ĐGM
Phaolô Bùi Văn Đọc
Bài 1
Phân tích cấu trúc Tín Biểu
Nixê-Constantinope, chúng ta có thể chia các mầu nhiệm ra làm ba nhóm : nhóm Israel là mầu nhiệm Thiên Chúa Duy Nhất và Ba
Ngôi ; nhóm II là các mầu nhiệm Nhập Thể - Khổ Nạn - Phục Sinh ; nhóm III là
mầu nhiệm “Ngũ Tuần” với sứ vụ của Chúa Thánh Thần và sự thiết lập Giáo Hội. So với tín biểu Nixê, thì tín biểu Constantinope vừa khai triển
điều khoản Chúa Thánh Thần, vừa thêm điều khoản Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện,
Công Giáo và Tông Truyền.
Trong
Giáo Hội Latinh, người ta thường bỏ đi giới từ in trước chữ Ecclesia. Chỉ có thể dùng thành ngữ “credere in” đối
với Thiên Chúa, vì chỉ một mình Người là Cùng Đích của mọi loài. Khi giải thích chữ “credere in Ecclesiam”, các thần học gia kinh
viện cho câu ấy có nghĩa là tôi tin Chúa Thánh Thần, Đấng linh hoạt Hội Thánh.
Ngoài
một vài yếu tố Thánh-Linh-học trong thần học về Giáo Hội tương đối hiếm hoi,
Giáo-Hội-học của Giáo Hội Latinh trước đây đặt nặng yếu tố cơ chế hơn. Nhờ trong Công Đồng Vatican II có luồng gió mới thổi tử Giáo Hội
Đông phương, tình trạng bắt đầu thay đổi. Tương quan
giữa Chúa Thánh Thần và Giáo Hội càng ngày càng được chú trọng.
I. CHÚA THÁNH THẦN “ĐỒNG THIẾT LẬP” GIÁO
HỘI.
Thành ngữ “đồng thiết lập” của
Cha Congar rất phù hợp để diễn tả tương quan giữa Chúa Thánh Thần và Giáo Hội.
1. Khoa
Giáo –Hội-học mang màu sắc hộ giáo trước đây có khuynh hướng đưa Giáo Hội trở
về với Đức Giêsu tiền phục sinh. Ngược lại,
ngày hôm nay một số nhà thần học như Hans Kung, L. Boff lại có khuynh hướng coi
nhẹ tương quan Giêsu - Giáo Hội. Dĩ nhiên, không thể chối rằng, khi còn
tại thế, Đức Giêsu đã thấy trước và đã có ý định thiết lập Giáo Hội và cũng tạo
nên “nhóm 12” là nhóm cơ bản ; nhưng Giáo Hội chỉ khai sinh thực sự khi Thánh
Thần được ban (DeV 25).
Điều
này phải làm cho chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa cứu độ của biến cố “Ngũ Tuần”. Hiện
Xuống hay Ngũ Tuần không chỉ là “phụ trương” của cứu chuộc. Khi được siêu tôn,
vị Thượng Tế vĩnh cửu là Đức Kitô cầu xin Cha ban Thánh Thần (Ga 14, 16) ; và
để đáp lại lời khẩn cầu đó, Chúa Cha sai Thánh Thần và tuôn đổ Thánh Thần
xuống. Như vậy sự siêu tôn hay thăng thiên của Đức Kitô có giá trị như một lời
khẩn nguyện Thánh Thần (Epiclèse). Thánh Thần đến, Giáo Hội khai sinh, thời đại
cánh chung bắt đầu (Cv 2, 16).
Phải
hiểu cho đúng “sử tính” của biến cố Ngũ Tuần. Cũng
như sự Phục Sinh của Đức Giêsu xảy ra trong lịch sử, nhưng vượt trên lịch sử,
không chỉ là một sự kiện hoàn toàn thuộc về quá khứ, biến cố Hiện Xuống đã xảy
ra, nhưng vẫn không ngừng xảy đến. Đức Kitô luôn chuyển cầu
cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha. Lời khẩn nguyện trường
kỳ của Ngài làm cho có sự Hiện Xuống không ngừng của Chúa Thánh Thần qua các bí
tích. Mục tiêu của tất cả công trình cứu độ của Đức
Kitô là các tín hữu được nhận lãnh Thánh Thần.
