Lm. Gêrađô Trần Công Dụ ,CM
Trong Giáo Hội ngày nay, người ta bắt đầu
khám phá lại ngôi vị và vai trò của Chúa Thánh Thần, không những trong suy tư
thần học và trong phụng vụ, nhưng còn chính trong sinh hoạt thường ngày của
Giáo Hội và của các kitô-hữu. Một luồng gió đang thổi mạnh trong Giáo Hội, đem
lại niềm hy vọng lớn lao nhất cho các cộng đồng kitô-hữu.
Một trong những điểm có thể ghi nhận là hoạt động của
Chúa Thánh Thần muốn hàn gắn vết thương của sự chia rẽ và chuẩn bị tái lập sự
hiệp nhất có liên hệ trực tiếp đến Đức Maria. Trong suy tư thần học sau Công
Đồng, sự chú tâm mới đến Chúa Thánh Thần cũng liên hệ đến khoa Thánh-Mẫu-học.
Người ta đi từ Giáo Hội đến Đức Maria chứ không theo chiều ngược lại như trước
kia (từ Đức Mẹ đến Giáo Hội). Một Giáo Hội tái khám phá mình được Thần Khí linh
hoạt tìm kiếm cách tự phát khuôn mẫu của mình nơi Đức Mẹ, Đấng do quyền năng
tác động của Chúa Thánh Thần đã thụ thai và sinh hạ Đầu và Cứu Chúa của mình.
Mối tương quan giữa Đức Mẹ và Chúa Thánh Thần là một khía
cạnh mới trong suy tư thần học của Giáo Hội Tây phương cũng như Đông phương.
Các Giáo phụ cũng như các bậc thầy thời Trung cổ chỉ lặp lại một vài dữ kiện
hiếm hoi trong Tân Ước, nghĩa là việc Đức Mẹ thụ thai do tác động của Chúa
Thánh Thần, với vài lời bình giải không có hệ thống. Ngày nay, ta thấy có nhiều
nỗ lực hệ thống hóa để xác định cách chính xác và diễn tả theo thần học mối
tương quan giữa Đức Mẹ và Chúa Thánh Thần.
Thế nhưng, trước tiên chúng ta cần lưu ý đến một vấn nạn
có liên quan đến vấn đề đại kết.
I. ĐỨC MARIA HAY CHÚA THÁNH THẦN ?
Trong
thời kỳ sau Công Đồng, người ta nhận thấy có sự giảm sút lòng sùng kính đối với
Đức Mẹ, nơi các tín hữu cũng có, nhưng nhất là trong các giới trí thức, linh
mục, tu sĩ ... Đã có một phản ứng chống lại một thứ thần học về Đức Mẹ quá trừu
tượng, dựa trên những suy luận về các đặc ân của Đức Mẹ ngoài bối cảnh Kitô-học
; chống lại một cách sùng mộ Đức Mẹ đứng bên ngoài cuộc canh tân phụng vụ, quá
dựa vào những mạc khải riêng tư và xa rời những dữ kiện Kinh Thánh.
Hơn
nữa, mối quan tâm về vấn đề hiệp nhất các kitô-hữu (đại kết) nơi các nghị phụ
Công Đồng đã đưa đến việc nhấn mạnh những điểm chung cho mọi kitô-hữu và gạt
sang một bên các kiểu nói gây tranh luận. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần
đưa đến một thái độ rất dè dặt đối với Đức Mẹ.
Đối
với phần đông người Tin Lành, lập trường Công Giáo xem ra coi nhẹ vai trò của
Chúa Thánh Thần và do đó, coi nhẹ vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô. Họ
đặc biệt khó chịu khi thấy chúng ta gán cho Đức Mẹ điều mà theo họ là vai trò
của Chúa Thánh Thần. Họ thường nghĩ rằng chúng ta hầu như đã đặt Đức Mẹ thay
chỗ của Chúa Thánh Thần và điều này gây trở ngại cho cuộc đối thoại đại kết và
ngăn chặn con đường tiến đến hiệp nhất.
Rất
nhiều người kitô-hữu ngoài Chúa Giêsu có cảm giác không thoải mái trước một vài
cách trình bày và kiểu diễn đạt của chúng ta về Đức Mẹ. Ngôn từ này xem ra có
một khuyết điểm chung là đặt Đức Mẹ thay thế cho Chúa Thánh Thần, gắn cho Đức
Mẹ điều thuộc về Chúa Thánh Thần.
Những
công thức như : “Per Mariam ad Jesum”, “Maria, Mater boni consilii” (Đức Mẹ chỉ
bảo đàng lành), “Consolatrix” (Đấng yên ủi), “Mediatrix” (Đấng trung gian),
“advocata” (trạng sư) ... gợi lên chính vai trò của Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn
đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, hình thành Chúa Kitô trong chúng ta, cộng tác
với một danh nghĩa độc nhất vào công trình cứu chuộc, là trạng sư (parakletos)
biện hộ cho chúng ta, Đấng an ủi chúng ta (consolator) ...
