài (Gl 4, 6), thông phần “cuộc sống hiện tại” của Ngài, được ghi dấu thời
viên mãn cánh chung (Cl 3, 1-4).
Vậy
phép Rửa được coi như một Tin Vui (Cv 2, 14-41 ; Mc 1, 4). Phép Rửa niêm ấn sự
liên kết với Đức Kitô. Đức Kitô đã chịu phép rửa trong nước (Lạy Chúa, 3,
21-22), nhưng phép thanh tẩy thực sự của Ngài (Mc 10, 38 ; Lạy Chúa, 12, 30)
không phải là phép rửa bằng nước, mà là cái chết đẫm máu vì nhân loại. Phép Rửa
Kitô-giáo làm cho chúng ta gặp gỡ, “qua nước”, Đấng đã chết và sống lại, làm
cho ta gắn bó với Đức Kitô nơi “cao điểm” hay “trọng tâm” cuộc sống của Ngài.
2. Sự hoán cải và ơn tha tội.
Phép Rửa trong Dothái-giáo và phép rửa của Gioan đã
có ý nghĩa hoán cải để được phép tha tội. Phép Rửa Kitô-giáo nối
kết sự hoán cải để được tha tội với mầu nhiệm Tử Nạn - Phục Sinh
của Đức Kitô (Cv 2, 38).
Khi
còn tại thế, Đức Giêsu cũng đã chịu thanh tẩy. Đó cũng là một cách tự biểu lộ
mình, làm chứng cho Chúa Cha. Ngài đã chống lại tội lỗi bằng lời nói (Mc 2,
10-12 ; Ga 15, 3),bằng cách cư xử (Mt 12, 22-32; Ga 4, 8), bằng những cử chỉ
đặc biệt : phép lạ chữa bệnh, thanh tẩy đền thờ, rửa chân cho môn đệ...
Qua
cái chết, công trình cứu thế của Ngài đạt tới cao điểm. Phép Rửa mang lại các
kết quả của công trình cứu thế trải dài
trong lịch sử (1Cr 6, 11 ; 1Pr 3, 21).
Sự
thanh tẩy và ơn tha thứ tội lỗi hướng tới ý nghĩa tròn đầy của phép Rửa là
“thánh hóa”, kết hiệp với Thiên Chúa Hằng Sống và Thánh Thiện (Ep 5, 26 ; 1Cr
6, 11).
3. Ơn Thánh Thần.
Theo Tân Ước, ơn Thánh Thần trong phép Rửa có quan
hệ mật thiết với Đức Kitô Phục Sinh và với ơn tha tội :
a. Quan hệ với Đức Kitô.
“Anh em được tẩy rửa, được tác thánh, được giải án
tuyên công, nhân danh Đức Giêsu Kitô và trong Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta
(1Cr 6, 11).
“Trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta được nhờ
thanh tẩy mà nhập vào Thân Mình độc nhất” (1Cr 12,13)
Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha ban Thần Khí viên
mãn (Ga 3, 34). Chúng ta thấy điều đó ngay trong cuộc đời tại thế (phép Rửa :
Lc 3, 22 ; sứ vụ : Lc 4, 14. 18 ; Cv 1, 2) ; (cuộc chiến chống thần dữ : Mt 4,
1 ; 12, 28 ; việc cầu nguyện : Lc 20, 2), cũng như khi Ngài đã Phục Sinh (Cv 2,
33 ; Ga 7, 39 ; 15,26 ; 16, 7. 14-15).
“Thiên Chúa đã sai Thần Khí Con của Người đến trong
lòng anh em” (Ga 4, 6).
Chính vì thế mà đức tin phép Rửa
hướng về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (2Cr 1, 21-22 ; Ep 1, 13 ; Mt 28, 19).