Tân Ước dùng hình ảnh “Đền Thờ”
để diễn tả tương quan giữa Giáo Hội và Chúa Thánh Thần. Giáo Hội là Đền Thờ của
Chúa Thánh Thần. Trong phép Rửa, Người kitô-hữu nhận lãnh Thánh Thần như bảo
chứng phần rỗi. Thánh Thần thực sự cư ngụ trong Người đã chịu
phép Rửa (1Cr 6, 19). Cũng Thánh Thần ấy bao phủ cả
Công Đồng Giáo Hội. Chính Đức Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần, nhờ đó các
kitô-hữu được xây dựng trở nên “Nhà” của Thiên Chúa (Ep 2, 20-22). Đức Kitô là viên đá sống động làm nên tòa nhà thiêng liêng, hàng tư
tế thánh dâng hy tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa (1Pr 2, 5).
2. Các giáo phụ nhấn mạnh tương quan giữa Chúa Thánh
Thần và Giáo Hội. Đối với các ngài, Giáo Hội chưa phải là một
thực tại đã hoàn tất. Chúa Thánh Thần không chỉ là sức
mạnh làm cho Giáo Hội lập lại cái đã có, trái lại Ngài không ngừng linh hoạt và
làm cho Giáo Hội càng ngày càng phong phú. Giáo Hội là
nơi Thánh Thần “trổ bông” (Hippolyte, Traditio apostolica 35, c. 41).
Một hình ảnh rất phong phú của thánh Irênê là hai bàn tay của Thiên Chúa để chỉ Thánh
Thần và Ngôi Lời không ngừng nhào nặn Giáo Hội. Trong Giáo Hội có chứa đựng Ơn
Thông Hiệp với Chúa Kitô
là chính Chúa Thánh Thần, bảo chứng phần rỗi, bảo đảm đức tin và
thang bắt lên tới Thiên Chúa (Adv. Haer. 3, 24, 1).
Trong thần học của các giáo phụ, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần gắn
liền với sự duy nhất của Giáo Hội. Jean Chrysostome viết : Nếu
Thánh Thần không hiện diện, Giáo Hội không tạo thành một sự duy nhất vững chắc
; còn nếu Giáo Hội vững chắc trong sự duy nhất, đó là dấu hiệu có Thánh Thần
hiện diện (Oratio in Pentec. 4). Theo
thánh Augustinô thì tương quan Chúa Thánh Thần - Giáo Hội được diễn tả
bằng phạm trù Hiệp Thông và Lòng Mến. Là tác phẩm của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội
là Hồng Aân của Tình Yêu Thiên Chúa muốn hiệp nhất loài người trong thế giới
này. Đối với Augustinô, ly giáo không chỉ là vấn đề kỷ luật, mà là một lạc giáo
Thánh-Linh-học, là ra khỏi ngôi nhà lòng mến, là chối từ Thánh Thần được biểu
hiện bằng sự kiên trì lưu lại và sự hòa hợp, hòa giải. Đối với Augustinô, tư
tương Thánh-Linh-học về Giáo Hội đòi buộc phủ nhận quan niệm chia cắt Giáo Hội
thành một bên là Thánh Thần, bên kia là cơ chế.
3. Các yếu tố tư tưởng nói trên
đã đưa Huấn Quyền và thần học trước Vatican II tới chỗ khẳng định Chúa Thánh
Thần là Linh Hồn của Giáo Hội, ví dụ Đức Lêô XIII trong thông điệp Divinum
illud munus (1897) : Nếu Đức Kitô là Đầu của Giáo Hội, thì Chúa Thánh Thần là
Linh Hồn (DS 3328). Thành ngữ đó được thông điệp Mystici
Corporis sử dụng lại (DS 3808). Nguy cơ của thành ngữ
này là Nhất-tính-thuyết Giáo Hội, đồng hóa Thánh Thần với Giáo Hội. Nhiều người không chấp nhận thành ngữ này vì nó giới hạn hoạt động
của Thánh Thần trong Giáo Hội hữu hình và muốn tuyệt đối hóa Giáo Hội. Đức Lêô XIII và Đức Piô XII sử dụng thành ngữ ấy dựa trên
Augustinô. Thục ra Augustinô không khẳng định Chúa Thánh Thần là linh
hồn của Giáo Hội nhưng nói rằng Điều mà linh hồn làm cho thân xác, Thánh Thần
làm cho Giáo Hội :
“Anh chị em hãy coi linh hồn làm gì trong thân xác. Linh
hồn cung cấp sự sống cho mọi chi thể : linh hồn thấy
nhờ đôi mắt, nghe nhờ lỗ tai, ngửi nhờ lỗ mũi, nói nhờ lưỡi... Linh hồn hiện
diện trong mọi chi thể, để cho mọi chi thể được sống ;
cho mọi chi thể sự sống và cho mỗi chi thể phận vụ riêng. Mắt không nghe, tai không thấy... Giáo Hội của Thiên Chúa
cũng vậy. Thiên Chúa làm phép lạ trong một số vị thánh, nói sự thật nơi
một số vị khác... Điều mà linh hồn làm cho thân xác con người, Thánh Thần làm
cho Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội : Thánh Thần thực
hiện trong toàn thể Giáo Hội diều mà linh hồn làm cho các chi thể của cùng một
thân xác”.