Đưa
ra nhận xét trên không phải để khẳng định rằng những công thức đó hoàn toàn sai
lạc và phải loại trừ. Chúng diễn tả một cách nào đó vai trò của Đức Trinh Nữ
trong mầu nhiệm hiệp thông các thánh. Vấn đề là vai trò tương tự và chủ yếu hơn
của Chúa Thánh Thần bị quên lãng, tạo nên một sự mất quân bình. Tại sao có nhiều
tác phẩm biện hộ cho vai trò đồng công cứu chuộc của Đức Mẹ trong khi đó người
ta không hề nói đến vai trò đồng công cứu chuộc cơ bản hơn của Chúa Thánh Thần
?
Vấn
đề là không loại bỏ mọi công thức gán cho Đức Mẹ nhưng những công thức này áp
dụng cách chính yếu và sâu xa hơn đối với Chúa Thánh Thần. Những lời phê bình
trên không nhằm đả phá hay kêu gọi chúng ta loại bỏ Đức Mẹ để thay thế bằng
Chúa Thánh Thần, nhưng định vị vai trò riêng của Đức Trinh Nữ trong tương quan
với Chúa Thánh Thần. Đây là một công việc khó khăn nhưng hữu ích và phong phú.
Chúng
ta xác tín rằng trước hết phải làm nổi bật vai trò ưu tiên tuyệt đối của Chúa
Thánh Thần, Thần Khí thánh hóa, trước khi minh chứng Đức Mẹ là Đấng được thánh
hóa cách tuyệt hảo, Đấng đã được Chúa Thánh Thần viếng thăm và, trong lời đáp
trả với thiên thần, đã tỏ cho thấy Ngài được Chúa Thánh Thần linh động ở một
mức độ sâu xa độc nhất vô nhị. Bởi lẽ, đức tin của Đức Mẹ đón nhận quà tặng của
Thiên Chúa chính là một tác động ưu biệt của Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh
Thần là nguồn mạch của mọi niềm tin. Sự cộng tác tự do và tích cực của Đức Mẹ
được nuôi dưỡng bởi Chúa Thánh Thần và thấm đượm Thánh Thần, Đấng tác động nơi
Mẹ cả ý chí lẫn hành động (Pl 2, 13). Đức Mẹ không có sáng kiến trước, chính
Chúa Thánh Thần mời gọi và ban cho Mẹ ân sủng để hoàn toàn tận hiến cho Ngài.
II. ĐỨC MARIA DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN.
Ngày
nay một luồng sáng mới chiếu rọi vào mối tương quan giữa Đức Mẹ và Chúa Thánh
Thần, chủ yếu nhờ hiểu biết sâu sắc hơn mạc khải về Chúa Thánh Thần trong Kinh
Thánh, cách riêng trong Tân Ước. Để tìm hiểu mối tương quan giữa Chúa Thánh
Thần và Đức Mẹ vào lúc Ngôi Lời nhập thể và trong ngày lễ Hiện Xuống, chúng ta
có Tin Mừng và sách Tông Đồ Công vụ của thánh Luca, còn thánh Matthêu thì chỉ nói
về biến cố Nhập Thể. Chúng ta sẽ tìm hiểu Chúa Thánh Thần tác động thế nào trên
một con người hay trên Giáo Hội, nhờ đó khám phá ra Chúa Thánh Thần đã thực
hiện điều gì nơi Đức Mẹ, theo thánh Luca. Sau hết, chúng ta cũng sẽ tìm theo
thánh Gioan có bổ túc gì thêm trong Tin Mừng của Ngài, khả dĩ giúp chúng ta
hiểu sâu hơn về mối tương quan giữa Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ.
A. ĐỨC MẸ VÀ CHÚA THÁNH THẦN THEO THÁNH LUCA.
1. Tin Mừng.
1, 28 : Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng !
Niềm
hân hoan của thời Đấng Messia mà các ngôn sứ thường mời gọi thiếu nữ Sion (Xp
3, 14-17 ; Dcr 2, 14 ; 9, 9) tràn
ngập tâm hồn Đức Mẹ. Đây là niềm vui của Chúa Thánh Thần (Gl 5, 22), niềm vui
của Thiên Chúa sinh ra Chúa Con trong trần gian. -Aân sủng mà Đức Mẹ được đổ
đầy chính là ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã chuẩn bị Đức Mẹ bằng ân sủng
của Ngài. Vì thế các giáo phụ thuộc truyền thống Đông phương gọi Mẹ Thiên Chúa
là Đấng Toàn Thánh (Panaghia) và ca mừng Mẹ là “Đấng không vương nhiễm tỳ vết
tội lỗi, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần nhào nắn và tác thành” (GH 56),
là nơi Chúa Cha tìm được chỗ cư ngụ cho Con và Thần Khí của Người (x. SGL
490-493; 721-722). Đào sâu hơn đạo lý về Chúa Thánh Thần, các giáo phụ còn hiểu
được rằng Chúa Thánh Thần là nguồn mạch từ đó phát xuất sự đầy tràn ân sủng nơi
Đức Mẹ và sự dư dật các ân huệ trang điểm cho Mẹ (TH Marialis Cultus số 26).
1, 35 : Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà...