Ơn Thánh Thần cho thấy Đức Kitô
là Chúa, khai mạc thời cánh chung. Các ngôn sứ Cựu Ước đã loan báo ngày Thiên
Chúa đổ tràn Thánh Thần (Is 32, 15 ; Ed 36, 26 ; Ge 3, 1). Biến cố Ngũ Tuần thể
hiện lời loan báo đó (Cv 2, 16-21). Từ nay, toàn thể Dân Chúa “mang Thánh
Thần”. Nhưng giai đoạn phổ quát này có một ý nghĩa cánh chung. Hiện nay chúng
ta chỉ có bảo chứng (2Cr 5, 5 ; Ep 1, 14), khai ân của Thần Khí (Rm 8, 23).
Phép Rửa hướng tới ngày cứu độ (Ep 4, 30). Những người chịu phép Rửa được làm
con và thừa tự (Ga 4, 7). Họ phục vụ trong sự mới mẻ của Thần Khí (Rm 7, 6),
bước đi trong Thần Khí (Ga 5, 16), mang lại hoa quả của Thần Khí (Ga 5, 22).
b. Đức Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần để tha tội (Ga 20, 22-23).
Điều này, đã được báo trước trong
cuộc sống tại thế của Ngài. Ngay cả trước Phục Sinh, Đức Giêsu đã dấn thân vào
cuộc chiến chống lại ác thần với sức mạnh của Thần Khí (Mt 12, 28). Ngài hứa
ban cũng Thần Khí ấy cho các tín hữu bị bách hại hoặc còn thiếu hiểu biết (Mc
13, 11 ; Ga 16, 8-11).
Có hai cách nhận ra sự can thiệp
của Chúa Thánh Thần trong phép Rửa :
(1). Trước hết
phải có một cái khung nhìn rất rộng rãi.
Ơn Thánh Thần không gắn liền cách
toàn diện và tất yếu với nghi thức Rửa tội. Luca nhấn mạnh điều này, ghi nhận
việc thông ban Thánh
Thần có thể đi trước phép
Rửa (Cv 10, 44) hay
theo sau (Cv 8, 15-26 ; 19,
6).
Cv 2, 38 nối kết việc nhận lãnh
Thánh Thần với phép Rửa cách mềm dẻo (subordination - succession) : “Mỗi
người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội, và các người
sẽ được lĩnh ơn Thánh Thần”.
Tân Ước còn dùng cách nói “thanh
tẩy trong Thánh Thần” (Ga 1, 33 ; Mt 3, 11), không những chỉ khi nào có phép
rửa bằng nước (1Cr 12, 13), mà cả khi Thánh Thần tự biểu lộ (Cv 1, 5 ; 11, 16).
Ơn Thánh Thần có nhờ phép Rửa,
nhưng không gắn liền với phép Rửa như điều kiện duy nhất và tất yếu. Việc ban
Thánh Thần có một sự độc lập nào đó đối với nghi thức. Nhưng thường thì truyền
thống Kinh Thánh nối kết Nước và Thần Khí như những yếu tố cấu tạo phép Rửa
Kitô-giáo (Ga 3, 5 ; Tt 3, 5).
(2). Ơn Thánh
Thần trong phép Rửa phải được hiểu dưới nhiều khía cạnh khác nhau, qua những từ
ngữ và hình ảnh khác nhau, bổ sung cho nhau.
- Từ ngữ : Phaolô liệt
kê những danh sách các ơn và các đặc sủng của Thần Khí (Gl 5, 22 ; Rm 12, 14).
Cách hiện diện và tác động của
Thánh Thần cũng được nhìn bằng nhiều cách. Trước hết, có một từ ngữ chung : “Thánh
Thần được ban cho” (Cv 2, 38 ; 8, 20 ; 11,
17 ; 15, 8). Nhưng còn nhiều từ ngữ khác nhau nhấn mạnh “chiều sâu” của tác
động Thánh Thần : “Được đổ đầy Thần Khí” (Cv 2, 4), “Được uống (giải khát) cùng
Thần Khí” (1Cr 12, 13), “Thần
Khí cư ngụ trong...” (Rm 8, 11), Thánh Thần
“lưu lại” và “ở trong” (Ga 14, 17).
- Hình ảnh (biểu tượng).
Có ba loại biểu tượng chính :
+ Nước : - Thánh Thần được đổ
tràn (Cv 2, 17-33 ; Tt 3, 6).