Rõ ràng
đó là một Giáo-Hội-học được xây dựng trên mẫu “thân thể”. Chính
vì thế mà thánh Tôma nhấn mạnh đây chỉ là so sánh loại suy. Hiến Chế
Giáo Hội không xử dụng lại thành ngữ, nhưng nói một cách tế nhị hơn : “Người đã cho thông dự vào Thánh Thần Người, cũng một
Đấng Duy Nhất hiện hữu nơi Đầu cũng như nơi các chi thể, làm cho sống, hiệp
nhất và hoạt động trong toàn thể Thân Mình, đến nỗi các Thánh Phụ đã ví nhiệm
vụ Chúa Thánh Thần với công việc mà nguyên lý sự sống tức linh hồn hoàn thành
trong thân xác” (GH 7).
Chúng ta ở trên bình diện chức năng, chứ không trên bình diện hữu thể. Trên
bình diện hữu thể, linh hồn là “mô thức bản thể” của thân xác ; sự duy nhất
giữa linh hồn và thân xác là sự duy nhất bản thể, điều không được phép khẳng
định về Thánh Thần trong Giáo Hội. Sự kết hiệp giữa Thánh
Thần với Giáo Hội khác với sự kết hiệp giữa Ngôi Lời với nhân tính của Đức
Giêsu. Ngôi-hiệp nơi Đức Kitô làm cho Ngôi Lời là chủ thể của mọi hành vi. Sự kết hiệp giữa Thánh Thần với Giáo Hội là tương giao
hiệp thông, không
loại trừ các chủ thể nhân loại trong Giáo Hội, tự do và trách nhiệm của họ, sự
trung thành và bất trung, sự thánh thiện và tội lỗi của họ. Vì lý do đó, Giáo
Hội không thánh thiện như Đức Giêsu, các hành vi vủa Giáo Hội không đương nhiên
là hành vi của Chúa Thánh Thần.
Trong trường hợp giữa Chúa Thánh Thần và Giáo Hội, tốt hơn nên dùng phạm
trù bí tích. Vatican II không minh nhiên gọi
Giáo Hội là bí tích của Chúa Thánh Thần, nhưng tính bí tích của Giáo Hội lồng
trong chiều kích Thánh-Linh-học. Trong hiến chế về phụng vụ thánh, sự
khai sinh của Giáo Hội có liên hệ tới cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Kitô chịu
đóng đinh : “Vì chính từ cạnh sườn Chúa Kitô chịu chết
trên thập giá, đã phát sinh bí tích lạ là Giáo Hội (PV 5).
Trong
GH 8 có so sánh bản tính nhân loại của Chúa Kitô với cơ chế xã hội của Giáo Hội : “Nhân tính mà Ngôi Lời Thiên Chúa mặc lấy, phục vụ
Người như cơ quan cứu rỗi sống động và kết hợp với Người cách bất khả phân ;
cũng thế, toàn thể cơ cấu xã hội của Giáo Hội phục vụ Thánh Thần Chúa Kitô,
Đấng làm cho Giáo Hội sống động và tăng trưởng” (Ep 4, 16).
Giáo Hội là dụng cụ (organon) của Thánh Thần giống như nhân tính của
Ngôi Lời là dụng cụ cho hoạt động của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Trong
GH 9, tính bí tích của Giáo Hội cũng
được lồng trong Thánh-Linh-học : “Cũng như dân Israel theo xác thịt, khi đang
lữ hành trong sa mạc được gọi là Giáo Hội của Thiên Chúa, dân Israel mới tiến
bước trong thời đại này ... cũng được gọi là Giáo Hội Chúa Kitô (Mt 16, 18). Thực vậy chính
Người đã lấy máu mình mà chuộc lấy Giáo Hội đó (Cv 20, 28). Người đổ
tràn Thánh Thần và ban các phương thế thích hợp để kết hiệp thành một xã hội
hữu hình”.