Thánh
Luca trình bày Đức Mẹ như là Đấng đã được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Có những
yếu tố gợi lên một sự song song chặt chẽ giữa việc Chúa Thánh Thần đến trên Đức
Mẹ vào lúc Truyền Tin và việc Ngài đến trên Giáo Hội vào ngày Hiện Xuống. Thánh
Thần được hứa ban cho Đức Mẹ như là quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ đến trên
Ngài (Thánh Thần cũng được hứa ban cho các Tông Đồ như một quyền năng từ trên
ban xuống, Lc 24, 49 ; Cv 1, 8). Đức Mẹ, sau khi lãnh nhận Thánh Thần , bắt đầu
tán dương những việc cao cả Chúa làm ; các Tông Đồ, sau khi lãnh nhận Thánh
Thần, cũng bắt đầu công bố các kỳ công của Thiên Chúa (Cv 2, 11). Công Đồng
Vatican II nối kết hai biến cố này : trong nhà Tiệc Ly, “Đức Mẹ cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Đấng đã
bao phủ lấy Ngài trong ngày Truyền Tin” (GH 59). Sau khi Chúa Thánh Thần ngự
xuống trên Đức Mẹ, tất cả những ai Đức Mẹ được sai đến, thì đến lượt họ đều
được tác động bởi Thánh Thần (x. Lc 1, 41 ; 2, 27). Chắc chắn sự hiện diện của
Đức Kitô chiếu toả Thánh Thần, nhưng Đức Kitô ngự trong lòng Đức Mẹ và hoạt
động qua Ngài. Đức Mẹ xuất hiện như là hòm bia Thiên Chúa ngự hay là dền thờ
của Chúa Thánh Thần ; điều này được gợi lên qua hình ảnh “đám mây rợp bóng trên
Mẹ” (đám mây cũng là một biểu tượng của Chúa Thánh Thần), nhắc nhớ lại đám mây
sáng trong Cựu Ước là dấu chỉ sự hiện diện hay ngự đến của Thiên Chúa trong lều
hội ngộ (Xh 13, 22 ; 19, 16) hoặc trên khám Giao Ước (Xh 40, 35).
Vậy,
Chúa Thánh Thần tác động trong việc thụ thai đồng trinh của Đức Mẹ (câu 35a) và
dường như cả trong việc sinh hạ đồng trinh nữa (35b). Nếu ta hiểu việc “hài nhi sẽ sinh ra là thánh” (quod
nascetur sanctum) có nghĩa là một cách thánh : vô tì tích, nguyên vẹn, tinh
tuyền theo nghĩa nghi thức của truyền thống Lêvi (và do đó, là một cuộc sinh hạ
đồng trinh).
Giáo
Hội đã đón nhận dữ kiện mạc khải này và đã đưa rất sớm vào trung tâm của Kinh
Tin Kính (Kinh Tin Kính các Tông Đồ và của Công Đồng Nixê-Constantinope năm
381) : “Incarnatus est de Spiritu Sancto et ex Maria Virgine”. Do đó, Đức Mẹ
được nối kết với Chúa Thánh Thần bằng một mối dây liên kết khách quan, ngôi vị
và không thể hủy diệt : đó là bản thân Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể. Nếu
muốn tách rời Đức Mẹ ra khỏi Chúa Thánh Thần thì phải phân ly chính Đức Kitô.
Trong
cuốn “Khái luận về việc tôn sùng chân thật đối với Đức Trinh Nữ (Traité de la Vraie
dévotion à la Sainte Vierge), ở số 20, thánh Louis-Marie Grignon de Montfort
(1673-1716) đã gọi Đức Mẹ là Hiền Thê của Chúa Thánh Thần (Epouse du
Saint-Esprit), nghĩa là Chúa Thánh Thần hoạt động cùng với Đức Mẹ, nhờ Mẹ mà
phát sinh Đức Kitô và các chi thể của Người. Hình ảnh này có điểm bất tiện là
gợi lên hai đối tác ngang hàng với nhau và bổ túc cho nhau như trong hành vi
giới tính, còn đây lại là hoạt động thiêng liêng thuộc một lãnh vực khác hẳn.
Để bổ khuyết cho hình ảnh này, thánh Grignon de Monfort còn dùng một thuật ngữ
trong triết học kinh viện : Chúa Thánh Thần chuyển sang hiện thể (réduit à
l’acte) khả năng sinh sản của Đức Mẹ, nghĩa là khơi dậy từ bên trong những tiềm
năng làm mẹ của Đức Mẹ. Đặc điểm của Chúa Thánh Thần là hoạt động từ bên trong.
Theo
thánh Luca và các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên
Chúa làm cho con người có khả năng nói lên những lời và thực hiện những hành
động mà con người tự sức mình không thể làm được. Chúa Thánh Thần còn là quyền
năng thánh hóa, chiếm hữu con người, thay đổi tâm hồn và biến đổi trở nên một
tạo vật mới. Ta gặp thấy cả hai cách thế biểu hiện này của Chúa Thánh Thần nơi
Đức Mẹ.