- Thánh Thần “giải khát” (Ga 7,
37-39 ; 1Cr 12, 13).
- Ta được “chôn vùi” trong
Người.
+ Dầu xức : Việc xức dầu ban cho
hương thơm và thêm sức mạnh (2Cr 1, 21 ; 1Ga 2, 20-27).
+ Aán tín (con dấu) : (2Cr 1, 22 ; Ep 4, 30 ; Kh 7, 4 ; 9,
4).
Các biểu tượng có thể nối kết với
nhau, nhưng vẫn có ý nghĩa riêng :
+ Nước Rửa tội là biểu tượng cho
sự thanh tẩy và là nguyên lý sự sống.
+ Dầu xức là biểu tượng của tác
động thấm nhập và làm cho mạnh mẽ của Thần Khí.
+ Aán tín là biểu tượng cho sự
bền bỉ và chân thật.
Cả ba loại biểu tượng ấy đều phù
hợp để nối kết sự hiện diện sống động của Thánh Thần với lời nói và tác động
của Đức Kitô :
“Tự lòng Ngài có những sông tuôn chảy Nước Hằng
Sống” (Ga 7, 38).
Đức Kitô là Tôi Tớ Thánh của
Thiên Chúa, được Thiên Chúa xức dầu (Cv 4, 27 ; 10, 38).
Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha
niêm ấn (Ga 6, 27).
4. Sự sống trong Giáo Hội.
Trong Tân Ước, phép Rửa không
phải là việc cá nhân, mà là hành vi Thiên Chúa dùng để “hình thành” Giáo Hội.
Ý nghĩa và bối cảnh phép Rửa
Kitô-giáo đều có chiều kích Giáo Hội.
- Chúng ta không thể tự thanh tẩy, nhưng nhận lãnh phép Rửa từ một người khác (Cv 8,
38 ; 1Cr 1, 14-16). Ta chịu phép Rửa vì đã đón nhận Lời Chúa (Tin Mừng) từ một
nhân chứng (Cv 8, 12 ; 16, 14-15 ; 18,
8).
- Thời kỳ đầu trong Giáo Hội,
phép Rửa được cử hành trong cả
nhóm : gia đình, gia tộc (Cv 10, 47 ;
16, 15. 33).
- Phép Rửa khôngchỉ liên hệ tới
người nhận lãnh, mà là hành vi nhờ đó các chi thể mới gia nhập vào
Giáo Hội (Cv 2, 41. 47).
Giáo Hội là Giáo Hội phép Rửa, vì
ba ý nghĩa của phép Rửa được thể hiện trong Giáo Hội :
+ Thân Mình độc nhất của Đức Kitô
Phục Sinh (1Cr 12, 13a) ;
+ Môi sinh thông truyền ơn tha
tội ;
+ Dân Chúa mà Thánh Thần linh
hoạt (1Cr 12, 13b).
Các kitô-hữu sơ khai rất xác tín
về những điều này :
+ Những người xứ Samari được
thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu nhìn thấy phép Rửa của họ được hoàn tất và bao
gồm ơn Thánh Thần khi các Tông Đồ đến với họ (Cv 8, 14-17).
+ Sự “duy nhất cơ bản” giữa các
kitô-hữu phát xuất từ giá trị tập thể của phép Rửa : một phép Rửa duy nhất (Ep
4, 5), cử hành một lần duy nhất, đồng nhất cho mọi người ; kết hợp với cùng một
Thân Mình Duy Nhất của Đức Kitô (1Cr 12, 13), các tín hữu rất khác nhau và
thuộc về nhiều thế hệ (Gl 3, 27-28 ; 1Cr
12, 13 ; Cl 3, 11).
B. THÁNH THẦN VÀ GIÁO HỘI TRONG BÍ TÍCH THÊM SỨC.
1. Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức.
Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức
vừa là Thánh Thần của Giáo Hội, vừa là Thánh Thần của mỗi kitô-hữu.