GH 48
nói rõ sứ vụ của Chúa Thánh Thần là thiết lập Giáo Hội thành bí tích cứu độ phổ
quát : “Khi từ kẻ chết sống lại, Người đã sai Thánh
Thần ban sự sống đến với các môn đệ và nhờ Thánh Thần thiết lập Thân Thể Người
là Giáo Hội như bí tích phổ quát cứu rỗi”.
GH 59,
khi nói về Đức Maria trong nhiệm cục cứu rỗi, cũng nhấn mạnh vai trò của Thánh Thần : “Thiên Chúa không muốn bày tỏ mầu nhiệm cứu rỗi nhân
loại cách long trọng trước khi đổ tràn Thánh Thần Chúa Kitô đã hứa... Đức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Đấng
đã bao phủ lấy ngài trong ngày truyền tin”.
Con đường của Vatican II là con đường của Kinh
Thánh : mầu nhiệm vô hình của Thánh Thần trở nên cụ thể, hữu hình trong thực tế
xã hội của Giáo Hội. Có những ví dụ rất cụ thể như bài tường thuật ngày Hiện
Xuống trong sách Công Vụ, những cách nói của Phaolô :
1Cr 2, 4 : “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời khôn khéo hấp
dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên
Chúa”.
1Cr 12,
7 : “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì
lợi ích chung”.
Giáo Hội là sự biểu lộ của Thánh Thần cũng giống như nhân tính của Đức
Kitô là hiển linh của Ngôi Lời. Cũng như
nhân tính Đức Kitô là dụng cụ (organon) của Ngôi Lời, thực tại nhân loại của
Giáo Hội (những con người trong Giáo Hội) là dụng cụ của Thánh Thần.
Từ ý
niệm Giáo Hội là Bí Tích của Thánh Thần, có thể rút ra một số hệ luận :
a. Không được coi Giáo Hội như
tái bản cuộc đời Đức Giêsu, nhưng phải coi đó là biến cố của Thần Khí Đức Kitô.
Tương quan giữa Đức Giêsu và Giáo Hội không chỉ là tương quan giữa người sáng
lập và tổ chức mình thành lập : tương quan thời gian.
Mà còn là một tương quan bí tích : trước đó là Đức
Giêsu dọn đường cho Giáo Hội, sau đó là Đức Kitô trong Thần Khí đang sống trong
Giáo Hội. Không có Giáo Hội, nếu không có Thánh Thần. Mà cũng không có Thánh
Thần được ban nếu không có Giáo Hội, bởi vì đâu có Thánh Thần là đó có Giáo Hội
và mọi ân sủng (Irênê, Adv. Haer. 3, 24, 1). Không thể tách
rời Thánh Thần với Đức Kitô.
Giáo Hội luôn luôn là
chính mình, nhưng cũng luôn mới mẻ. Biến cố cứu độ không tái diễn y như cũ
trong không gian và thời gian, mà là dấu chỉ của sự viếng thăm tự do và bất ngờ
của Thánh Thần. Giáo Hội
luôn đánh giá cao ký ức,
truyền thống, là để không ngừng mở ra cho hơi thở tự do và mạnh mẻ của Thánh
Thần. Chỉ như vậy mới có thể trung thành với Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi
mãi. Ký ức và truyền thống không phải để cho chúng ta luyến
tiếc quá khứ, nhưng để sống hôm nay và mở ra cho ngày mai.
b. Quan điểm Thánh-Linh-học về
Giáo Hội, coi Giáo Hội như một thực tại nhân loại thấm nhuần sự hiện diện của
Thánh Thần giúp chúng ta tránh được hai sai lầm lớn về Giáo-Hội-học : chủ thuyết duy nhiên coi Giáo Hội hoàn toàn như những
tổ chức trần gian khác ; chủ thuyết duy nhiệm đề cao yếu tố siêu nhiên và vô
hình trong Giáo Hội đến mức coi thường yếu tố nhân loại và hữu hình trong ấy. Đó là hai sai lầm mà Đức Lêô XIII coi như tương đương với hai lạc
giáo Kitô-học là thuyết Nestorio và nhất-tính-thuyết.