Sau
Đức Kitô, Đức Mẹ là người được đặc sủng cao vời nhất trong lịch sử cứu độ,
không phải vì Ngài đã được nhiều đặc sủng, thực hiện nhiều phép lạ, nhưng vì
nơi Ngài, Chúa Thánh Thần đã thực hiện công việc kỳ diệu hơn hết mọi kỳ công
của Ngài : làm cho xuất hiện, không phải một lời khôn ngoan, một sấm ngôn, một
thị kiến nhưng chính là sự sống của Đấng Thiên Sai, Ngôi Lời hằng hữu của Thiên
Chúa.
Khi
dặt Đức Mẹ trong một tương quan hết sức mật thiết với Chúa Thánh Thần, thánh
Luca trình bày cho thấy Đức Mẹ như là tạo vật đầy Thánh Thần hơn hết, luôn hành
động dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần và là nơi Chúa Thánh Thần biểu lộ quyền
năng sáng tạo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Đức Mẹ không chỉ là một “nơi” cho
Thiên Chúa hoạt động, vì Thiên Chúa không đối xử với con người như những “nơi
chốn” hay dụng cụ, nhưng như những ngôi vị, những cộng sự viên, những đối tác.
1, 46-55 : bài ca Magnificat.
Cũng
như Đức Giêsu một ngày kia, được Chúa Thánh Thần tác động, hớn hở vui mừng cất
tiếng ngợi khen Chúa Cha (Lc 10, 21) ; các Tông Đồ đầy Thánh Thần cũng cao rao
những kỳ công của Thiên Chúa (Cv 2, 11) ; Đức Mẹ, sau khi được Thánh Thần ngự
xuống, cũng vội vã lên đường đến viếng thăm bà Elisabeth và cất lên bài ca
Magnificat tuyệt vời, nói lên niềm hớn hở vui mừng của Mẹ (Lc 1, 46). Chính
Luther cũng gán bài ca của Đức Mẹ cho tác động của Chúa Thánh Thần. Oâng viết :
“Muốn hiểu cho đúng bài thánh
ca ngợi khen này, phải ghi nhận rằng Đức Trinh Nữ Maria nói về kinh nghiệm
riêng của Ngài, sau khi đã được soi sáng và dạy dỗ bởi Chúa Thánh Thần”. Đức
Phaolô VI, trong Tông huấn Marialis Cultus ở số 26, cũng viết
: “Trong bài ca đượm màu sắc tiên
tri của Đức Mẹ, các giáo phụ ghi nhận có một ảnh hưởng đặc biệt của Chúa Thánh
Thần”.
2. Sách Công Vụ Tông Đồ.
1, 14 : Đức Maria trong biến cố Hiện Xuống.
Thánh Luca trình bày Đức Mẹ
chuyên cần cầu nguyện với các Tông Đồ, một số phụ nữ và các môn đệ khác trong
khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Luca chỉ nói đến Đức Mẹ
một cách rất vắn gọn, không thuật lại một cử chỉ hay lời nói nào của Mẹ. Tuy
nhiên, ta ghi nhận Đức Mẹ hiện diện vào lúc khởi đầu Giáo Hội cũng như Mẹ đã
hiện diện ở đầu Tin Mừng, ở đầu đời sống ẩn dật, ở đầu và ở cuối đời sống công
khai của Đức Kitô. Vai trò của Đức Mẹ trong biến cố Hiện Xuống không dựa trên
địa vị gia đình, vì đây là giai đoạn sau hết của công trình cứu chuộc qua đó
Giáo Hội sẽ được khai sinh. Đức Trinh Nữ can thiệp với tư cách là người cộng sự
viên trong kế hoạch cứu độ.
Thánh Luca đã cho thấy mối liên
hệ độc nhất nối kết Đức Mẹ với Chúa Thánh Thần, chóp đỉnh của lời Truyền Tin
của sứ thần Gabriel là loan báo Chúa Thánh Thần đến thực hiện việc thụ thai
đồng trinh. Nếu ta đem so sánh biến cố Nhập Thể với biến cố
Hiện Xuống, sự tương đồng dường như đòi hỏi có sự cộng tác của Đức Mẹ trong cả
hai trường hợp. Nếu Đức Trinh Nữ đã được mời gọi cộng tác trong việc
sinh hạ Đức Kitô, thì sự hiện diện của Đức Mẹ trong nhà Tiệc Ly có mục đích
cộng tác vào sự can thiệp kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong việc hình thành
Giáo Hội là điều rất hợp lý.
Mầu
nhiệm Thăm Viếng củng xác nhận vai trò này. Bà Elisabeth được đầy Thánh Thần khi Đức Mẹ cưu mang Đức Kitô dến viếng
thăm. Do đó, ta có cơ sở để nghĩ rằng, nếu Đức Kitô muốn tuôn đổ Thánh
Thần xuống trên toàn thể Giáo Hội thì Người cũng thực hiện điều đó nhờ một sự
cộng tác của Đức Mẹ.
Tư cách cộng sự viên trong hy
tế cứu chuộc cũng đem đến một lý do chính yếu cho sự hợp tác của Đức Mẹ vào mầu
nhiệm tuôn đổ Thánh Thần. Thực vậy, việc tuôn đổ Thánh Thần này là kết quả của
hy tế thập giá. Đức Mẹ đã kết hợp mật thiết một cách vô song vào hy tế này, từ
khi nói lời Fiat, lúc dâng Chúa trong đền thờ và giờ đây hoàn tất sứ mạng của
mình trong mầu nhiệm Hiện Xuống.