Mỗi người chịu phép Thêm Sức đều
nhận lãnh và làm thành của riêng mình ơn Thánh Thần đã được ban cho Giáo Hội.
Như ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần
được ban cho tất cả và từng người, ngày Thêm Sức, Thánh Thần được chuyển thông
cho từng người lãnh nhận.
Cách hiểu này đưa tới những hệ
luận :
a.Trong phép
Rửa, Giáo Hội nhận lãnh và thông chuyển một Thần Khí ban đầu, một Năng Lực tái sinh.
Trong phép Thêm Sức, Giáo Hội thông ban một Thần Khí đã được vận dụng để phục
vụ Đức Kitô. Cùng một Thánh Thần, nhưng dưới hai khía cạnh khác nhau, bổ sung
cho nhau.
b. Sự triển nở
cá nhân của kitô-hữu gắn liền với việc phát triển của Giáo Hội là “Thân Mình
Đức Kitô”. Giáo Hội xây dựng trên Đức Kitô Phục Sinh là Trọng Tâm tối hậu và
duy nhất. Phát xuất từ Sự Sống của Giáo Hội, sự triển nở cá nhân không là một
hành vi lệ thuộc, nhưng là gắn bó với Đức Kitô ; công nhận rằng Ngài biểu lộ,
không những trong sự kết hợp thân mật giữa người kitô-hữu với Ngài, mà cả trong
sự thiết lập và biến chuyển của các “Cộng Đồng kitô-hữu” (= Giáo Hội địa
phương).
Hơn thế nữa, được rửa tội và thêm
sức, không phải là theo cách máy móc một số “tiêu chuẩn”, nhưng là đón nhận vào
tâm hồn mình Thánh Thần của Thiên Chúa và dần dần khám phá Thánh Thần trong mỗi
người là Thánh Thần mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội.
c. Khi lãnh nhận
phép Thêm Sức, các thụ nhân thể nghiệm - nhờ Giáo Hội và trong Giáo Hội - sự
hiện diện của Thánh Thần giữa loài người. Nhưng chính Giáo Hội cũng được mời
gọi đào sâu kinh nghiệm Thánh Thần.
Nhờ hồng ân “mới” đối với một số
người, phép Thêm Sức phải làm sống lại hồng ân trước đây đã ban cho những người
khác. Mỗi lần cử hành bí tích Thêm Sức, “củng cố” các kitô-hữu, chính Giáo Hội
cũng được “củng cố”.
d. Trách nhiệm
của Giáo Hội trở nên “rõ ràng” : đối với Giáo Hội, triển nở không phải chỉ là
vấn đề số lượng, mà còn là triển nở trong Thần Khí ; - cử hành Thêm Sức là lúc
Giáo Hội “biện biệt” Thần Khí, đồng thời để cho Thần Khí biện biệt ; - Thêm Sức
là một “hành vi” nghiêm chỉnh mà Giáo Hội cần để thể nghiệm sự triển nở của
mình và cảm nghiệm sự hiện diện của Thần Khí. Đó là một hành vi phục vụ, giúp
những người đã chịu phép Rửa khám phá cách thức mà Thánh Thần cư ngụ trong họ,
nhận ra từ sự triển nở của Giáo Hội những nẻo đường cho đời sống thiêng liêng
của họ.
e. Bí tích Thêm
Sức ghi một ấn tín mới trên những người đã chịu phép Rửa. Aán tín ấy có nghĩa
như sau : người chịu phép Thêm Sức là người đã chịu phép Rửa, và trên nền tảng
phép Rửa ấy, họ thể nghiệm trong Thần Khí “Giáo Hội là đời sống của họ, và
tương quan giữa họ với Thiên Chúa”. Người chịu phép Rửa hiểu cách tích cực
Thánh Thần của Thiên Chúa cũng là Thánh Thần của Giáo Hội, và “kinh nghiệm Giáo
Hội ” là môi trường kinh nghiệm Thánh Thần.