Giáo
Hội không lẫn lộn với Thánh Thần, nhưng cũng không đối đầu với Thánh Thần : không phải tất cả là Thần Khí cũng không phải hoàn
toàn xa lạ với Thần Khí. Giáo Hội có khi ở xa, có khi ở gần Thánh Thần. Giáo
Hội chỉ là bí tích, nghĩa là dấu chỉ hữu
hiệu sự hiện diện của Thánh Thần, chứ không phải là Thánh Thần. Giáo Hội không phải là Lễ Hiện Xuống đã hoàn tất, mặc
dù là bước khởi đầu của Hiện Xuống. Giáo Hội không hoàn toàn
trong suốt đối với Thánh Thần, vì đang sống một lịch sử mang dấu vết tội của
các chi thể. Thánh Thần hiện diện thực sự, nhưng chỉ là khai ân, là tiền
dự hướng về
viên mãn cánh chung.
c. Vì là bí tích của Thánh Thần,
Giáo Hội không thể chấp nhận sự đối kháng giữa đoàn sủng và cơ chế. Giống như
bí tích Thánh Thể, Giáo Hội được cấu tạo bởi hai yếu tố, yếu tố nhân loại và
yếu tố thầnlinh:
“Giáo
Hội là xã hội tổ chức theo phẩm trật, và Nhiệm Thể Chúa Kitô, đoàn thể hữu hình
và cộng đoàn thiêng liêng ; Giáo Hội tại thế và Giáo
Hội dư tràn của cải trên trời không được quan niệm như hai thực thể, nhưng chỉ
là một thực thể phức tạp, duy nhất, do yếu tố nhân loại và thần linh kết thành”
(GH 8).
Trên cả
hai bình diện này, Giáo Hội vừa tùy thuộc Đức Kitô, vừa tùy thuộc Chúa Thánh
Thần, vì Chúa Thánh Thần cũng là “đồng tác giả” của cơ chế, và Đức Kitô cũng là
tác giả của Hiệp Thông và đoàn sủng. Một đàng chúng ta phải coi các thừa tác vụ
cũng là ân sủng (1Cr 12, 8 - 10. 28-30), là đoàn sủng
(Ep 4, 7). Đàng khác Giáo Hội không chỉ là cơ chế thuần túy
nhân loại, mà là Nhiệm Thể Đức Kitô. Nếu có những
trương lực, đó là vì Thánh Thần vừa bởi Ngôi Lời, vừa phân biệt với Ngôi Lời.
Thánh Thần bảo đảm sự kết hợp giữa hai yếu tố, tổng hợp yếu tố nhân loại và yếu
tố thần linh, truyền thống và mới mẻ, trung thành và tiến bộ...
Chúng ta có thể đúc kết vai
trò của Chúa Thánh Thần đối với Giáo Hội nhờ GH 4 :
“Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực
hiện trên trần gian đã hoàn tất (x. Ga 17, 4), Chúa Thánh Thần dược sai đến
trong ngày lễ Ngũ Tuần để thánh hóa Giáo Hội mãi mãi, và như thế những ai tin
sẽ được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong một Thần Khí duy nhất (x. Ep 2,
18). Chính Ngài là Thánh Thần ban sự sống, là mạch nước vọt lên sự sống vĩnh
cửu (x. Ga 4, 14 ; 7, 38-39), nhờ Ngài, Chúa Cha hồi sinh những kẻ đã chết vì
tội lỗi, đợi đến khi phục sinh thân xác hay chết của họ trong Chúa Kitô (x. Rm
8, 10-11). Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như
ngự giữa đền thờ (x. 1Cr 3, 16 ; 6, 19). Trong họ Ngài cầu nguyện và chứng nhận
họ là Nghĩa tử (x. Gl 4, 6 ; Rm 8,
15-16.26). Ngài thông đạt cho Giáo Hội toàn thể chân lý (x. Ga 16, 13). Ngài
thống nhất Giáo Hội trong hiệp thông và phục vụ. Ngài xây dựng và dẫn dắt Giáo
Hội bằng nhiều ân huệ khác nhau theo phẩm trật và đoàn sủng, trang bị Giáo Hội
bằng hoa quả của Ngài (x. Ep 4, 11-12). Nhờ sức mạnh Phúc Aâm, Ngài làm tươi
trẻ, không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo Hội đến sự hoàn hợp với Phu Quân.