Sau
hết, do việc kết hợp với hy tế cứu chuộc trên thập giá, Đức Mẹ đã lãnh nhận
phẩm chức làm Mẹ các kitô-hữu. Sứ mạng này bao hàm một vai
trò đặc biệt của Mẹ trong việc hình thành và phát triển đời sống Kitô-giáo nơi
mỗi người, mà hồng ân Thánh Thần lại là ơn huệ cơ bản nhất từ đó phát sinh đời
sống Kitô-giáo, nghĩa là đời sống trong Thánh Thần. Chức làm mẹ thiêng liêng
của Đức Mẹ là làm mẹ theo Thánh Thần.
Do đó, chúng ta có thể khẳng
định, trong ngày Hiện Xuống, Đức Mẹ là Mẹ của Giáo Hội đang hình thành.
B. ĐỨC MẸ VÀ CHÚA THÁNH THẦN THEO THÁNH
GIOAN.
Ga 19, 25-27 : Đức Maria dưới chân thập giá -
Nước và Thần Khí (Ga 31-37).
Trong dịp lễ Lều (7, 37-39),
Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố : “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi,
hãy đến mà uống ! Như Kinh Thánh đã nói : từ lòng
Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Những lời này ám chỉ tảng
đá trong sa mạc mà ông Môsê đã dùng gậy đập vào. Tảng đá là hình bóng Đức Kitô, trở nên nguồn phúc lộc thần linh.
Để giải thích rõ hơn, thánh Gioan đã thêm vào những lời này :
“Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những
kẻ tin vào Người sẽ được lãnh nhận. Thật thế, bây giờ họ chưa nhận được Thần
Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh”. Nếu thánh Gioan
nhấn mạnh đến sự kiện ngay sau khi Đức Giêsu sinh thì, “nước đã chảy ra từ cạnh
sườn bị đâm thủng” (19, 34), thì chắc chắn ngài muốn gán cho hiện tượng này một
giá trị biểu tượng. Theo diễn ngữ thông thương trong Tin Mừng, nước
tượng trưng cho Thần Khí, tuôn chảy từ thân mình Đức Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Quyền năng lôi kéo Thánh Thần đến trong con cái.
Khi máu và mước chảy ra từ cạnh
sườn của Đấng Cứu Thế, thì người môn đệ, chứng nhân tận mắt, và Mẹ Đức Giêsu
còn đứng đó. Chúng ta có thể kết luận rằng cả
hai là những người đầu tiên đã nhận được dòng suối.
Thánh
Thần tuôn đổ xuống, vì là những người đầu tiên đến với Đấng Cứu Thế trong lòng
tin. Vậy khi nước hằng sống tuôn chảy như dòng sông từ
trên đồi Camvê, thì Đức Mẹ là người đứng sát bên thập giá đã nhận được một đợt
tuôn đổ Thánh Thần mới. Ta cũng được phép suy đoán rằng Đức Mẹ đã tiến
lại gần xác Đức Giêsu mà lấy tay hay vạt áo để lau lằn nước rỉ xuống từ vết
thương mở rộng. Nếu sự việc đã diễn ra như thế, thì khi đó Đức Mẹ đã nhận được
một dấu chỉ hữu hình hoa trái đầu mùa (hay khai ân) của Thánh Thần. Sau khi gục
đầu, Đức Giêsu “trao lại Thần Khí của
Người” (Ga 19, 30). Đức Mẹ đứng gần bên thập giá đã tiếp nhận sinh khí ấy,
đại diện cho Giáo Hội, là Evà mới, sinh ra từ cạnh sườn của Ađam mới, dưới chân
cây thập giá là cây đem lại sự sống mới, sự sống của Thần Khí. Ta có thể nói,
chính Đức Mẹ là người đầu tiên được thanh tẩy trong Thánh Thần, như là người
đại diện cho toàn thể Giáo Hội, là hình ảnh của Giáo Hội, là Nữ tử Sion cánh
chung, là Dân Mới của Thiên Chúa. Lễ Hiện Xuống theo
thánh Gioan (Pentecôte johannique) có thể nói đã bắt đầu từ cây thập giá, trên
đồi Canvê. Cần ghi nhớ rằng, cũng từ giờ này, Đức Mẹ đảm nhận
vai trò làm mẹ những kẻ được cứu chuộc. Vì thế, ta không thể nghi ngờ
rằng, một cách nào đó, Đức Mẹ đã nhận được quyền năng lôi kéo Thánh Thần xuống
trong tâm hồn con cái của Mẹ, không phải theo kiểu của các Tông Đồ, nghĩa là
nhờ quyền thừa tác của hàng tư tế (vì lẽ đó, Mê không có mặt trong nhà Tiệc Ly
chiều ngày Phục Sinh), nhưng theo cách riêng của Mẹ, như một người mẹ và theo
những yêu cầu do sứ mạng của Mẹ.