Nhờ Thánh Thần, kitô-hữu hiểu
cách thâm sâu Giáo Hội là gì. Người chịu phép Thêm Sức khám phá “trong mình”
Thánh Thần nuôi sống Giáo Hội, đón nhận Ngài - Đấng không ngừng linh hoạt các
Cộng Đồng Giáo Hội - vào trong cuộc sống. Chúa Thánh Thần “nội-giới-hóa” Giáo
Hội nơi người chịu phép Thêm Sức.
2 Thánh Thần do phép Thêm Sức giúp đào sâu kinh nghiệm
thiêng liêng của người kitô-hữu.
+ Kinh nghiệm thiêng liêng thực
sự là kinh nghiệm Thánh Thần. Kinh nghiệm thiêng liêng là một kinh nghiệm chiều
sâu, rất riêng tư, không thể vay mượn được, nhưng chính vì thế lại trở thành
nơi “thiết lập” những tương quan sâu xa nhất với tha nhân.
+ Kinh nghiệm thiêng liêng không
bao giờ hoàn tất, không gì hoàn toàn cố định trong ấy, dù dần dần kinh nghiệm
ấy hình thành những “trục căn bản” làm cho có một cơ cấu.
+ Kinh nghiệm thiêng liêng trong
Kitô-giáo như thế nào? - Quy chiếu về kinh nghiệm thâm sâu nhất là
kinh nghiệm về Thiên Chúa : Thiên Chúa ban cho con người Thần Khí của Người,
(nhưng đòi hỏi hoán cải, vì đường lối của Thiên Chúa không là đường lối con
người) ; - Nhưng có một điểm quy chiếu
lịch sử rõ rệt : Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội.
+ Ơn gọi của toàn thể nhân loại
không những là “sống theo Thần Khí”, mà còn là “nhận biết Chúa Thánh Thần”.
+ Phép Rửa là “bước vượt qua
quyết định” đưa một người đến chỗ nhận những điểm quy chiếu của Giáo Hội để
sống trong Đức Kitô và Thánh Thần, hướng về Chúa Cha. Phép Thêm Sức nhấn mạnh
khía cạnh “tiệm tiến”, đào sâu, làm sáng tỏ (seuils, reprises et maturations)
mầu nhiệm Vượt Qua trong đời sống kitô-hữu.
3. Thần Khí Thêm Sức biểu lộ dưới ba khía cạnh (Nội dung Ơn Chúa Thánh Thần).
Từ thế kỷ IV, nghi lễ Latinh đã
kê khai bảy ơn Chúa Thánh Thần, từ bản văn Is 11, 2 nói về các phẩm tính của
Đấng Messia. Bản dịch Vulgata cũng như bản LXX đều thêm vào một ơn cho đủ con
số 7, biểu tượng cho sự viên mãn.
Nghi lễ Latinh hiện nay vẫn giữ
lại cách kê khai ấy. Thánh Thần của phép Thêm Sức là Thần
Khí Khôn Ngoan, chỉ “kinh nghiệm thiêng liêng”
xét toàn diện ; là Thần Khí Hiểu Biết, làm cho chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong
đúc tin ; là Thần Khí Phán Đoán (conseil), làm cho chúng ta có thể thẩm định các hoàn cảnh ;
Thánh Thần Sức Mạnh và Can Đảm, giúp chúng ta “trung thành” trong cuộc sống thường nhật ; Thánh
Thần Tri Thức (Science), “xác định chuyên biệt
hơn” ơn hiểu biết để đưa tới hành động ; Thánh Thần “Hiếu Thảo” (piété), làm cho chúng ta yêu mến và tin tưởng Thiên Chúa ;
cuối cùng là Thánh Thần “Kính Sợ”, làm cho chúng ta biết “tôn thờ và kính trọng” Thiên Chúa.