Thực vậy, Chúa Thánh Thần và Hiền Thê nói cùng Chúa Giêsu : ‘Xin hãy đến !’ (x.
Kh 22, 17)”.
II. CHÚA THÁNH THẦN TẠO LẬP GIÁO HỘI BẰNG
LỜI.
Giáo
Hội là tác phẩm của Ngôi Lời (creatura Verbi), và do đó cũng là tác phẩm của
Thánh Thần. Giáo Hội sinh ra từ Lời ; các Tông Đồ nhận lãnh mệnh lệnh truyền
giáo từ Lời của Đức Kitô (Mt 28, 18-20). Nhờ Phúc Aâm mà
Phaolô sinh ra các tín hữu trong Chúa Kitô Giêsu (1Cr 4, 15). Lời qui tụ
và sinh ra Giáo Hội, không một mình nhưng cùng với Thánh Thần. Cộng đồng
kitô-hữu tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và không ai có thể nói Giêsu là Chúa, mà
không bởi sức mạnh của Thánh Thần (1Cr 12, 3). Cho đến ngày cánh chung, Chúa Thánh Thần cùng hoạt động với những người rao giảng,
làm cho lời và các việc hữu hình của Giáo Hội trở nên phong phú nhờ ân sủng.
Nơi nào không rao giảng Chúa Kitô, nơi ấy Thánh Thần không hoạt động, vì sứ vụ
của Thánh Thần là làm nên Giáo Hội Kitô, kêu gọi và quy tụ các chi thể của Giáo
Hội ấy ; nên ngoài Giáo Hội ấy không ai có thể đến với Đức Kitô.
A. CHÚA THÁNH THẦN VÀ LỜI NÓI.
Trong truyền thống Isaia, Đấng
Messia được coi như con người của Thánh Thần và Lời (x. Is
11, 1-4). Ở đây Lời và Thánh Thần như song đối với
nhau. Đề cập đến một số đoạn khác trong Isaia về Người Tôi Tớ Giavê hay
về Đấng Messia, chúng ta đếu thấy vai trò nổi bật của Thánh Thần, ví dụ Is 42, 1 ; 59, 21; 61, 1 : Phần Ta, này là giao ước của Ta với
chúng, Giavê phán : Thần Khí Ta trên ngươi, và các lời của Ta đặt trên miệng ngươi
sẽ không rời miệng ngươi, khỏi miệng dòng giống ngươi, khỏi dòng giống của dòng
giống ngươi...
Trong Eâdêkiel, tương quan giữa Thánh Thần và Lời
còn được nhấn mạnh hơn. Sứ vụ tiên tri
của Êdêkiel gắn liền với Thánh Thần. (x. Ed 2, 1-2 ; 3, 24 và đặc biệt chương
37). Theo tiên tri Gioel, dấu chỉ thời đại cánh chung là việc ban tràn đấy
Thánh Thần cho mọi tạo vật (Ge 3, 1 và Cv 2, 16-21).
Tương
quan mật thiết giữa Thánh Thần và Lời không chỉ trên bình diện lịch sử, mà còn
trên bình diện Tạo Dựng, thiên nhiên : “Bởi Lời Giavê, các tầng trời đã được
dựng nên, bởi Hơi Khí miệng Người có các cơ binh hết thảy” (Tv 33, 6).
Sự liên kết giữa Thánh Thần và Lời cũng rất rõ rệt trong Tân Ước. Ngôi
Lời Nhập Thể bởi quyền năng Đấng Tối Cao là Thánh Thần (Lạy Chúa 1, 35). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, thì có Thánh Thần xuống trên Người và
có tiếng phán từ đám mây (x. Lạy Chúa 3, 22). Trong Tin Mừng Gioan,
Thánh Thần và Lời mật thiết với nhau hơn cả : “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì
nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô
hạn” (Ga 3, 34). Đối với Đức Giêsu, Thánh Thần không là một sở hữu vay mượn, mà
là sở hữu riêng : “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí
và là Sự Sống” (Ga 6, 63). Hoàn tất công trình cứu độ đối với Chúa Giêsu là thông
ban Thần Khí (x. Ga 19, 30 ; 20, 22). Thánh Thần được
ban cho Giáo Hội sẽ dạy các tín hữu mọi sự và nhắc lại mọi lời của Đức Giêsu
(Ga 14, 26).