Trong bút tích của thánh Gioan
và Thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần như là nguyên lý hay ngôi vị thần linh đến lập
cư trong tâm hồn con người mới. Đó là Thần Khí thánh hoá, hơn
là Thần Khí thực hiện những việc lạ lùng. Thánh Thần, được liên kết ở
đây với nước, tỏ hiện như là nguyên lý của sự đổi mới nội tâm, làm cho con
người có khả năng tuân giữ luật của Thiên Chúa và, tựa như nước hằng sống, làm
nảy sinh một mầm sống mới.
Thánh Phaolô tổng hợp hai quan
điểm về Thần Khí : Thần Khí phân phát các đặc sủng và
Thần Khí tuôn đổ lòng mến trong các tâm hồn. Cả hai đều là
những biểu hiện của cùng một Thần Khí, nhưng cách thứ hai thì cao trọng và đáng
quý hơn (1Cr 12, 31). Vì lòng mến không bao giờ qua đi
(1Cr 13, 8) và trỗi vượt trên các đặc sủng mà có ngày sẽ mất (1Cr 12-13).
Vậy, Đức Mẹ đứng bên thập giá đã lãnh nhận hoa quả đầu mùa
của Thần Khí này.
III. TỔNG HỢP : ĐỨC MẸ VÀ CHÚA THÁNH THẦN.
Kitô-giáo là một giao ước giữa
hai tình yêu trong Đức Kitô : tình yêu của Thiên Chúa
đến với chúng ta là Chúa Thánh Thần và tình yêu nhân loại tinh tuyền nhất vươn
lên Thiên Chúa là Đức Mẹ. Sự gặp gỡ giữa hai tình yêu này hay là cái gút của
giao ước giữa Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ là Đức Giêsu Kitô. Bàn về mầu nhiệm thụ
thai đồng trinh, một nhà thần học người Nga (
Dĩ nhiên, sự đồng hóa bí nhiệm
này của tạo vật, được sát nhập vào Đức Kitô và được nâng lên trong tình nghĩa
thiết với Thiên Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa siêu
việt.
Để kết
thúc phần tìm hiểu về mối tương quan của Đức Mẹ với Chúa Thánh Thần, chúng ta
thử gợi lên một vài điểm tương đồng giữa Đức Trinh Nữ và Chúa Thánh Thần tuy
vẫn luôn luôn phải ghi nhớ sự phụ thuộc biệt loại.
A. VAI TRÒ TỪ MẪU.
Kinh Thánh nói đến một người
Cha ở trên trời và một người Con, nhưng để nói về Chúa Thánh Thần thì không hề
dùng những hình ảnh rút ra từ sự khác biệt giới tính hay những quan hệ gia
đình. Từ Dothái được dùng để chỉ Thần Khí là “Ruah” thuộc giống cái nhưng thực tại nó
biểu thị như hơi thở, khí hay gió thì lại vô ngã. Trong
Cựu Ước, sức mạnh hay thần lực là đặc tính chủ yếu của Thần Khí nhưng không gợi
lên một hình dung nào mang hình thái người nữ hay người mẹ. Tân Ước thì dùng từ “Pneuma”,
thuộc giống trung (neutre), cũng không biết đến một kiểu hình dung nào như thế.
Tuy nhiên, những hoạt động của
Thần Khí, nơi Thiên Chúa và trong lịch sử, có những nét tương đồng lạ lùng với
vai trò của một người mẹ.
Các kitô-hữu là con Thiên Chúa
trong sự hiệp thông với Chúa Con ; nhưng sự hiệp thông
và chức làm con này được thực hiện trong Thánh Thần. Chúa Cha sinh ra con cái
giống hình ảnh mình, nhưng con cái được sinh ra trong Thánh Thần, lớn lên và
sống tình con thảo trong Thánh Thần, như trong cung lòng một người mẹ, được dắt
dìu, dưỡng dục như bởi một người mẹ. Trong phụ tính vĩnh hằng của Người, Chúa
Cha không ngừng nuôi dưỡng Chúa Con trong cung lòng Chúa Thánh Thần là sự sống
thần linh, quyền năng và sự thánh thiện vô biên. Dưới trần gian, Chúa Con đã
được nuôi dưỡng trong cung lòng Đức Mẹ. Vai trò giáo dục mọi con cái Thiên
Chúa, Chúa Thánh Thần trước tiên đã chu toàn đối với Chúa Giêsu và nhờ Đức Mẹ.
Chúa Thánh Thần dạy chúng ta cầu nguyện ; Đức Mẹ đã
dạy Con Ngài cầu nguyện, gợi cho con những cử chỉ, thái độ và lời nói. Người Mẹ
nói bên tai con và Chúa Thánh Thần làm thức tỉnh tâm hồn, làm thốt lên tiếng
gọi thân thương đầy tin tưởng của trẻ thơ : “Abba !”
khiến bà mẹ phải hết sức ngạc nhiên. Và như vậy, sự cộng tác
chặt chẽ giữa Chúa Thánh Thần và người mẹ trong công trình nhập thể được tiếp
diễn.