Con số 7, cho thấy sự phong phú
của Thánh Thần, giúp ta thấy rõ những nét chính trong “tác động” của Thánh Thần
nơi chúng ta, tuy nhiên đó là một con số hơi lớn. Chính vì thế mà trong lịch sử
thần học đã có những cố gắng sắp xếp. Một mình thánh Tôma đã đưa ra bốn cách
sắp xếp khác nhau, hầu hết đều nhấn “ơn Sức Mạnh”. Quan điểm này của thần học
Tây phương phát xuất từ Fauste de Riez (thế kỷ V) :
“Cả cuộc đời chúng ta phải là một chiến thắng không
ngừng, trong thế gian mà chúng ta phải đi tới giữa muôn vàn hiểm nguy tạo nên
những kẻ thù vô hình. Nhờ phép Rửa, chúng ta được tái sinh để sống, sau đó
chúng ta được “củng cố” để chiến đấu. Trong phép Thánh Tẩy, chúng ta được rửa
sạch ; trong phép Thêm Sức, chúng ta được làm cho vững mạnh. Nếu chúng ta phải
chết ngay sau khi chịu phép Rửa, ơn tái sinh đã đủ. Nhưng để chiến đấu trong
cuộc đời sau đó, chúng ta cần thêm phép Thêm Sức... Phép Thêm Sức “trang bị cho
những ai phải đương đầu với những trận chiến ở trần gian”
Dấu nhấn trên ơn Sức Mạnh không
là điều mới lạ. Cyrille de Jérusalem cũng đã làm như vậy. Nhưng trong thần học
Tây phương, nó dần dần trở thành “độc chiếm”. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII, nó
được khai triển theo hai hướng : hướng 10
nhằm sự can đảm làm chứng cho Chúa và tuyên xưng đức tin trước mặt người
đời ; hướng 20 nhằm
sự khổ chế trong đời sống hàng ngày.
Thánh Tôma đúc kết hai chiều
hướng ấy thành một : “Phép Rửa giống như sự tái sinh thiêng
liêng cho đời sống Kitô-giáo. Phép Thêm Sức như một thứ ‘triển nở thiêng
liêng’, đưa con người tới chỗ trưởng thành trong đời sống đạo” (Sum. Theol., tertia pars. Qu. 72, a. 5).
Thần học này được Công Đồng
Vatican II xác nhận :
“Nhờ bí tích Thêm Sức, những người đã chịu phép Rửa
được trang bị một sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần” (GH 11).
“Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông đồ do chính
việc kết hiệp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông
đồ, vì phép Rửa sát nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, phép Thêm Sức làm cho họ
nên mạnh mẽ nhờ Quyền Năng của Chúa Thánh Thần” (TĐ 3).
“Mọi kitô-hữu, dù sống ở đâu, đều phải lấy gương
mẫu đời sống và chứng tá lời nói để biểu dương con người mới mà họ đã mặc lấy
nhờ phép Rửa, và biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà họ được củng cố nhờ
phép Thêm Sức, để những người khác nhìn thấy những việc lành của họ mà ngợi
khen Chúa Cha” (GH 11).
“Xin hãy gìn giữ trong tâm hồn các tín hữu Ngài
những ơn của Thánh Thần, để họ hãnh diện tuyên xưng trước mặt thế gian Đức
Giêsu Kitô chịu đóng đinh, thi hành các giới răn với lòng mến và quảng đại” (Nghi thức Thêm Sức 1971, Lời khuyên Nhập lễ).
CaÙch giải thích trên đúng, nhưng
còn thiếu sót. Vì nếu căn cứ bảng liệt kê các ơn Thánh Thần trong phụng vụ thì
còn nhiều khía cạnh khác không thể đồng hóa với “Sức Mạnh”, đặc biệt là khía
cạnh “tri thức”, “phán đoán”... Dựa vào các bản văn khác của Nghi thức, chúng
ta còn có thêm khía cạnh “hoàn tất đời sống Kitô-giáo” (Cyprien, Cyrille de
Jérusalem), khía cạnh “cánh chung” (Ambroise, Const. Apost., Théodore de
Mopsueste). Ngay cả bài giảng của Fauste de Riez, dù nhấn “Sức Mạnh” của Thánh
Thần, vẫn cho thấy rằng trong bí tích Thêm Sức, cũng một Thánh Thần ấy thông
ban cho chúng ta “ơn thưởng nếm Thiên Chúa” (gôut de Dieu), ơn khao khát sự
sống đời đời, ơn trở nên những “ con người
thiêng liêng”.