Theo
sách Công Vụ, sứ vụ tiên tri gắn liền với hồng ân Thánh Thần (Cv 2, 4 ; 4, 8. 31 ; 5, 32 ; 6, 10 ...). Điều này cũng rõ rệt nơi
Phaolô : “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời
chúng tôi nói, mà còn có Quyền Năng, có Thánh Thần” (1Tx 1, 5 ; xem thêm 1Cr 2,
4-5 ; 2Cr 3, 3 ; Rm 15, 18-19).
Thánh Thần không chỉ tác động nơi người giảng mà còn tác động nơi người
nghe (Gl 3, 2. 5. 14 ; 5, 5 ; Ep 1, 13). Lời đi vào trái tim do ảnh hưởng nội tâm của Thánh Thần.
Trong sách Khải Huyền, Đức Kitô và Thánh Thần cùng ngõ lời với Giáo Hội. Các thư gởi cho các Giáo Hội là của Con Người, nhưng đều kết
thúc bằng câu “Ai có tai thì hãy nghe Thánh Thần phán với các Giáo Hội” (Kh
2-3).
B. CHÚA THÁNH THẦN VÀ LỜI VIẾT.
Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa được viết ra dưới
tác động của Chúa Thánh Thần (MK 9).
Hiến
chế tín lý về Mạc khải dạy : “Kinh Thánh đã và đang
được Giáo Hội xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa
linh hứng và được ghi chép một lần cho muôn đời, Kinh Thánh phân phát cách bất
di bất dịch lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần
qua các tiên tri cùng các Tông Đồ” (MK 21).
Tất cả sách Kinh Thánh đầy tràn Thánh Thần Thiên Chúa, mang lại Hơi Thở
của Người. Thế giá của Kinh Thánh là ở chỗ có Chúa Thánh Thần
làm tác giả : “Lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính
nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người dã nói theo lệnh của Thiên Chúa” (2 Pr 1, 21).
Giống
như bởi Chúa Thánh Thần mà Lời đã trở thành lịch sử, cũng nhờ Thánh Thần mà
cuộc đời lịch sử của Đức Kitô lại trở thành Lời. Cả hai nhiệm vụ ấy của Chúa
Thánh Thần không tách rời nhau. Kinh Thánh là chứng từ của Chúa Thánh Thần về biến cố Kitô,
là sự hiến thánh lịch sử cứu độ dưới hình thái lời con người, giống như sự biến đổi lời của con người trở nên lời của
Thiên Chúa. Thánh Augustinô khẳng định sách Phúc Aâm chính là
miệng của Đức Kitô (Serm. 85, 1). Còn thánh Giêrônimô
thì bảo tôi nghĩ rằng Phúc Aâm của Đức Kitô cũng là thân thể của Ngài (Tract.
In Ps. 145). Công Đồng Vatican II tái khẳng định cách
mạnh mẽ sự hiện diện của Đức Kitô trong lời của Ngài :
“Chính Ngài lên tiếng trong Giáo Hội khi lời Kinh Thánh được đọc lên” (PV 7).
C. CHÚA THÁNH THẦN VÀ LỜI ĐỌC.
Vì là Lời của Chúa Thánh Thần, “Kinh Thánh phải được đọc trong cùng một
Thánh Thần khiến cho nó được viết ra” (M K 12). Chúa Thánh Thần là tác giả thứ nhất của Kinh Thánh, cũng là Người
chú giải thứ nhất. Đức Kitô để lại lời mạc khải, nhưng
Thánh Thần làm cho chúng ta có khả năng đón nhận mạc khải. Ngài tác động trên tâm hồn và hướng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa.
Thánh Thần là nguyên lý nội tâm hóa và là nguyên lý hiệp thông khi chúng ta đọc Kinh Thánh, Ngài làm cho
Kinh Thánh sinh ra trong Giáo Hội và cho Giáo Hội, phải được đọc cùng với Giáo
Hội và nhờ trung gian của Giáo Hội. Có như thế, Kinh Thánh mới được đọc cách
thần thiêng, nhờ đó chúng ta đọc được ý nghĩa của Thánh Thần, ý nghĩa ấy ở
trong bản văn, nhưng vượt trên bản văn.
Nếu
thiếu sự khẩn xin Chúa Thánh Thần, việc đọc Kinh Thánh chỉ là thu lượm những mãnh vụn khô cằn của mặt chữ chết.