B. CHỨNG TÁ.
Chúa Thánh Thần là chứng nhân của Thiên Chúa (1Ga
5, 6 ; Ga 15, 26), một chứng nhân kín đáo, ẩn mình
trong chứng tá của mình, trên bình diện siêu việt. Đức Mẹ là
chứng nhân đầu tiên của công trình Chúa Thánh Thần. Ngài có sự khiêm nhường của
người chứng. Ngài quy hướng mọi sự về Thiên Chúa trong
bài ca Magnificat (Lc 1, 46-55). Chứng tá của Ngài không phải là chứng
tá bên ngoài, chính thức, bằng lời rao giảng, như chứng tá của các Tông Đồ,
nhưng là chứng tá sống động và nội tâm, tựa như chứng tá của Chúa Thánh Thần
trong tâm hồn các tín hữu và là một chứng tá trong Thánh Thần. Cảnh Thăm Viếng
minh chứng điều này (Lc 1, 39-45) : trong dịp này, Đức
Mẹ không nói trước, thế mà bà Elisabeth vẫn được đầy Thánh Thần.
C. MỐI DÂY LIÊN KẾT.
Có lẽ đây là điểm tương đồng
sâu sắc nhất giữa Đức Mẹ và Chúa Thánh Thần : Đức Mẹ đã là mối dây nhân loại
đầu tiên nối kết Ngôi Lời với loài n. Chính Mẹ đã làm cho Ngôi Lời có thể hội
nhập vào xã hội loài người. Việc Thiên Chúa đến hòa nhập với con người đã được
thực hiện nhờ Mẹ và với Mẹ : Mẹ chính là mầm mống của
Giáo Hội. Nhà thần học Tin Lành Luther, Hans Asmussen, đã nhận thức rõ điều này
và gọi Đức Mẹ là một “chi thể gắn kết” (Bindeglied :
un membre liant). Chức năng này tương tự chức năng của Chúa
Thánh Thần là mối dây liên kết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và trong Giáo Hội.
Vai trò liên kết của Đức Mẹ trên bình diện nhân loại, nhờ sự ưng thuận và việc
làm Mẹ của Ngài, Chúa Thánh Thần thực hiện vai trò ấy trên bình diện thần linh
và siêu việt. Chúa Thánh Thần làm phát sinh nơi Mẹ lời ưng thuận của lòng tin
nói lên nhân danh loài người, cũng như việc thụ thai
và sinh hạ đồng trinh là sự tiếp nối sự ưng thuận bên trong thể xác.
Để kết thúc, chúng ta có thể tóm tắt mối liên hệ
giữa Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ bằng ba thuật ngữ sau đây :
Đức Mẹ là nơi ưu tuyển.
Đức Mẹ là đền thờ, là cung thánh sống động của Chúa
Thánh Thần, cũng như các kitô-hữu và Giáo Hội là đền thờ Chúa Thánh Thần. Đức
Mẹ một cách ưu việt là nơi Chúa Thánh Thần ngự, phát sinh ra Đức Kitô. Sự hiện
diện năng động của Chúa Thánh Thần thiết lập nơi Mẹ nguyên lý cho sự cư ngụ của
Chúa Thánh Thần nơi con người, lan rộng đến hết mọi người và được thực hiện
cách trọn vẹn trong ngày cánh chung.
Đức Mẹ là dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.
Đức Mẹ là dấu chỉ, biểu tượng
của Thánh Thần cách riêng qua mầu nhiệm thụ thai đồng trinh bởi Thánh Thần mà
các bản văn Kinh Thánh gợi lên. Trước hết có lời sấm về Đấng Emmanuel (Is 7,
14) được Mt 1, 23 lặp lại : “Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu : Này cô nương ẽ thụ thai và sinh
con và sẽ gọi tên con là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’”. Từ này được lập lại
trong Kh 12, 1 để chỉ Mẹ Đấng Messia và Giáo Hội là cộng đoàn các kẻ tin : “Một dấu lạ vĩ đại hiện ra trên trời : một
người phụ nữ...”. Đức Mẹ là bản sao của Chúa Thánh Thần trên bình diện nhân
loại (“la doublure humaine de l’Esprit” theo kiểu nói
của cha Durwell trong “l’Espeit Saint de Dieu” p. 168). Đức Giêsu sinh ra bởi
Thiên Chúa Cha, được thụ thai trong Thánh Thần và
trong một thiếu nữ Dothái. Việc làm mẹ của Đức Mẹ là sự
chuyển vị trên bình diện nhân loại hành động của Chúa Thánh Thần bên trong mầu
nhiệm Thiên Chúa. Hơn hết mọi tạo vật khác, Đức Mẹ đã được đảm nhận
trong vai trò từ mẫu và giáo dục của Chúa Thánh Thần, Ngài là bản sao trên bình
diện nhân loại của Chúa Thánh Thần, Đấng là hiện thân lòng từ bi thương xót của
Chúa Cha (2Cr 1, 3).