Ngoài bảy ơn Thánh Thần, còn có
kinh nghiệm về sự triển nở và hiệp nhất của Giáo Hội :
“Ước gì Con Duy Nhất của Chúa Cha chúc lành cho anh
chị em, vì Người đã hứa Thánh Thần Chân Lý sẽ luôn cư ngụ trong Giáo Hội của
Người ... Sau khi đã quy tụ anh chị em trong một Thân Mình, Người sẽ dẫn đưa
anh chị em đến niềm vui Nước Trời” (Nghi thức
Thêm Sức 1971, Lời chúc lành cuối lễ).
Ít nhất, chúng ta phải ghi nhận
ba chức năng của Chúa Thánh Thần được thông ban qua phép Thêm Sức:
a. Trong kinh
nghiệm Kitô-giáo, Thánh Thần là Thánh Thần Chân Lý (Ga 14, 17 và 16, 13). Người là nguồn Tri Thức và Thông
Hiểu. Người làm cho chúng ta nên sáng suốt để giải thích các biến cố và kiểm
nghiệm sự trung thành của chúng ta (Cv 5, 3 ; Ga 5, 19-23). Người mạc khải
Thiên Chúa, giúp chúng ta thấm nhuần lời Kinh Thánh, linh hoạt kinh nguyện của
chúng ta (Ep 6, 18), nuôi dưỡng trong chúng ta “linh tính đức tin” (sens de
Dieu, GH 12), làm cho chúng ta nhạy cảm với những tiêu chuẩn mà Giáo Hội đề
xuất cho đời sống đạo.
b. Thánh
Thần là “Sức Mạnh” (Cv 1, 8 ; Lạy Chúa, 24,
49), là Năng Lực thiêng liêng theo hai hướng :
+ Giáo Hội và Thánh Thần Truyền
Giáo (Cv 13, 4 ; 16, 6 ; 1Tx 1, 5 ; GH 17 và 24).
+ Sức Mạnh và động lực cho cuộc
sống hàng ngày (Gl 5, 19-25). Năng Lực của Thánh Thần còn hướng về Tương Lai,
Người là Nguồn Hy Vọng (Ep 1, 3 ; Lạy Chúa, 24, 49 ; Cv 1, 4 ; Gl 5, 5 ; Kh 22,
17).
c. Thánh Thần là Nguồn Hiệp Thông
và Duy nhất (2Cr 13, 13) : sự Duy Nhất phát
xuất từ Chân Lý và sự Triển Nở. Sự Hiệp Thông mà Thánh Thần phát triển nhằm
liên kết các nhóm và cá nhân. Các đặc sủng khác nhau nhằm một sự Hiệp Thông
tích cực và chân thật (1Cr 12, 14). Thánh Thần tiêu diệt tội lỗi và các mãnh
lực chia rẽ (Ga 20, 21-23), Người dẹp các chống đối (Cv 10 và Ga 4). Người là
Thánh Thần Phổ Quát.
4. Phép Thêm Sức cho thấy đời sống phép Rửa có chiều kích
Kitô và Thánh Thần.
Giáo Hội Tây phương thấy cần duy
trì thùa tác vụ Giám mục trong việc “gia nhập Kitô-giáo” ; điều này đưa tới sự
độc lập của phép Thêm Sức.
Giáo Hội Đông phương kết thúc
nghi lễ Rửa tội bằng phép Thêm Sức, dùng dầu được Giám mục hiến thánh.
Theo cả hai bên, phép Thêm Sức
mang tới cho người kitô-hữu ơn Thánh Thần ; hai bên đều công nhận một tương
quan mật thiết giữa Giáo Hội và Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức :
+ Phép Thêm Sức mời gọi các
kitô-hữu thể nghiệm Giáo Hội mà họ là thành viên ; Giáo Hội cần phải được khám
phá chiều sâu.