Đức Mẹ là hình ảnh của Chúa Thánh Thần :
Thật vậy, Đức Mẹ là dấu chỉ -
hình ảnh (icône) của Chúa Thánh Thần chứ không phải là dấu chỉ – dụng cụ, dấu
chỉ để chiêm ngắm hơn là để xử dụng, vì Ngài trước hết là mẫu mực. Vì thế,
chúng ta có thể gọi Đức Mẹ là “ảnh thánh”
của Chúa Thánh Thần , thực hiện sự kết hợp giữa Con
Thiên Chúa và loài người, việc nhập thể của Ngôi Lời giữa lòng thế giới, khuôn
mẫu của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người, một sự hiệp thông lan rộng
đến hết mọi người và cho đến muôn đời,
trong sự hiệp thông của các thánh. Mẹ là dấu chỉ hoàn hảo tại thế của Chúa
Thánh Thần, Đấng hình thành Đức Kitô nơi bản thân con người và tập hợp con người
trong sự duy nhất của Đức Kitô. Chính trong đường hướng này mà Đức Mẹ được gọi
là “hình ảnh cánh chung
của Giáo Hội” hay “sự thực hiện tối
cao của Giáo Hội”, Hiền Thê của Đức Kitô. Khuôn mặt
“Maria” phô diễn khía cạnh nội tâm và thâm sâu của mầu nhiệm Giáo Hội hơn khuôn
mặt “Phêrô”. Vì thế, sau ngày Hiện Xuống, Đức Mẹ rút vào nơi thanh vắng,
thinh lặng, sống ẩn giấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa (Cl 3, 3). Mẹ khai sáng
trong Giáo Hội ơn gọi sống đời ẩn dật và cầu nguyện, bên cạnh đời sống Tông Đồ
và hoạt động. Khác với các Tông Đồ, có thể nói, Đức Mẹ ở lại trong nhà Tiệc Ly
để cầu nguyện, chỉ cho ta thấy, trong Giáo Hội, hoạt động, co dù là vì Nước
Trời, chưa phải là tất cả, Giáo Hội còn cần đến những tâm hồn cầu nguyện để
lãnh nhận ơn Thánh Thần, trước khi lao mình vào thế giới. Đức
Mẹ là nguyên mẫu của Giáo Hội cầu nguyện này.
Tất cả con người và cuộc đời
của Đức Trinh Nữ Maria trong lịch sử cứu độ là một sự biểu lộ và thực hiện mẫu
mực của Chúa Thánh Thần là Đấng, có thể nói, mở rộng cộng đoàn Ba Ngôi bằng
việc thần hóa con người, bằng sự hiệp thông của các thánh trong Đức Giêsu Kitô.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý siêu việt và thiêng liêng của công trình ân sủng này, đã thiết lập nơi Đức Mẹ nguyên lý nhân loại và
thể chất của công trình yêu thương đó trong các thụ tạo. Trong hết mọi sự, từ
việc thụ thai Vô Nhiễm đến lời Xin Vâng trong biến cố Nhập Thể, từ dấu lạ đầu
tiên của Đức Giêsu cho đến cái chết của Ngài do Chúa Thánh Thần cảm hứng và qua
đó Đức Giêsu trao ban Thần Khí (Ga 19, 30) ; từ lễ Hiện Xuống cho đến ngày cánh
chung ; Đức Mẹ, trong sự lệ thuộc hoàn toàn, là nơi chốn và là hình ảnh của
Chúa Thánh Thần, là kiểu mẫu hữu hình và là sự thể hiện lý tưởng của sự hiệp
thông thần linh mà Ngài làm phát sinh và thực hiện trong Giáo Hội. Đức Mẹ hoàn
toàn tuỳ thuộc vào Đức Kitô và hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa Thánh Thần. Ngài
thực là kiệt tác của Chúa Thánh Thần. Vì thế, việc chiêm ngắm Đức Mẹ, hình ảnh
tuyệt vời của Chúa Thánh Thần, không làm thiệt hại điều gì cho Chúa Kitô và
Chúa Thánh Thần. Ngược lại Chúa Thánh Thần muốn dùng kiệt tác đó để dạy chúng
ta noi theo Đức Kitô. Không một nghệ sĩ, một danh hoạ nào lại nghĩ rằng mình bị
xúc phạm khi thấy đám môn sinh ngồi chung quanh kiệt
tác của mình tấm tắc ca ngợi và ngây ngất chiêm ngưỡng lâu giờ để cố bắt chước
hoạ lại, thay vì chỉ đọc những gì thầy viết về nghệ thuật hội hoạ. Vì thế,
người kitô-hữu mong ước uốn nắn đời sống mình theo
hình ảnh của Đấng đã đón nhận Đức Kitô và trao tặng Đức Kitô cho thế giới, rồi
họ cầu nguyện với Mẹ để sự đồng hóa này được thực hiện nơi họ. Xác tín rằng Đức Mẹ cộng tác với hành động của Chúa Giêsu và Chúa
Thánh Thần, với tư cách là khuôn mẫu và là Đấng chuyển cầu. Mầu nhiệm
đời sống Kitô-giáo sẽ thiếu mất một chiều kích quan trọng nếu loại bỏ hay coi
thường vai trò của Đức Mẹ. Người ta có lý mà phủ nhận việc gán ghép cho Đức Mẹ
điều thuộc riêng về Chúa, nhưng thật là một sai lầm nghiêm trọng và tai hại nếu
cố tình tự khép kín trước ảnh hưởng thầm kín của Đức Mẹ đối với đời sống trong
Đức Kitô và Thánh Thần của Người.