+ Giáo Hội nhận thức rằng Thánh Thần linh hoạt chính
mình, cũng là Thánh Thần phán xét chính mình. Giáo Hội không là sở-hữu-chủ,
nhưng chỉ là chứng nhân. Khi hướng các kitô-hữu về với Thánh Thần, Giám mục cho
thấy rằng ngài cũng tuỳ thuộc “Hồng Aân Thiên Chúa” : ngài ‘trao ban’ vì ngài
đã ‘đón nhận’.
+ Trong Giáo Hội, Thánh Thần
không bao giờ độc lập với Chúa Kitô. Chính Thần Khí của Đức Giêsu Kitô được
thông ban cho chúng ta. Giáo Hội vừa là “Kitô”, vừa là “Thánh Thần”.
+ Đức
Kitô là “Hồng Aân Thiên Chúa” dưới
khía cạnh khách quan, lịch sử và xã hội. Ngài là Ngôi Lời mạc khải Chúa Cha, là
Đầu của Giáo Hội. Tác Giả đầu tiên của các bí tích.
+ Thánh
Thần là “Hồng Aân Thiên Chúa” dưới
khía cạnh nội giới, khôn tả, vượt trên ngôn từ và hình thái. Chính vì thế, Đức
Kitô vẫn coi Thánh Thần như “thiết yếu”, nếu chúng ta muốn đi sâu vào mầu nhiệm
Vượt Qua.
Trong thực tế, đời sống kitô-hữu
thống nhất sự quy chiếu về Chúa Kitô và Thánh Thần. Lời Chúa vừa là ngôn ngữ,
vừa là linh hứng nội tâm. Bí tích vừa là hành vi của Đức Kitô, vừa là sự can
thiệp của Thánh Thần. Cả việc Tin-Mừng-hóa cũng thế, đời sống huynh đệ của các
kitô-hữu, việc chờ đợi Nước Chúa. Thừa-tác-vụ vừa là phục vụ Đức Kitô, vừa là
phục vụ Thánh Thần ; phục vụ cho sự hiện diện của các Ngài trong Giáo Hội và
thế giới. Tương quan của chúng ta với Thánh Thần “qua Đức Kitô” ; quan hệ giữa
chúng ta với Đức Kitô là “quan hệ Thần Khí”.
Không thể coi thường Thánh Thần
để làm nổi bật Đức Kitô ; cũng không thể coi thường Đức Kitô dể làm nổi bật
Thánh Thần. Chúng ta đều có cùng Cha nhờ cả Hai - Đức Kitô và Thánh Thần -, và
chúng ta không thể lựa chọn một trong hai con đường.
+ Không có Thánh Thần, Tin Mừng
của Đức Giêsu chỉ còn là “chương trình hay luật lệ”. Không có Thánh Thần, Cộng
Đồng Giáo Hội sẽ được tổ chức theo các quy tắc hiệu năng xã hội. Phải có Thánh
Thần để cho đời sống Kitô-giáo gìn giữ cho Danh Giêsu sức mạnh Phục Sinh, và
cho Thân Mình Giáo Hội những kinh nghiệm thiêng liêng đích thực.
Ngược lại, không có Đức Kitô,
Thánh Thần bị phó nộp cho ngộ nhận hay ngây ngô, thậm chí cho cả đam mê...
Chính Đức Giêsu ban Thánh Thần, trong cuộc sống và trong mầu nhiệm của Ngài, và
bằng một cách khác, trong Thân Mình xã hội của Ngài, nơi cụ thể và duy nhất để
biện biệt và làm chứng. Điều đó không có nghĩa là đóng khung Thánh Thần trong
các giới hạn của cơ chế Giáo Hội, hay muốn kiểm soát hoạt động của Người.
Chúng ta có thể kết luận rằng
phép Thêm Sức là một bí tích làm cho chúng ta có khả năng thực hành “lối sống
của phép Rửa, vừa Kitô, vừa Thánh Thần”. Dĩ nhiên, những bí tích khác cũng thế,
nhưng không có bí tích nào cho thấy rõ tương quan giữa Thánh Thần và Giáo Hội
cho bằng phép Thêm Sức.